Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN sự PHÁT TRIỂN tư DUY lý LUẬN của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về CON ĐƯỜNG QUÁ độ đi lên CHỦ NGHĨA xã hội TRONG THỜI kỳ đổi mới đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.69 KB, 21 trang )

1

SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Để đổi
mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết phải đổi mới tư duy. Thực
tiễn xã hội đã khách quan hóa vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư
duy lý luận đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc. Đổi mới tư duy lý luận của
Đảng, là vấn đề cấp thiết với sự lãnh đạo của Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản, có ý
nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Ở vị trí Đảng cầm quyền, có trọng trách
lãnh đạo đất nước và lãnh đạo xã hội đi lên CNXH, thực hiện mục tiêu lý tưởng của
CNXH ở Việt Nam.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhận định: “trong nhận thức của chúng ta về
chủ nghĩa xã hội có nhiều quan niệm lạc hậu”(1). Vì vậy, Đảng ta chủ trương đổi mới
tư duy lý luận trước hết phải bắt đầu từ nhận thức từ chủ nghĩa Mác - Lênin, về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Chính vì nhận thức của chúng ta về
những vấn đề lý luận nền tảng đó còn nhiều bất cập, không chỉ lạc hậu với cuộc sống
mà còn hiểu sai, dẫn đến giải thích sai và vận dụng không đúng những nguyên lý cơ
bản ấy vào thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, do đó đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa Mác - Lênin là xây dựng cở lý luận về con đường đi lên CNXH ở
nước ta, trang bị vũ khí lý luận và tư tưởng cho sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
1. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới.
1.1. Tính tất yếu phát triển tư duy lý luận của Đảng về con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. tr.125




2

* Đặc điểm tình hình của cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Đại thắng chiến dịch mùa xuân năm 1975 đã tạo ra bước ngoặt lịch sử có ý
nghĩa trọng đại, mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Đất nước hoàn toàn độc
lập, thống nhất, đi lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Trong thời kì mới, đất nước ta có
nhiều thuận lợi, song cũng có không ít khó khăn và thách thức mới.
Về thuận lợi:
- Tổ quốc thống nhất là điều kiện thuận lợi quan trọng để huy động các
tiềm năng, sức mạnh của thiên nhiên và con người (rừng và đất rừng, bờ biển,
lực lượng lao động…) trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Cơ sở vật chất kiõ thuật của chính quyền chế độ cũ miền Nam hầu như
còn nguyên vẹn được chính quyền cách mạng tiếp thu đã tạo điều kiện thuận lợi
cho công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn mới.
- Uy tín của Nhà nước Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế. Sự ra đời của nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào đã làm cho cục diện bán đảo Đông Dương có nhiều thay đổi, tạo
những bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam - Lào.
- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật (KHKT) của thế giới trong những
năm qua như vũ bão đã đạt nhiều thành tựu to lớn mở ra thời cơ cho các nước
đang phát triển có thể rút ngắn qúa trình tiến triển của mình từ hàng trăm năm
xuống còn vài chục năm.
- Xu thế toàn cầu hóa, công nghiệp hóa nền kinh tế thế giới ngày càng sâu
sắc mở ra khả năng hợp tác toàn diện giữa các nước (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội), là thời cơ hội nhập cho các nước đang phát triển trong công cuộc xây
dựng kinh tế đất nước.



