Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Tài Liệu Giáo Dục Địa Phương Tỉnh Thái Bình Lớp 7.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.74 MB, 72 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH <small>SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</small>

<small>NGUYỄN VIẾT HIỂN (Chủ biên)</small>

<small>NGUYỄN THỊ BÍCH - TRẦN NGỌC ĐIỆP - NGUYỄN THỊ HUỆ - BÙI VĂN NĂM</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỤC LỤC

CHỦ ĐỀ I: CA DAO TỤC NGỮ THÁI BÌNH

CHỦ ĐỀ III: VĂN HỐ LÀNG Ở THÁI BÌNH

CHỦ ĐỀ II: GIỚI THIỆU NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC Ở THÁI BÌNH

CHỦ ĐỀ IV: LỊCH SỬ THÁI BÌNH TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XVI

CHỦ ĐỀ V: VỊ TRÍ ĐỊA LÍ VÀ PHẠM VI TỈNH THÁI BÌNH

CHỦ ĐỀ VI: CẢNH QUAN QUANH TA

CHỦ ĐỀ VII: CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ

CHỦ ĐỀ VIII: THIẾT KẾ DỰ ÁN CẢI TẠO TỰ NHIÊN, BẢO VỆ

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>Các em học sinh lớp 7 tỉnh Thái Bình thân mến!</i>

<i>Nội dung giáo dục địa phương là thành phần của Chương trình giáo dục phổ thơng năm 2018 nhưng phản ánh những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân cư riêng của mỗi địa phương. Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Thái Bình nhằm bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để góp phần bảo tồn những giá trị văn hoá của cộng đồng dân cư ở Thái Bình, xây dựng văn hoá, kinh tế – xã hội Thái Bình ngày càng phát triển.</i>

<i><b>Nội dung Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Thái Bình lớp 7 sẽ </b></i>

<i>giúp các em học sinh tìm hiểu những kiến thức cơ bản về văn hoá, lịch sử, địa lí, mơi trường,… thơng qua các trải nghiệm thực tế. Tài liệu được thiết kế theo chủ đề các hoạt động học tập, giúp các em có thể vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống với sự hợp tác cùng bạn bè, sự hướng dẫn của thầy cơ và gia đình. </i>

<i><b>Hi vọng Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Thái Bình lớp7 sẽ giúp </b></i>

<i>các em hiểu rõ, tự hào và thêm yêu quê hương Thái Bình.</i>

<i>Các tác giả</i>

<b>Lời nói đầu</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG tài liệu

Tài liệu gồm 8 chủ đề. Mỗi chủ đề được thiết kế theo một cấu trúc thống nhất, gồm các hoạt động sau:

<i><b>MỞ ĐẦU </b></i>

Học sinh huy động kiến thức, kinh nghiệm cá nhân để tham gia hoạt động tạo hứng thú vào chủ đề mới.

<i><b>KIẾN THỨC MỚI </b></i>

Học sinh thực hiện các hoạt động quan sát, thảo luận, tìm tịi, tìm kiếm thơng tin nhằm phát hiện và chiếm lĩnh những kiến thức mới của các nội dung trong chủ đề.

<i><b>Hãy bảo quản, giữ gìn sách để dành tặng cho các em học sinh lớp sau!</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CA DAO, TỤC NGỮ THÁI BÌNH</b>

<i>Ca dao, tục ngữ Thái Bình là sản phẩm tinh thần của nhân dân trong quá trình lao động, sinh hoạt xã hội và đấu tranh với thiên nhiên, với thù trong, giặc ngồi,... Nó là trí tuệ được kết tinh và lưu truyền, vừa mang tính địa phương, vừa mang tính phổ quát ở một vùng đồng bằng đông dân cư. </i>

Học xong chủ đề này, em sẽ:

<i><b>– Sưu tầm được một số bài ca dao, tục ngữ Thái Bình.– Hiểu được đặc điểm ca dao, tục ngữ Thái Bình.</b></i>

<i><b>– Hiểu và trình bày được nội dung nghệ thuật và ý nghĩa </b></i>

<i><b>của một số bài ca dao, tục ngữ Thái Bình.</b></i>

<b> 1. Đặc điểm ca dao, tục ngữ Thái Bình</b>

Ca dao được lưu truyền ở Thái Bình có nội dung phong phú, hình thức đa dạng, sử dụng chủ yếu là thể thơ lục bát, mỗi câu, mỗi bài ca dao gồm ít nhất hai dòng. Nội dung thể hiện tình cảm quê hương, tình yêu với cuộc sống, lao động

<i><b>chủ đề I </b></i>

<i><small>Hình 1. Đình làng ở Kiến Xương</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

sản xuất hoặc tố cáo hiện thực xã hội cũ; giàu tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp thống trị và phê phán những thói hư tật xấu của mọi tầng lớp xã hội.

