Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

lý luận củatriết học mác lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý và hoạt động tự học củasinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

<b>KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT</b>

<b>LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG </b>

<b>TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY</b>

<b>Tiểu luận cuối kỳ</b>

<b>Môn học: Triết học Mác – Lênin</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU...1</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài...1</b>

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...1</b>

<b>3. Phương pháp thực hiện đề tài...2</b>

<b>PHẦN NỘI DUNG...3</b>

<b>CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ...3</b>

<b>2.2.2. Thực trạng tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay...14</b>

<b>2.2. Vận dụng con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý vào hoạt động tự học của bản thân...15</b>

<b>PHẦN KẾT LUẬN...17</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...18</b>

<b>PHỤ LỤC...19</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài</b>

Sự nhận thức chân lý ln đóng vai trị cốt lõi trong q trình tìm hiểu và giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới xung quanh chúng ta. Trong triết học, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý là một chủ đề quan trọng, được đề cập một cách sâu sắc và chi tiết bởi các nhà triết học vĩ đại là C.Mác và V.I.Lênin. Đối với Mác - Lênin, con đường biện chứng là phương pháp duy nhất để tiến tới sự nhận thức chân lý về thế giới và xã hội. Việc khám phá và hiểu rõ quan điểm của Mác - Lênin về con đường này không chỉ giúp chúng ta khám phá bản chất của nhận thức, mà cịn từ đó rút ra những ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu khoa học và học tập của chính bản thân chúng ta. Bài tiểu luận này sẽ tập trung vào việc làm rõ quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý. Từ đó, ta sẽ thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng con đường biện chứng trong hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh công nghệ và thông tin phát triển mạnh mẽ hiện nay. Hiểu rõ hơn về triết lý này, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về q trình hiểu biết thế giới, từ đó giúp cho sinh viên phát triển khả năng tự học để trở thành sinh viên thành công, đáp ứng với yêu cầu của xã hội, đem lại những ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của xã hội và nhân loại.

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài</b>

Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận của triết học Mác – lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý và hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay.

Để đạt được mục tiêu này, bài tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau: - Phân tích quan điểm của triết học mác – lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

- Trình bày khái quát thực trạng hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay và ý nghĩa của sự nhận thức chân lý trong con đường tự học.

<b>3. Phương pháp thực hiện đề tài</b>

Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch…

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ</b>

<b>1.1 Chân lý</b>

<b> 1.1.1 Khái niệm chân lý</b>

Chân lý là khái niệm dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Đồng thời, chân lý cũng là một quá trình. Theo V.I.Lênin: “Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (con người) khơng nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động.”

Chân lý là kiến thức phản ánh chính xác hiện thực của đối tượng mà nó thể hiện và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.

Theo cách này, khái niệm chân lý không tương đồng với khái niệm tri thức và cũng không tương đồng với khái niệm giả thuyết. Đồng thời, chân lý cũng là một q trình động, khơng nên hình dung nó dưới dạng một thực thể tĩnh, khơng linh hoạt, hay một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, khơng có hướng dẫn, và khơng có sự vận động.

Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức, vì nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, tức là kiến thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan. Điều này không phải là sự nhận thức tổng quát, mà là sự nhận thức chính xác về hiện thực khách quan.

Chân lý không đơn thuần là hiện thực khách quan nói chung, mà cịn là hiện thực khách quan đã được chính xác phản ánh qua nhận thức của con người. Không thể tồn tại chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại độc lập và trừu tượng hoàn toàn trong hiện thực khách quan, như quan điểm của triết học duy tâm đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

thừa nhận. Cũng không chấp nhận quan điểm rằng chân lý thuộc về số đông, tức là chỉ là ý kiến được nhiều người thừa nhận, hoặc rằng nó thuộc về những người có quyền lực, người giàu có, và các yếu tố khác.

<b>1.1.2 Các tính chất của chân lý</b>

Tính khách quan

Tính khách quan của chân lý thể hiện tính độc lập của nó đối với ý thức con người và lồi người. Nói cách khác, những tri thức đúng đắn không phải là kết quả của sự chủ quan thuần túy, không phụ thuộc vào sự xác lập tùy tiện của con người hoặc những quan điểm cá nhân mà nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.

Tính tương đối và tính tuyệt đối

Tính tuyệt đối của chân lý được thể hiện qua sự hoàn toàn và đầy đủ của nội dung tri thức so với hiện thực khách quan. Tính tuyệt đối này có thể được đạt được về nguyên tắc thông qua khả năng nhận thức của con người, khi mà không tồn tại bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào trong thế giới khách quan mà con người không thể nhận thức được hoặc tiếp cận. Mặc dù khả năng nhận thức có thể phát triển vơ hạn, nhưng lại bị giới hạn bởi các điều kiện cụ thể của từng thế hệ và bởi các điều kiện không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó, tính tuyệt đối của chân lý lại mang tính tương đối.