3

- Bài học kinh nghiệm của nước ta rút ra được từ sự sụp đổ của các nước
Đông Âu và Liên Xô là những bài học kinh nghiệm xương máu, bổ ích cho việc
xây dựng đất nước và đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Về những khó khăn: Việt Nam với 30 năm liên tục tiến hành chiến tranh
giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc đã để lại hậu qủa tàn dư chiến tranh rất
nặng nề. Xu thế toàn cầu hóa, công nghiệp hóa nền kinh tế thế giới vừa tạo
thuận lợi cũng vừa là thách thức lớn cho hội nhập, cạnh tranh để tồn tại và phát
triển trong khi nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu chậm
phát triển so thế giới và khu vực. Là một nước vừa thoát khỏi chiến tranh thống
nhất hai miền Nam, Bắc lại tiếp tục đương đầu hai cuộc chiến tranh biên giới
phía Nam và phía Bắc đã hạn chế nguồn tài lực, vật lực cho qúa trình xây dựng
cả nước đi lên CNXH. Từ những đặc điểm lịch sử nêu trên đã đặt ra cho nước ta
những yêu cầu mới là:
- Tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
- Giải quyết những hậu qủa nặng nề của chiến tranh, khôi phục kinh tế,
từng bước ổn định đời sống nhân dân.
- Đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, toàn Đảng, toàn dân quyết tâm
xây dựng thành công CNXH. Đi lên CNXH trong điều kiện quốc tế có những
thận lợi và khó khăn mới; do vậy, con đường đi như thế nào là phù hợp với Việt
Nam là một nhiệm vụ phải tập trung giải quyết hàng đầu của Đảng ta.
Với trách nhiệm là đại biểu tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của dân tộc; Đảng ta đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân
dân Việt Nam giải quyết kịp thời những yêu cầu thực tiễn của cách mạng nước
ta trong thời kì mới.


4


* Quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo các nhà kinh điển, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội thoát thai từ chủ
nghĩa tư bản và có những đặc trưng cơ bản như sau: Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã
hội là nền đại công nghiệp cơ khí; Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; Chủ nghĩa xã hội điều tiết một
cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội và xoá bỏ sản xuất hàng hoá (trong chính sách
kinh tế mới, Lênin đã nói tới sự cần thiết của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã
hội); Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; Chủ
nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; Chủ nghĩa xã hội là sự
xoá bỏ giai cấp; Chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người khỏi mọi áp bức, kể cả áp
bức dân tộc và tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện; Chủ nghĩa xã hội
thực hiện quyền bình đẳng của xã hội; Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước
thực hiện chức năng của chuyên chính vô sản.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh, chủ nghĩa xã
hội không phải là một lý tưởng thực hiện phải khuôn theo nó, nó là một phong trào
hiện thực; chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên xuống,
nó là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Vì thế không nên quan
niệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội là việc gò ép, điều chỉnh thực tế sinh động,
phong phú cho phù hợp với những tư tưởng, những khái niệm và công thức được
đưa ra một lần và được coi là vĩnh viễn. Kinh nghiệm đã chỉ rõ rằng không thể quan
niệm chủ nghĩa xã hội là một xã hội cứng nhắc bất biến nào đó. Chủ nghĩa xã hội
hiện thực luôn luôn phát triển, do đó quan niệm của nó phải được phát triển.
Quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của
nhiều nước vốn từ nước nông nghiệp lạc hậu lên CNXH. Đó là một kiểu quá độ “
đặc biệt của đặc biệt” (tất nhiên phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, phức tạp, lâu
dài, chủ yếu vì chưa qua trường học dân chủ tư sản và chưa có cơ sở vật chất – kỹ


5


thuật hiện đại). Những nước thuộc các kiểu quá độ bỏ qua, đương nhiên phải có
Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, có đường lối xây dựng và bảo
vệ đất nước theo mục tiêu XHCN, tận dụng những thành quả của cách mạng XHCN,
của chủ nghĩa tư bản và của cả nhân loại để quá độ lên CNXH. Theo Lênin ở các
nước này cần khắc phục những biểu hiện của tính tiểu tư sản, tiểu nông trong Đảng
Cộng sản, trong quần chúng; chống mọi kẻ thù phá hoại,… để từng bước quá độ lên
CNXH phải trải qua rất nhiều “những bước quá độ nhỏ” , những hình thức trung
gian quá độ “đan xen giữa các thành phần và các mảnh của chủ nghĩa tư bản lẫn
CNXH,… Do đó, “các nước quá độ bỏ qua” dù là quá độ rút ngắn thì cũng không
thể nóng vội đốt cháy giai đoạn mà phải vận dụng đúng những quy luật khách quan,
những tiên đề và những điều kiện cụ thể để giành thắng lợi từng bước, trên tất cả các
lĩnh vực của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những luận giải cực kỳ phong phú về CNXH ở
Việt Nam. Người đã đặt tiền đề lý luận quan trọng cho sự nghiệp đổi mới hiện nay
của nhân dân ta. Người diễn đạt một cách giản dị, ngắn gọn và dễ hiểu rằng chủ
nghĩa xã hội là “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng
tốt”(2). Chủ nghĩa xã hội là “mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do” (3).
“Chủ nghĩa xã hội là làm cho người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến
bộ”(4)“Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu
chúng ta ngày càng sung sướng”, “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và sống một đời hạnh phúc”. Còn nhiều luận điểm quan trọng khác ở tầm phương
pháp luận đã đặt cơ sở lý luận cho Đảng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào sự
nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
* Thực trạng của đất nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2
3
4


Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.591
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.396
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.97


6

Từ cuối những năm 1970, nền kinh tế nước ta đứng trước những mất cân đối
nghiêm trọng đã đẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Biểu hiện
rõ nhất là sản xuất xã hội trì trệ, lạm phát tăng nhanh, lòng tin của nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của Nhà nước giảm sút. Cuộc khủng
hoảng này thật sự là một thách thức lớn đối với cả dân tộc ta.
Nguyên nhân sâu xa, cơ bản dẫn đến khủng hoảng do chúng ta đã nhận thức
sai, vận dụng không đúng chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã
hội, về thời kỳ quá độ, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong nhiều thập kỷ, quan niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội còn đơn
giản và chưa rõ ràng, chúng ta chưa hình dung được một xã hội xã hội chủ nghĩa phù
hợp với đặc điểm của nước ta. Đối với chủ nghĩa tư bản, chúng ta cũng chưa có sự
nghiên cứu đầy đủ và toàn diện, khách quan với tư cách là một hình thái kinh tế - xã
hội, chưa thấy rõ những mặt tiêu cực cần phủ định và những mặt tích cực cần phải
chọn lọc để kế thừa. chủ nghĩa
Về cơ chế quản lý, đã kéo dài quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp. Với mô hình kinh tế hiện vật, với phương thức quản lý tập trung và kế hoạch bị
áp đặt từ bên trên đã dẫn đến sự phát triển chủ nghĩa quan liêu trong bộ máy Nhà
nước và trong các tổ chức kinh tế.
Với tinh thần tự phê bình và đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ:
“Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những
khuyết diểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân”(5).

Những khuyết điểm trong lĩnh vực tư tưởng chính là sự lạc hậu về tư duy, sự
bất cập về nhận thức, và đó là lý do phải đặt ra yêu cầu về đổi mới tư duy. Đổi mới
tư duy thực chất là xây dựng cơ sở lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và
5

Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết ĐHĐBTQ lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.27


7

quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là trang bị vũ khí lý luận và tư tưởng
cho sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta
Thực trạng nước ta từ cuối những năm 1970 đã bước vào một cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài, đó là thách thức lớn nhất đối với cả dân
tộc ta và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất đòi hỏi Đảng ta phải nhận thức, đổi
mới tư duy lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Mặt khác, từ cuối những năm 1970 - đầu những năm 1980, xu thế đổi mới,
cải cách đã diễn ra khá mạnh mẽ trên thế giới. Đó cũng là nhân tố tác động đến quá
trình đổi mới tư duy lý luận ở nước ta và đòi hỏi chúng ta phải đổi mới kịp thời.
Những nhân tố tác động ấy là: Tình hình đổi mới, cải cách, cải tổ của các nước xã
hội chủ nghĩa trên thế giới; Vào thời gian đó, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu kỳ diệu trong mọi lĩnh
vực. Yêu cầu nhận thức lại để trên cơ sở đó bảo vệ và phát triển CNXHKH, chủ
nghĩa Mác - Lênin trở thành một yêu cầu cấp bách của cuộc sống.
1.2. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trước thời kỳ đổi mới ( trước 1986 ).
Trước đổi mới, quan điểm về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở nước
ta, chịu ảnh hưởng sâu sắc về nhiều mặt các quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc,
phổ biến và rõ nét nhất là chịu ảnh hưởng của mô hình Xôviết. Đây cũng là tình hình
chung trong tất cả các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Đại hội lần thứ II của Đảng ta đã xác định “con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta sẽ quanh co và dài”, phải trải qua một thời gian dài gồm nhiều giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất có nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc;
giai đoạn thứ hai có nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa
phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế
độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba có nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho


8

chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội” (6). Những quan điểm của Đại
hội lần thứ II thể hiện một sự quá độ thận trọng, dần từng bước lên CNXH.
Quan điểm tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa trong giai đoạn này thể hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, không đánh giá
đúng tình hình thực tế, vi phạm quy luật khách quan. Có thể nói Đảng ta đã đề ra
quan điểm về thời kỳ quá độ, nhưng chưa hình dung rõ nội dung của nó với những
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, thời gian thực hiện. Đại hội lần thứ IV khi xác định
khoảng 20 năm cho thời kỳ này, đã không tính được hết những khó khăn của một
nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá, đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ
dài và phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ
Đến Đại hội lần thứ V, Đảng nêu lên khái niệm “chặng đường đầu tiên của
quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất lớn về
mặt lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa của nó thể hiện ở chỗ giúp chúng ta nhận thức rõ
ràng rằng, quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa dứt
khoát phải trải qua một giai đoạn đặc biệt mà nội dung của giai đoạn này khác hẳn
nội dung của giai đoạn đầu tiên của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH.
Để thấy được sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về CNXH, không chỉ
nhìn nhận những quan niệm trước đây, mà còn phải tìm thấy những nguyên nhân dẫn
đến nhận thức đó, đánh giá nó trên những quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể.
Thứ nhất, cần phải đánh giá đúng những tính đặc thù lịch sử của Việt Nam

trong quan hệ với tính phổ biến của CNXH hiện thực thế giới. Quá độ lên CNXH với
điểm xuất phát thấp, từ xã hội nông nghiệp truyền thống, từ chế độ thực dân nửa
phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới CNXH; bước quá độ tới CNXH lại
không đồng nhất ở mỗi miền do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền với chế
độ chính trị khác nhau.
Thứ hai, sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, vào lúc mà Việt
Nam có điều kiện triển khai các nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước
6

Lê Mậu Hãn (chủ biên) (1998), ĐCSVN - các đại hội và hội nghị Trung ương, Nxb CTQG, Hà Nội. tr.63


9

thì lại liên tiếp xảy ra hai cuộc chiến tranh cục bộ ở hai đầu biên giới ( Tây Nam 1978, phía Bắc - 1979 ) trong khi hậu quả chiến tranh chưa được khắc phục.
Trong khoảng 10 năm đầu trước đổi mới ( 1975 – 1985 ), Việt Nam đứng
trước những tác động phức tạp của tình hình quốc tế.
- Quan hệ Việt Nam – Campuchia và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc căng
thẳng kéo dài.
- Mỹ phát động chiến lược bao vây cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, đẩy tình
hình kinh tế – xã hội nước ta vốn khó khăn tới những khó khăn lớn hơn, gay gắt hơn.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả Liên Xô đang trong thời kỳ trì trệ và
khủng khoảng, sự giúp đỡ và chi viện cho Việt Nam không còn như trước.
- Các nước tư bản chủ nghĩa tranh thủ thành tựu của khoa học - công nghệ,
đẩy nhanh tốc độ phát triển, có ưu thế về tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học - công
nghệ, tạo nên những thách thức đối với chủ nghĩa xã hội.
Vào lúc này, thực tiễn đã hối thúc mạnh mẽ những cải cách, đổi mới CNXH.
Trong khi ở Việt Nam vẫn bị những cản trở của mô hình, cơ chế đã tồn tại từ lâu kìm
hãm. Những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, coi thường quy luật khách quan đã tác
động tiêu cực và ảnh hưởng nặng nề vào các quyết định đường lối, chính sách. Sự