Tục ngữ được sáng tác và lưu truyền ở Thái Bình cũng lấy nội dung chủ đề nổi bật là tình yêu lao động sản xuất.

<i> Dựa vào thông tin trong bài, hãy:</i>

<i>1. Nêu hiểu biết về đặc điểm điểm của ca dao, tục ngữ ở Thái Bình.2. Ca dao, tục ngữ ở Thái Bình phản ánh nội dung chủ yếu nào?</i>

<b>2. Đọc hiểu ca dao, tục ngữ ở Thái Bình</b>

a) Ca dao

<i>Bia đá thì thấy, lá đồng thì khơng.2. Đã là con mẹ con cha</i>

<i> Nhược bằng bác mẹ không sinh</i>

<i>Bên đơng có miếu, bên tây có chùa Giữa chợ có miếu thờ vua</i>

<i>Đơi bên nước chảy đị đưa em về.4. Dù cho cha đánh mẹ treo</i>

<i>Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.</i>

<i><small>1 Nguyên là làng Đường Thâm, nay thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương có một bia đá thời Lê viết về Nguyễn Kim Lâu – ông Tổ nghề chạm bạc.</small></i>

<i><small>2 Hai huyện trong phủ Tiên Hưng cũ, thuộc huyện Hưng Hà ngày nay.</small></i>

<i><small>3 Địa danh thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay – nơi có nhiều bọn lái bn mua bán trẻ em..4 Nay thuộc xã Đông Tân, huyện Đông Hưng.</small></i>

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>5. Con gái Mỹ Bổng<small>5</small> vừa bé vừa xinhCái lưng một thước cái mình một gang Xe gai đan vó cả làng</i>

<i>Nửa làng giầu bội, nửa làng nghèo đi</i>

<i>Đấu Tấm đấu Cám chẳng phi hạt nào. Đong gạo đấu thấp đấu cao</i>

<i>Đong thóc lấy thúng mà chao cho đầy.6. Trên thì Đún, Mải, Hị, Khoa</i>

<i>Dưới thì Lác, Tuộc, Dó, Giai, Sâm, Sàng Đơ Kì, Đồng Phó đổ sang</i>

<i><small>5 Nay thuộc xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư – xưa nổi tiếng về nghề xe gai để đan vó.6 Nay thuộc xã Dũng Nghĩa, huyện Vũ Thư – xưa có nghề làm hàng xáo.</small></i>

<i><small>7 Bốn câu thơ trên kể được tên hai mươi làng, hầu hết là tên Nôm của ba huyện Đơng Hưng, Quỳnh Phụ, Hưng Hà ngày nay..</small></i>

<i><small>Hình 2. Cánh đồng lúa ở huyện Thái Thuỵ</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i> Em hãy cho biết:</i>

<i>1. Những địa danh nào ở Thái Bình được nhắc đến trong các câu, bài ca dao trên? Những câu, bài ca dao đó phản ánh nội dung nào?</i>

<i>2. Tìm và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng ở câu, bài ca dao trên.</i>

<i>3. Theo em, người xưa đã thể hiện cảm xúc nào qua những câu, bài ca dao trên?</i>

b) Tục ngữ

<i> Hoặc: Chiêm năng đùa, mùa năng xáo.6. Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi</i>

<i><small>8 Được ải thì lúa tốt, được mùa. Nếu khơng được ải (ải sượng), mùa màng sẽ thu hoạch kém thì chồng con phải đi tìm nơi khác làm mướn kiếm ăn thêm.</small></i>

<i><small>9 Loại cây làm phân xanh rất tốt, người ta thường trồng ở chân dậu. Câu trên ý nói làm ruộng mà có cả ba loại phân như thế thì sẽ có năng suất cao.</small></i>

<i><small>10 Nói về thời kì sinh trưởng của cây mạ chiêm, phải trải qua ba lần rét (ba giá), cây mạ mùa phải được ba lần mưa rào thì rảnh mạ mới đanh, cấy xuống mới chóng phát triển. </small></i>

<i><small>11 Câu này nói về trục lúa. Sau khi rắc lúa ra sân để trục bằng đá lăn, nếu lúa chiêm chỉ cán lượt đi từng lần một, thì lúa cũng chóng rụng nhưng lúa vụ mùa thì phải đi theo vịng đan vào nhau, vì lúa mùa dai lâu rụng.. </small></i>

<i><small>12 Ngày xưa về vụ chiêm, người ta thường cấy những giống lúa rễ ăn nông, cho nên khi xới cỏ cũng phải xới nông. Vụ mùa thường cấy những giống lúa rễ ăn sâu, do đó phải xới xáo sâu. Nói “yên gốc” và “tốc rễ” là lối nói ngoa dụ của ngơn ngữ dân gian. </small></i>