Tính tương đối của chân lý thể hiện sự phù hợp, nhưng khơng hồn tồn đầy đủ, giữa nội dung tri thức và hiện thực khách quan. Điều này ngụ ý rằng giữa nội dung của chân lý và khách thể được phản ánh, sự phù hợp chỉ là từng phần, từng bộ phận, hoặc ở một số mặt, khía cạnh nhất định trong điều kiện cụ thể.

Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý khơng tồn tại hồn tồn tách rời, mà thay vào đó, chúng thể hiện sự thống nhất biện chứng với nhau. Một phần, tính tuyệt đối của chân lý là tổng hợp của các tính tương đối. Mặt khác,

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trong mỗi chân lý mang tính tương đối, ln chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Điều này nhấn mạnh sự liên kết và tương tác phức tạp giữa tính tương đối và tính tuyệt đối trong q trình hình thành và biểu diễn chân lý.

Tính cụ thể

Tính cụ thể của chân lý thể hiện sự kết hợp và phù hợp giữa nội dung tri thức và một đối tượng cụ thể, cùng với các điều kiện, hồn cảnh lịch sử đặc biệt. Điều này có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn luôn đi kèm với một nội dung cụ thể, không phải là một ý niệm trừu tượng hoàn toàn độc lập khỏi hiện thực, mà ngược lại, luôn liên quan đến một đối tượng cụ thể, xảy ra trong một không gian, thời gian hoặc môi trường cụ thể, trong mối quan hệ và liên kết cụ thể. Do đó, mọi chân lý đều kết nối với những điều kiện lịch sử cụ thể, mang đến tính cụ thể. Nếu loại bỏ những điều kiện lịch sử cụ thể, những tri thức hình thành trong quá trình nhận thức sẽ trở nên trừu tượng thuần túy và mất đi sự liên quan với hiện thực cụ thể. Vì thế nó khơng phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý.

<b>1.2. Nhận thức chân lý</b>

Theo Triết học Mác- Lênin, nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn, nhất thời mà là một quá trình biện chứng phức tạp có vận động và phát

<b>triển. Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng sự nhận thức chân lý phải dựa trên</b>

phương pháp duy vật biện chứng. Duy vật biện chứng coi ý thức và hiện thực xã hội là hai mặt không thể tách rời của sự phát triển đồng nhất. Sự nhận thức chân lý không thể nằm ngoài hoặc trên cao so với thế giới vật chất, mà ngược lại, nó phụ thuộc vào việc nắm bắt và phản ánh đúng đắn quy luật và quy tắc hoạt động của thế giới vật chất xung quanh.

Sự nhận thức chân lý trong Triết học Mác – Lênin không chỉ đơn thuần là việc hiểu biết thế giới xã hội một cách đúng đắn, mà còn đóng vai trị quan trọng và cách mạng trong việc thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sự nhận thức chân lý trở thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

một công cụ không thể thiếu để làm sáng tỏ bản chất xã hội, tìm ra những nguyên nhân cơ bản của các vấn đề xã hội và định hướng phát triển tương lai.

V.I. Lênin đã khái quát con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. Như vậy, con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau là trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.

<b>1.2.1. Nhận thức cảm tính</b>

Nhận thức cảm tính (hay trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên trong n nhận thức của con người, phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các giác quan, được biểu diễn dưới ba hình thức: cảm giác, giác quan và biểu tượng.

- Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của q trình nhận thức cảm tính. Cảm giác được hình thành do sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan của con người, đem lại cho con người những thông tin trực tiếp, đơn giản nhất về những thuộc tính riêng lẻ của sự vật. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là nguồn gốc của những hiểu biết của con người, là kết quả của sự chuyển hóa những kính thích từ bên ngồi thành ý thức.

Ví dụ, khi con người nhìn thấy một viên phấn màu đỏ, cảm giác của chúng ta sẽ phản ánh mùa sắc của bơng hoa đó thơng qua thị giác. Đây là một hình thức của nhận thức cảm tính vì nó trực tiếp phản ánh các thuộc tính của viên phấn mà trong trường hợp này là mùa đỏ của viên phấn.

Cảm giác của ta về màu sắc của viên phấn giúp ta có thể phân biệt mùa sắc với các viên phấn khác, hiểu được tác dụng của viên phấn trong quá trình dạy học, tác động lên bố cục bài giảng và các sinh viên, ý nghĩa giáo dục mà nó mang lại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Lênin viết: “cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Dừng lại ở cảm giác thì con người có thể hiểu được các thuộc tính riêng lẻ, cụ thể của sự vật. Để hiểu sự vật một cách sâu sắc hơn thì cảm giác cần phải được phản ánh và tổng hợp trong tư duy. Có nghĩa rằng nhận thức phải vươn lên cao hơn hình thức.

- Tri giác là hình thức tiếp theo của quá trình nhận thức cảm tính và được hình thành trên cơ sở của cảm giác. Nó là sự liên kết, tổng hợp của nhiều cảm giác nên tri giác phản ánh đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng nó chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngồi của sự vật, hiện tượng mà chưa phản ánh được bản chất, quy luật khách quan.