phát triển đơn tuyến, khép kín trong phạm vi, khuôn khổ của hệ thống CNXH đã làm
cho CNXH không tiếp cận được với văn minh hiện đại của phương Tây. Sự lạc hậu,
tụt hậu trong phát triển là sự yếu kém phổ biến của CNXH. Việt Nam cũng nằm trong
tầm ảnh hưởng đó, thậm chí căn bệnh chủ quan duy ý chí, tả khuynh còn nặng nề hơn
bởi những đánh giá thái quá về chủ quan sau giải phóng miền Nam.
Thứ ba, do đặc điểm của cơ sở xã hội - lịch sử và những hạn chế của phát
triển không qua tư bản chủ nghĩa, ở nước ta khuynh hướng giáo điều và chủ quan
duy ý chí mặc dù đã được phát hiện và nhận thức để quyết tâm đi vào đổi mới, nhưng
căn bệnh này dẫn dễ tái sinh và không loại trừ khả năng mắc phải sai lầm cũ trong
hình thức mới. Do vậy, đổi mới là một cuộc đấu tranh giữa những cái mới, cái tiến bộ


10

với cái cũ, cái lạc hậu, lỗi thời; giữa thái độ tích cực đổi mới và sự níu kéo của trì trệ,
bảo thủ.
1.3. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới (từ 12/1986 đến nay ).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đã
phác họa mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng với sáu đặc trưng. Đại hội lần
thứ X, XI bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH đang được xây dựng ở nước
ta toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn. Nhận thức mới của Đảng ta về mô hình CNXH và
con đường đi lên CNXH đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một
nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước được bổ sung, hoàn thiện.
Thực tế hơn 25 năm qua đã chứng minh, với mô hình này, chúng ta đã thu
được những thành tựu, to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thời điểm hiện nay đã có yêu cầu
bức thiết và những điều kiện cơ bản đã chín muồi cho việc bổ sung phát triển Cương
lĩnh trong đó có mô hình CNXH của nước ta. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận
thức của Đảng về con đường quá độ lên CNXH của nước ta có những đổi mới sâu

sắc.
Đại hội VI (12/1986 ) đặt cơ sở cho sự hình thành lý luận đổi mới mà còn xây
dựng nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta thông qua đổi mới
như một cuộc cách mạng lâu dài, toàn diện và triệt để, có kế thừa và có phát triển. Đổi
mới không chỉ là quan điểm mà còn là vấn đề phương pháp, không chỉ là động
cơ mà còn là trình độ, không chỉ là ý thức mà còn là bản lĩnh. Bước vào đổi mới,
Đảng ta nhấn mạnh trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Đây là tiền
đề nhận thức để đổi mới trong thực tiễn, từ đổi mới tổ chức đến cơ chế, chính sách,
đến con người.
Đại hội VII, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu đổi mới từ Đại hội VI thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991). Lần đầu tiên
đã đề cập một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của chủ


11

nghĩa xã hội. “Đó là xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”(7).
Sáu đặc trưng đó chính là những dấu hiệu (đặc điểm, tiêu chí) nhận biết bản
chất - mục tiêu - động lực của CNXH ở Việt Nam do Đảng nêu ra, xuất phát từ thực
tiễn đổi mới. Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH cũng như toàn bộ
tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta là từng bước đạt đến cái bản chất và mục tiêu ấy
của CNXH.
Đại hội VIII, IX, X, XI tiếp tục bổ sung quan niệm về CNXH và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Như vậy, quan hệ giữa bản chất, mục tiêu và động lực của

CNXH là quan hệ thống nhất, trùng hợp và tác động lẫn nhau theo quy luật nhân - quả và
tương tác biện chứng giữa khả năng và hiện thực, giữa kinh tế - chính trị - văn hóa và xã
hội, giữa dân tộc và quốc tế, giữa chủ thể con người và khách thể xã hội.
Đại hội lần thứ IX của Đảng ta đã đưa ra một quan điểm rõ ràng và hợp lý về
vấn đề này. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại”(8).
Nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, việc "bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện:
7

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 111

8

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.84


12

Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là "bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa".
Thứ hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".bởi vì:
- "Bỏ qua" chế độ TBCN nhưng nước ta vẫn phải tôn trọng quá trình lịch sử
- tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, đặc biệt, phải tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất,
của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra

đời, tồn tại và phát triển của chế độ mới.
- Từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường rút ngắn" đi lên CNXH, tất
yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những
mảnh của CNXH" với "những mảnh của CNTB" (Lênin). Trạng thái xen kẽ ấy làm
cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh với nhau, vừa
"chung sống hòa bình", vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
- Nước ta "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng không thể bỏ qua quá trình phát triển
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà CNTB đã từng trải qua: sản xuất
hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ
thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công nghiệp cơ khí - để
chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong
nước và giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
- "Bỏ qua" chế độ TBCN nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà
loài người tạo ra trong chế độ CNTB. Sau khi "bỏ qua" phần lạc hậu của CNTB (địa
vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN), chúng ta cần tiếp
thu những thành tựu của CNTB và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng CNXH.
"Bỏ qua" chế độ TBCN, nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh trong
CNTB một cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều
kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể mới là nhân dân lao động.


13

Đến Đại hội X (năm 2006), Đảng ta nhận định: “lý luận về xã hội XHCN và
con đường đi lên CNXH đã hình thành trên những nét cơ bản”. Đặc trưng xã hội
XHCN được Đảng nêu cụ thể hơn: “là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển

toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới”(9).
Đại hội XI của Đảng đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa
một số nội dung và cô đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta
xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới”(10).
Những nội dung tổng quát về xã hội XHCN được bổ sung, phát triển qua
các kỳ đại hội của Đảng, đặc biệt là Đại hội X và Đại hội XI cho thấy, lý luận về

9

Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 68

10

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 70


14


CNXH ngày càng đạt được những bước phát triển mới, những đặc trưng của nó ngày
càng được khái quát hóa tiêu biểu hơn, hợp lý hơn và sát thực tế hơn.
Thứ nhất, Từ Đại hội VI đến Đại hội XI Đảng ta xác định và không ngừng
bổ sung, hoàn thiện với các tiêu chí : “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Đây là Đặc trưng bao quát nhất, là mục tiêu của đổi mới cũng là bản chất,
mục tiêu, động lực của CNXH.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp
nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của
CNXH. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội XHCN, nó thể
hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ XHCN so với các chế độ
xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể
giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó
không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà
tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người
dân không thể là chủ và làm chủ xã hội.
Thứ hai, đã xác định chủ thể xã hội chủ nghĩa là Xã hội “do nhân dân làm
chủ”, hơn nữa, chủ thể đó không chỉ có vị thế của người chủ xã hội mà còn là năng
lực để làm chủ xã hội.
Lịch sử đấu tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là
lịch sử đấu tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến CNXH,
nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc
trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội XHCN. “Làm
chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội của
loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình;
Chủ thể ấy không phải là cá nhân, của số ít, của một nhóm thiểu số mà là đông đảo
quần chúng nhân.


15


Thứ ba, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội là “Có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Đại hội IX đã chỉ rõ đó là kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nó chứng
minh cho đột phá lý luận kinh tế của Đảng ta về mô hình kinh tế. Đây là mô hình
kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Đảng ta đã tập trung phát triển
nền kinh tế thị trường định XHCN, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó, nhằm
xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao - điều
kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội XHCN.
Chú trọng tới tiêu chí “nền kinh tế phát triển cao” đã trở thành định hướng để
dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đi vào kinh tế hàng hóa, phát
triển sản xuất hàng hóa, áp dụng cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, phân hóa,
vượt trội để tạo động lực phát triển, thể hiện thái độ tôn trọng quy luật khách quan
trong phát triển mà quy luật lớn nhất, phổ biến nhất là quy luật là sự phù hợp về quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Thứ tư, bản chất - mục tiêu - động lực của CNXH thể hiện qua đặc trưng xã
hội chủ nghĩa mà Đảng đã nêu lên trong cương lĩnh là chỉnh thể văn hóa – xã hội
nhằm vào mục đích phục vụ cuộc sống nhân dân “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”.
Thực chất sâu xa của xây dựng văn hóa là xây dựng con người, đạo đức, lối
sống. Văn hóa đổi mới và đổi mới là một sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là
sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa phải
kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời phải
chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc riêng của
mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