<i><small>13 Chùng đùi, thắt quản: đùi trên to, cịn từ đầu gối xuống bàn chân thì nhỏ. Những con trâu như thế mà lại ngắn đuôi, sừng to, móng hến thì bước khoẻ, đáng ni. Cịn những con phần dưới của chân to như chân voi thì đi rất chậm. Móng hến: móng trịn như con hến khác với loại móng dài như cái hài..</small></i>

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Em hãy cho biết:</i>

<i>1. Những câu tục ngữ trên phản ánh nội dung gì?</i>

<i>2. Tìm và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong các câu tục ngữ trên.</i>

<i><b>LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG</b></i>

1. Tìm những biện pháp nghệ thuật được thể hiện trong các câu, bài ca dao tục ngữ trên.

<i>2. Sưu tầm ít nhất một câu hoặc một bài ca dao, tục ngữ ở </i>

Thái Bình và nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của câu, bài ca

<i>dao, tục ngữ đó.</i>

<i><small>Hình 3. Bãi biển buổi sớm</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>GIỚI THIỆU NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC Ở THÁI BÌNH</b>

<i>Múa rối nước là bộ mơn nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo. Lợi dụng sức đẩy của nước, rối nước điều khiển quân rối cử động linh hoạt, làm nên những trò diễn hấp dẫn, mang tính nghệ thuật. Quân rối làm trò trên sân khấu là nước, người điều khiển quân rối được giữ kín.Mặc dù chưa xác định được thời gian xuất hiện nghệ thuật múa rối nước ở nước ta nhưng múa rối nước vừa có nét chung của nghệ thuật sân khấu, đồng thời mang những đặc điểm riêng trong các thành phần cấu tạo từ sân khấu, buồng trò, quân rối, máy điều khiển, nghệ nhân, phường hội, trị và tích trị, nhân vật, biểu diễn, văn chương, âm nhạc.</i>

Học xong chủ đề này, em sẽ:

<i><b>– Trình bày được một số tích trị trong múa rối nước.– Giới thiệu được một số nhân vật trong múa rối nước.– Kể được tên các loại âm nhạc sử dụng trong múa rối nước.</b></i>

<b> 1. Tích trị trong múa rối nước ở Thái Bình</b>

Tích trị và hoạt cảnh chỉ chiếm một phần nhỏ rất hấp dẫn trong múa rối nước. Các tích trị diễn tập trung vào cảnh lao động, sinh hoạt thật gần gũi, đơn sơ, ca ngợi thú vui làm ruộng, câu cá, dệt cửi, xay thóc, giã gạo,

<i><b>chủ đề II</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>Ngày xưa, tỉnh Thái Bình có tới 7 phường rối và đều ở huyện Đông Hưng ngày nay: </i>

<i>1) Bắc Lạng – xã Nguyên Xá. </i>

<i>2) Tây Trong (Nam Ninh) – xã Nguyên Xá. 3) Tây Ngoài (Nam Ninh) – xã Nguyên Xá. 4) Tăng (Lũ Phong) – xã Phú Châu. </i>

<i>5) Tuộc (Duyên Tục) – xã Phú Lương. 6) Đống (Đơng Các) – xã Đơng Động. 7) Kì Hội – xã Đông Hà.</i>

Em có biết?

đánh vật, đánh kiếm, đánh đu, múa lân, múa tứ linh,… hoặc sự tích lịch sử về tấm gương yêu nước, thương nòi của các anh hùng dân tộc. Các trò thường đứng tách riêng và là một tiết mục trong mỗi buổi biểu diễn rối nước. Nhiều trò rối xưa trở tỏ sân khấu rối nước đang ở bước đầu hình thành và vươn tới tích trị. Để tiến tới tích trị, các nghệ nhân rối nước đưa vào những đoạn trích nhỏ của tuồng. Phường Đống

<i>có đoạn Trao Hồng tử, chém Tá </i>

<i><small>Hình 1. Biểu diễn múa rối nước</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i>trích từ tuồng Sơn hậu; đoạn Thất cầm Mạnh Hoạch trích từ vở tuồng </i>

Tam Quốc. Nhiều phường diễn trích đoạn Hoả cơng, Xích Bích. Với tích trị chèo Lưu diễn Nguyễn nhập thiên thai, phường Tuộc cũng chỉ diễn đoạn tiễn biệt có tiên múa chèo thuyền.

Trị rối minh hoạ cho lời hát chèo, vì lời trò vượt quá sức thể hiện của quân rối. Như vậy, trị và tích trị của rối nước tuy cịn sơ lược nhưng vẫn có sức hấp dẫn, hiệu quả nghiêng về giải trí.