Ví dụ, khi ta ngắm một bông hoa hồng đẹp đẽ, các giác quan cho ta nhận thức ban đầu về màu sắc của bông hoa, hình dạng, các chi tiết cấu tạo nên bơng hoa. Tuy nhiên, để hiểu sâu hơn về bông hoa này, ta cần áp dụng tri giác để đánh giá bông hoa sâu sắc hơn. Tri giác cho phép ta liên kết, tổng hợp nhiều các cảm giác ban đề thành một bơng hoa hồn thiện.

Một ví dụ khác về tri giác, khi ta có thể nhận dạng một số vật mà khơng cần dùng mắt. Thay vào đó ta có thể dùng tay để sờ hoặc bóp những vật đó để nhận biết đó là những vật gì. Tri giác cho phép ta sử dụng các dữ liệu do cảm giác mang lại đồng thời sử dụng những kinh nghiệm mà mình đã được học trong quá khứ để có hình ảnh của sự vật chúng ta sờ, nắm một cách tồn diện để đốn và gọi tên sự vật hiện tượng.

Tuy nhiên do tri giác chứa những thuộc tính đặc của sự vật hiện tượng và khơng đặc trưng của sự vật hiện tượng. Vì thế để đi đến nhận thức cần phải yêu cầu con người phân biệt đâu là thuộc tính đặc trưng và đâu là thuộc tính khơng đặc trưng của sự vật hiện tượng. Do đó cần phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.

- Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính và đồng thời nó cũng là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

thức lý tính. Biểu tượng là sự tái hiện lại hình ảnh của sự vật, hiện tượng khách quan khi những sự vật, hiện tượng đó khơng cịn nằm trong phạm vi cảm giác. Hình ảnh được tái hiện lại mang tính biểu trưng về hình thức bên ngồi của sự vật, hiện tượng khách quan nhưng có sự liên tưởng, trừu tượng hố về sự vật, hiện tượng. Đó là tiền đề chuyển lên hình thức cao hơn là nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng).

Khi ta nhớ về một bài tập lập trình chúng ta đã hồn thành, đó là lúc ta có hình thức nhận thức cảm tính biểu tượng. Mặc dù khơng có tương tác qua lại trên phần mềm lập trình nhưng khi chúng ta nhớ lại hay tái hiện lại những hình ảnh, những thao tác mà ta đã thực hiện và hình dung ra cách mà chương trình thực hiện các bước trong tâm trí.

Biểu tượng giúp ta có thể suy tư, phân tích, hiểu sâu hơn về vấn đề, về mọi thứ xung quanh mà không phụ thuộc vào sự tác động trực tiếp của sự vật. Cho nên biểu tượng phản ánh đặc trưng chính của sự vật. Tuy nhiên, hình thức nhận thức cảm tính này mới chỉ phản ánh được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để tiến gần tới chân lý, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.

<b>1.2.2. Nhận thức lý tính</b>

Nhận thức lý tính (hay tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ nhận thức cảm tính (hay trực quan sinh động) nhưng đã được nâng lên một hình thức cao hơn. Con người phản ánh gián tiếp, sâu sắc hơn, chính xác hơn và hoàn chỉnh hơn về bản chất sự vật. Nhận thức lý tính bao gồm: khái niệm, phán đốn và suy lý.

- Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát, gián tiếp các thuộc tính có tính bản chất của sự vật, hiện tượng. Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Nó là kết quả của sự tổng hợp, khái quát biện chứng những hiểu biết có được trong hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, khái niệm “là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”.

Khi nói đến "mèo", ta khơng chỉ đề cập đến một con mèo cụ thể mà còn đang ám chỉ đến một loại sự vật cụ thể trong thế giới tự nhiên. Khái niệm "mèo" được hình thành thơng qua quá trình khái quát và tổng hợp các đặc điểm chung của các con mèo cụ thể khác nhau. Ví dụ, có thể nhận thấy rằng đa số mèo có bốn chân, bộ lơng và mũi, chúng có khả năng kêu, vẫy đuôi và thực hiện nhiều hành động tương tự nhau. Nhờ vào quá trình khái quát và tổng hợp biện chứng này, ta xây dựng được khái niệm "mèo". Khi nhìn thấy một con vật có bốn chân, lơng và biết rằng nó có thể kêu và vẫy đi, ta sẽ gọi nó là "mèo", dựa vào việc áp dụng khái niệm đã tổng hợp trước đó.

Khái niệm "mèo" khơng bị giới hạn bởi thời gian hay không gian, mà áp dụng cho mọi sự vật thoả mãn những đặc điểm chung đó có ở khắp nơi và tồn tại hàng thế kỷ. Như khái niệm "mèo" vẫn luôn được sử dụng để chỉ giống loài bốn chân từ xa xưa đến nay. Khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, và vừa thường xun vận động và phát triển. Đó khơng chỉ là cơ sở cho việc hình thành phán đốn và tư duy khoa học, mà còn là một nguồn độc nhất trong q trình nhận thức.

- Phán đốn là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khách quan của thế giới trong ý thức con người. Phán đốn là một hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái niệm lại để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật. Nó được biểu hiện dưới hình thức ngơn ngữ là mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định. Có ba hình thức phán đốn cơ bản là: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến.

</div>

×