16


Xã hội XHCN là một vườn hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá trị, ở đó
bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại,
tôn vinh, phát huy, phát triển. Chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh
hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa
vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là
động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển.
Thứ năm, mục tiêu của CNXH nói đến cùng là quá trình phấn đấu đạt tới
những giá trị của xã hội XHCN đều là vì con người “Con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Con người là thực thể cao nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên
nhiên nhưng cao siêu và bí ẩn gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và
tình cảm, có khát vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho
mình một thế giới Người - thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử
con người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội
cao đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội XHCN.
Xã hội XHCN phải đem lại ấm no cho con người như là đòi hỏi tiên quyết.
Con người phải được tự do - tự do không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi
áp bức bóc lột, nô dịch, kìm hãm về mặt xã hội. Sự phát triển toàn diện con người là ước
mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội XHCN chính là nơi: sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... Phấn đấu đạt tới
một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao.
Thứ sáu, Đảng ta đặc biệt chú trọng tới sự phát triển của dân tộc, phát huy
động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở quốc gia đa dân tộc như
ở Việt Nam, Đảng khẳng định:“Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.


17


“Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát
triển và chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của XHCN là bảo đảm
bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho tất cả các
cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia.
Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực sự
là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá
nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đoàn
kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của
cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét
đặc sắc của giá trị xã hội XHCN Việt Nam.
Thứ bẩy, Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng
mang bản chất, lý tưởng, nội dung XHCN, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng
XHCN, Đảng ta khẳng định: “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và
xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân. Đây là nhà nước mà
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng
hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực
hiện mục tiêu XHCN hiện nay.
Thứ tám, một trong những nét nổi bật trong tư duy lý luận của Đảng, khẳng
định đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, Đảng ta chỉ rõ: “Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.



18

Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo
điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của mỗi bên,
tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn
lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”, “phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa
đồng theo bản chất trí tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người,
của loài người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội XHCN.
Nhìn chung những quan điểm, đường lối, chính sách xây dựng CNXH ở Việt
Nam trước sau đều phù hợp với bản chất xã hội XHCN. Để thực hiện được những đặc
trưng nêu trên, Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi
ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh, văn minh.
2. Nhìn lại quá trình đổi mới ở đất nước ta sau 25 năm (từ năm 1986 – 2011)

* Vì sao Việt Nam phải đổi mới?
Trong thời gian dài trước đổi mới, cũng như nhiều nước khác, chúng ta đã áp
dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết, với những đặc trưng chủ yếu là: xây
dựng nền kinh tế khép kín về lực lượng sản xuất, không thừa nhận sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập
trung và bao cấp, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Mô hình này đó thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được
yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh nhưng sau đó bộc lộ rừ những khuyết
điểm, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn và lâm vào khủng
hoảng vì vậy yêu cầu đổi mới được đặt ra là hết sức cần thiết.
* Những thành tựu Việt Nam đạt được trong quá trình đổi mới
Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), sau hơn 25 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể:



19

- Đến năm 1995, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền
đề chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Kinh tế:tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa bước đầu được xây dựng. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn
2006 - 2011 đạt xấp xỉ 7,5%; thu nhập quốc dân theo đầu người năm 1990 khoảng
200 USD, năm 2005 đạt khoảng 600 USD, năm 2011 đạt khoảng 800 USD.
- Văn hoá – xã hội có những tiến bộ.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng
cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được
củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế
được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ
thuật được tăng cường; đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải
thiện cả về vật chất và tinh thần.
- Vị thế uy tín của nước ta nâng cao trên trường quốc tế.
Hơn 25 năm đổi mới của Việt Nam được đánh giá khái quát như sau: "Công
cuộc đổi mới trong 25 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ta".
Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta một lần
nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm
nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó
kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công
nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở
đường mới mẻ trong lịch sử, hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân
Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành

công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”.


20

* Phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu khi kết thúc thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta
Qua tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh xác
định: Để thực hiện các mục tiêu trên (mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và
mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI) toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý
chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán
triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là,
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Kết luận
Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin
luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã minh
chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo
bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi

mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được
những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành


21

công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.



×