<i>1. Tích trị trong múa rối nước là gì?</i>

<i>2. Các tích trị tập trung vào diễn những nội dung chủ yếu nào? Vì sao nói trị và tích trị của rối nước cịn sơ lược nhưng vẫn có sức hấp dẫn? 3. Kể tên các trị và tích trị tiêu biểu của nghệ thuật múa rối nước ở </i>

<i>Thái Bình.</i>

<b>2. Nhân vật trong múa rối nước ở Thái Bình</b>

Mỗi tiết mục rối nước thường có ít nhân vật, hành động đơn giản, khắc hoạ chủ yếu bằng hình dạng và hành động ngoại hình. Rối nước ngoại trừ nhân vật lịch sử cịn lại thường khơng có lai lịch rõ ràng. Sân khấu rối nước cổ truyền chưa có nhân vật điển hình tồn diện như chèo, tuồng, mỗi nhân vật chỉ mang đôi nét chung chung. Nhân vật tiêu biểu là chú Tễu, ngồi ra cịn có những người nông dân giản dị, chất phác, mộc mạc; các nhân vật anh hùng như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo…; những tên giặc cướp nước như Liễu Thăng, Thốt Hoan, lính Tây…; những nhân vật biểu tượng như Long, Ly, Quy, Phượng… cùng vô số con vật như cá, vịt, cáo,…

<i><small>Hình 2. Xem múa rối nước ở Thái Bình</small></i>

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Tễu – trong tiếng Nơm có nghĩa là “tiếng cười”. Chú Tễu là quân rối lớn nhất và là nhân vật tiêu biểu cho người nông dân vùng sông nước ra mở đầu buổi diễn và điều khiển chương trình, giáo trò, dẹp trật tự, chuyển trò và khép trò, nhắn nhủ điều hay lẽ phải, phê phán cái xấu, lên án cái ác,… Chú Tễu là nhân vật chỉ có tại các phường múa rối nước ở Thái Bình và hai phường vùng lân cận là Hà Nam và Hải Phòng. Sân khấu rối nước vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Hải Dương, Hưng

n, Hà Nội khơng có chú Tễu. Ngày nay, nhân vật chú Tễu đã trở thành quen thuộc với nghệ thuật múa rối nước, nhưng chú Tễu của phường Đống, phường Nguyễn đáng lưu ý hơn cả. Chú Tễu biểu trưng cho hình tượng của một trai cày khoẻ mạnh, béo tròn, da dẻ hồng hào, gương mặt luôn vui tươi, hoạt bát và hài hước. Tễu làng Nguyễn có hành động đa dạng, tích cực và gắn cuộc sống chịm xóm hơn các Tễu khác. Mở đầu buổi diễn, chú Tễu thường lắc lư, hai tay vung vẩy, đi tới, đi lui, chốc chốc lại đưa tay chỉ trị rồi tự xưng:

<i>Vốn khi xưa tơi ở trên vườn tiên dượcAi ai cũng gọi là “Vông”</i>

<i>Đến ngày sau thuỷ hoả tương thôngPhường mới đặt tên tôi là “Tễu”.</i>

hoặc ra về với câu hát:

<i>Ta về ta tắm ao ta</i>

<i>Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn...</i>

Chú Tễu chính là sản phẩm của một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời và bất khuất trong công cuộc dựng nước và giữ nước, mang tính tiêu biểu cho nghệ thuật múa rối Việt Nam.

<i><small>HÌnh 3. Tễu giáo đầu – phường Nguyễn</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>Dựa vào thông tin trong bài, hãy cho biết:</i>

<i>1. Trong múa rối nước ở Thái Bình nhân vật nào là tiêu biểu? Tại sao? 2. Hãy mơ tả hình tượng chú Tễu.</i>

<i>3. Vì sao trong múa rối nước cần có người điều khiển?.</i>

<b>3. Âm nhạc sử dụng trong múa rối nước </b>

Nghệ thuật múa rối nước lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, khấy động khơng khí biểu diễn và truyền đạt, lay động tới người xem những nội dung, tư tưởng, tình cảm nhất định.

Múa rối truyền thống sử dụng những làn điệu dân tộc như chèo, dân ca, quan họ, chầu văn…. Nhạc cụ chính trong rối nước là bộ gõ gồm trống cái, trống con, trống cơm, mõ, chiêng, thanh la, tù và, não bạt.

<i>Ở phường Đông Các, chú Tễu cao 0,7m như một chàng trai làm ruộng béo tròn, phốp pháp, mình trần vận khố, áo treo trễ tràng, cổ đeo khánh bạc, tóc để trái đào, da dẻ hồng hào, miệng cười tươi. Phường Nguyên Xá tự hào về chú Tễu cao to nhất với trên 0,9m trẻ trung, nghiêm trang, trên mình đóng chiếc khố điều, ngồi ra, phường rối này cịn có cơ tiên cao 85cm và con cá dài hơn 1m. </i>

<i>Nghệ nhân điều khiển múa rối nước là người quen với sông nước. Họ học nghề từ cha ơng theo lối truyền nghề. Vì thế, các trò hay, máy giỏi, phức tạp dễ bị thất truyền. Múa rối nước xưa thường không diễn bằng lời. Giáo trò là lời giới thiệu, làm nền do một người tốt giọng, biết chữ ngồi trên sàn trong buồng trò đảm nhiệm. Các nghệ nhân điều khiển quân rối phải ngâm mình trong bùn nước ln tay bận kéo giật dây, đưa đẩy sào tre, điều khiển quân rối hoạt động, ngồi xa họ khơng thể thoại, hát lời như diễn viên rối cạn hoặc diễn viên sân khấu. </i>

Em có biết?

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Bộ hơi gồm sáo, kèn tàu. Bộ dây gồm hồ, líu, nhị, đàn tranh, đàn tam. Pháo là âm thanh hỗ trợ đắc lực. Tiếng hát, tiếng đế được dùng để giới thiệu, minh hoạ, làm nền,… Phường hội nào cũng có một, hai nghệ nhân giỏi trống phách. Tiếng trống phường Nguyễn xưa đến nay vẫn còn được truyền tụng.

Múa rối nước không chỉ cuốn hút người xem bởi hình ảnh trên sân khấu mà cịn bởi âm thanh rộn rã của tiếng chiêng, trống, sáo trong các tiết mục bật cờ, múa lân, múa tứ linh,.... Những làn điệu, khúc nhạc chèo khi vui tươi rộn rã trong các tiết mục xẩm xoan, tứ quý, lưu thuỷ, sắp qua cầu, sắp cổ phong..., khi ngân nga da diết trong các điệu vỉa, ngâm sổng,.... Xem biểu diễn rối nước giống như xem chèo, chỉ khác ở chèo là người thật, cịn rối nước là người giả. Điều đó càng khẳng định vai trò của âm nhạc rất quan trọng trong sự thành công của nghệ thuật múa rối nước.

<i>Em hãy:</i>

<i>1. Kể tên nhạc cụ được sử dụng trong múa rối nước ở Thái Bình. 2. Cho biết âm nhạc trong múa rối nước có vai trị gì?</i>

<i><small>Hình 4. Âm nhạc trong múa rối nước</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i><b>LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG</b></i>

1. Trò – nhân vật – âm nhạc trong múa rối nước có mối quan hệ như thế nào? Nhận xét về ba yếu tố trên của múa rối nước Thái Bình.

2. Một người bạn phương xa đến thăm em và muốn tìm hiểu nét đặc sắc của nghệ thuật múa rối nước ở Thái Bình. Em hãy giới thiệu cho bạn về:

a) Một phường múa rối nước truyền thống ở Thái Bình. b) Một tích trị múa rối nước mà em u thích.

<i><small>Hình 5. Một tiết mục biểu diễn múa rối nước</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<b>VĂN HOÁ LÀNG Ở THÁI BÌNH</b>

<i>“ Làng là khối dân cư ở nơng thơn làm thành một đơn vị, có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị thấp nhất thời phong kiến. Làng còn được dùng với ý nghĩa để chỉ những người cùng một nghề một việc nào đó”.</i>

<i>Văn hố làng được thể hiện thông qua các biểu trưng văn hoá mang giá trị truyền thống từ cây đa, bến sơng, con đê, mái đình, giếng nước đến các bản gia phả, hương ước, tập tục, hội hè đình đám, tín ngưỡng, các nghề thủ cơng truyền thống, những làn điệu dân ca,...</i>

Học xong chủ đề này, em sẽ:

<i><b>– Trình bày được những cơ sở/yếu tố hình thành văn hố </b></i>

<i><b>làng ở Thái Bình.</b></i>

<i><b>– Trình bày được đặc điểm của văn hố làng ở Thái Bình.– Rút ra được đặc trưng của văn hố làng ở Thái Bình.– Giới thiệu về một số làng văn hoá tiêu biểu ở Thái Bình </b></i>

<i><b>mà em biết.</b></i>

<i><b>– Có ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị của văn hoá </b></i>

<i><b>làng ở Thái Bình.</b></i>

<i><b>chủ đề III</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>1. Cơ sở hình thành văn hố làng ở Thái Bình</b>

<i>a) Điều kiện tự nhiên</i>

Thái Bình là tỉnh đồng bằng, khơng có núi, nằm ở phía đơng vùng châu thổ sơng Hồng, được bao bọc bởi 3 dịng sơng lớn và biển (sơng Hồng, sơng Hố, sơng Luộc, phía đông là Biển Đông), được bồi đắp phù sa, tạo nên vùng đất đai phì nhiêu, màu mỡ. Khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều.

<i>b) Điều kiện kinh tế, xã hội</i>

– Kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và làm nghề thủ công là nền kinh tế chủ đạo của Thái Bình từ xa xưa.

– Dân cư Thái Bình có nguồn gốc từ nhiều vùng miền khác nhau về đây hội cư, chung lưng đấu cật, quai đê trị thuỷ, lấn biển, lập làng để tạo thành một miền quê trù phú, dân cư đông đúc.

– Trải qua lịch sử hàng ngàn năm, người dân nơi đây đã hình thành nên những nét đặc trưng của văn hoá làng với mối quan hệ huyết thống, những phong tục tập quán, những thiết chế văn hoá và các cơng trình cơng cộng tồn tại lâu dài.

<i>Đọc thơng tin trong bài và hiểu biết của bản thân, em hãy:</i>

<i>1. Cho biết văn hố làng ở Thái Bình được hình thành trên những cơ sở nào?2. Kể cho các bạn nghe về sự hình thành của làng quê em.</i>

<b>2. Đặc điểm văn hoá làng</b>

Làng là nơi cộng đồng dân cư sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau, trong quan hệ kinh tế, họ tộc, hội hè, tín ngưỡng, giúp đỡ nhau khi vui buồn cũng như lúc hoạn nạn.

Thái Bình là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nên văn hoá làng nơi đây mang đậm tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Văn hố tín ngưỡng của làng rất phong phú đa dạng. Ngồi tính chất đa thần trong tín ngưỡng tôn giáo như tục thờ hiện tượng tự nhiên: mưa, gió; chim, rắn, rồng, cây lúa, cây đa,… làng cịn có tục thờ tục thờ Mẫu, thờ thần Thổ công, thờ cúng tổ tiên.

<i>Đọc thông tin trong bài, hãy rút ra những đặc điểm nổi bật của văn hố làng ở Thái Bình?</i>

<b>3. Đặc trưng văn hố làng</b>

Văn hố làng là sự thích ứng, sản sinh, thấm đẫm văn hố trong làng (thơn, xã), một sự kết hợp nhuần nhuyễn địa lí - văn hố, kinh tế – văn hoá, cơ sở xã hội – văn hoá… tạo nên đặc trưng, diện mạo, giá trị riêng mà các vùng khác và nơi khác khơng có được.

Văn hố làng ở Thái Bình được thể hiện thơng qua các biểu trưng văn hố mang giá trị truyền thống bao gồm văn hoá vật thể (cây đa, giếng nước, mái đình; các bản gia phả dịng tộc, hương ước,…) và văn hố phi vật thể (phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, những làn điệu dân ca, dân vũ,…).

<i>Đọc thông tin và cho biết văn hố làng ở Thái Bình có những đặc trưng nào? Liên hệ với những đặc trưng văn hố q hương em có điểm giống và khác với văn hố làng ở Thái Bình nói chung.</i>

<b>4. Một số làng tiêu biểu ở Thái Binh</b>

<i>4.1 Làng Nguyễn, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng.</i>

<i>– Làng Nguyễn là mảnh đất có bề dày lịch sử văn hố truyền thống, là quê hương của múa rối nước, của các trò chơi dân gian.</i>

<i>– Làng quê giàu truyền thống yêu nước, cách mạng. </i>

<i>– Quê hương của tiến sĩ Nguyễn Bá Dương, Bảo mẫu Nguyễn Thị Tần, anh hùng Nguyễn Chất Xê, Nguyễn Đình Chính,... </i>

Em có biết?

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

a) Vị trí địa lí

Làng Nguyễn nằm bên quốc lộ 39A (từ Phố Nối, Hưng Yên tới cảng Diêm Điền, Thái Bình), cách thị trấn Đơng Hưng 1 km, xưa thuộc huyện Thần Khê, phủ Tiên Hưng, nay là xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng.

b. Những nét đặc trưng văn hố làng Nguyễn

– Làng Nguyễn thuộc loại hình “làng lấy họ làm tên” vì có tới 90% tổng số dòng họ trong làng là họ Nguyễn. Làng có tới 47 chi, ngành họ Nguyễn, chỉ khác nhau ở tên đệm. Người dân nơi đây sống với nhau rất hồ thuận, có tình có nghĩa và rất đỗi chân thật.

Làng Nguyễn nổi tiếng với văn hoá ẩm thực, được làm từ các loại sản phẩm do nhân dân làng Nguyễn tự trồng cấy, chăn nuôi. Hằng năm, sau mỗi vụ mùa, dân làng thường tổ chức thi cỗ. Các mâm cỗ phải có giị lụa, chả quế, các loại bánh (bánh giầy lá dé, bánh dầy đỗ…), kẹo (kẹo lạc, kẹo vừng...). Đặc biệt làng Nguyễn nổi tiếng với món bánh tiến vua – bánh cáy.

Ngoài làng nghề, làng Nguyễn còn nổi tiếng về trò chơi, trò diễn dân gian như: múa rối nước, làm pháo bông, pháo đất.

<i><small>Hình 1. Tổ Đình, Chùa làng Nguyễn, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng.</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

– Làng Nguyễn nổi tiếng huyện Đông Hưng đã hai lần được phong tặng “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

<i><small>Hình 2. Cổng chùa làng Nguyễn</small></i>

<i>Pháo bơng làng Nguyễn có 2 loại: pháo bơng và pháo làm trị. Pháo bông gồm nhiều loại thường đốt trước khi biểu diễn để lôi kéo người đến xem múa rối hoặc khi kết thúc đêm biểu diễn tạo khơng khí hồ hởi phấn khởi sau đêm diễn. Pháo bông mắc ngang dọc trên mặt nước. Pháo gắn liền với từng trò diễn, dân làng Nguyễn gọi đây là “nghệ thuật đốt lửa thành trò”, chẳng hạn khi diễn trò muốn đẩy xa, các nghệ nhân rối làng Nguyễn đã dùng pháo để đẩy, con rối,.... Pháo bơng, pháo trị làng Nguyễn đã làm nghệ thuật rối nước sinh động hơn, hấp dẫn hơn. </i>

<i>Múa rối nước làng Nguyễn là loại hình nghệ thuật chiếm một vị trí độc tơn trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người dân nơi đây. Phường rối nước làng Nguyễn là một trong những phường rối nước có lịch sử lâu đời, phát triển mạnh nhất trong các phường rối nước ở nước ta. Qua các nguồn sử liệu khác nhau từ xưa còn để lại thì nghệ thuật múa rối nước làng Nguyễn có từ thời Lê. Múa rối nước đi liền với các trò diễn là các lời ca, ngồi trị diễn lại có diễn trích đoạn chèo bằng con rối do người làng Nguyễn biết hát chèo, diễn chèo. </i>

Em có biết?

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

– Làng Nguyễn đóng góp nhiều người hiền tài cho đất nước:

+ Nguyễn Bá Dương (1740 – 1785) cịn có tên Bá Tử, ơng đỗ đệ tam giác đồng tiến sĩ khoa Bình Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 27 (1766). Ơng được cơng nhận là người trẻ tuổi tài cao, là một trong 4 thần đồng của huyện Thần Khê:

<i>“Thần Khê có bốn ơng nghè</i>

<i>Ơng nào cũng được châu phê thần đồng”</i>

+ Kiệt tiết công thần bảo mẫu Đại vương Nguyễn Thị Tần (1725 – ?), bà là người đức hạnh, có lịng thương người, ln giúp đỡ những người khó khăn, đem kĩ thuật chế biến nem cơng, chả phượng, đem cả cách làm bánh cáy (như nhân dân thường quen gọi) truyền dạy cho dân. Khi bà mất, để ghi nhớ công ơn của bà, nhiều làng lập đền thờ làm thành hoàng – Tổ nghề bánh cáy. Hằng năm, đến ngày giỗ bà dân làng Nguyễn và các làng đều mở hội tế lễ.

+ Thời nay Nguyên Xá xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu trong đó có anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Chất Xê, Nguyễn Đình Chính.

<i><small>Hình 3. Tượng đài du kích làng Nguyễn</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Dựa vào thông tin, em hãy nêu những nét đặc trưng của văn hoá làng Nguyễn.</i>

<i>Nguyễn Thị Tần sinh ra trong một gia đình quyền quý. Từ nhỏ bà đã có tiếng nết na, hiền thục, sống với mẫu thân ở quê nhà. Bà có nếp sống giản dị hịa cùng với nhịp sống của những người quê dân dã, vì vậy tuy là con quan nhưng không đài các, kiêu sa, được dân làng quý mến. Bà chỉ học theo các anh ở nhà nhưng chữ nghĩa, kinh sử cũng vào bậc khá. Năm 16 tuổi, bà theo phụ thân vào kinh. Vua Lê Hiển Tông thấy bà đàn giỏi, hát hay, công, dung, ngôn, hạnh liền cho vào cung dạy bảo công chúa và các phi tần. </i>

<i>Khi ấy nhà vua sinh Thái tử Duy Vĩ, lúc nhỏ hay khóc, hay hờn chỉ có bà bế ẵm mới nín, vua cho bà làm nhũ mẫu Thái tử. Tuy được ân sủng nhưng trong lúc thư rỗi, bà thường cùng các nữ tì lo chế phẩm đồ ngự dâng vua. Từ nhỏ, Trịnh Sâm vốn đã có hiềm khích với Duy Vĩ; năm Kỉ Sửu (1769), Trịnh Sâm vu oan cho Thái tử Vĩ, bắt hạ ngục, hai năm sau thì giết chết Duy Vĩ. </i>

<i>Trong thời gian Thái tử bị hạ ngục, chỉ có nhũ mẫu Nguyễn Thị Tần được ra vào trong nom hầu hạ. Thấy cơm canh trong ngục Duy Vĩ không thể ăn được, bà liền nghĩ cách dùng những kinh nghiệm làm bánh chè lam ở quê hương, thêm hương liệu gia vị đồ ngự của vua làm thành một thứ bánh đem vào cho Thái tử ăn thay cơm, chuyện bị bại lộ bà bị tống ngục, bị giam cầm hơn chục năm, tới năm 1782 bà mới được ra khỏi ngục. Lê Hiển Tông rất cảm động phong bà là “Quân phu nhân”. Khi Lê Chiêu Thống (con trai của Thái tử Duy Vĩ) lên làm vua, nhớ cơng ơn người đã hết lịng với cha mình, phong cho bà làm “Kiệt tiết cơng thần Bảo mẫu đại vương”. Bà còn được các triều sau phong tặng “Lê Triều kiệt tiết công thần”, “Trinh kiệt Bảo mẫu Đại vương”. Khi đất nước loạn lạc, bà xin về quê nhà, đem ruộng, tiền giúp cho dân làng quanh vùng. Bà còn truyền dạy cho dân kĩ thuật chế biến nem công, chả phượng, bánh cáy. </i>

Em có biết?

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i><small>Hình 3.4.. Cảnh phơi cói làm chiếu</small></i>

<i>4.2. Làng Hải Triều (Làng Hới).</i>

– Làng Hải Triều (làng Hới) thuộc xã Tam Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay.

– Làng nghề dệt chiếu lâu đời – chiếu Hới. Vào thời Tiền Lê – Lí

(thế kỉ X – XI), ở làng Hới, đã bắt đầu dệt chiếu, rồi phát triển mạnh vào thời Hậu

Phạm Đôn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết kĩ thuật dệt chiếu về phổ biến kinh nghiệm và kĩ thuật dệt mới, cải tiến khung dệt cho người dân q mình. Đó là kĩ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi dọc, làm cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn.

<i>Làng Hới là một làng văn hoá thuộc vùng đất cổ, của hương Tinh Cương thời thuộc Hán, huyện Chu Diên thời Tiền Lí, phủ Thái Bình thời Tiền Lê và lộ Long Hưng thời Trần. Thời hậu Lê thuộc huyện Ngự Thiên, phủ Tân Hưng. Nơi đây nổi tiếng với nghề dệt chiếu, làng quê văn hiến đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam.</i>

<i> Làng Hới còn là quê huơng của Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ; của Tam nguyên, Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ và tiến sĩ Phạm Nguyên Chẩn,...</i>

Em có biết?

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i><small>Hình 3.5. Cảnh thi dệt chiếu làng Hới</small></i>

Chất lượng của chiếu làng Hới cùng với những lời rao bán ngọt ngào đã được người dân khắp nơi tin dùng.

<i>Em nay đi bán chiếu hoaChàng về nói với mẹ cha mua dùm</i>

<i>Giường nằm mà giải chiếu hoaCửa nhà sang trọng mẹ cha vui lòng.</i>

Theo thời gian, làng Hới là một trong những nơi hội tụ kĩ thuật tinh xảo nhất để làm nên một chiếc chiếu. Từ khung dệt, nguyên liệu cho tới người thợ dệt chiếu, tất cả tạo nên một sản phẩm truyền thống không đâu sánh bằng. Nguyên liệu chủ yếu được dùng làm chiếu là cói và sợi đay, nhưng chiếu nơi đây khác biệt với các làng nghề dệt chiếu khác là ở công việc bắt biên bằng tay nên chiếu vừa đẹp, vừa bền.

Chiếu Hới không chỉ nổi tiếng khắp nơi trong cả nước mà cịn được cả người Trung Hoa ưa thích. Từ thời nhà Thanh, nhiều thương gia người Hoa đã đến Hải Triều thuê đất, mướn nhân công lập ra những xưởng dệt chiếu, sản phẩm làm ra lại đem bán về Trung Quốc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Trải qua sự phát triển thăng trầm của lịch sử, người dân nơi đây vẫn giữ nghề, yêu thờ sau khi ông mất. Hằng năm, cứ vào mùa xuân, dân làng lại mở hội để tưởng nhớ về tổ nghề Phạm Đôn Lễ và cũng là dịp thi tài dệt chiếu.

Hội làng Hải Triều hằng năm diễn ra từ ngày 6 đến ngày 9 tháng Giêng và được gọi là Hội chiếu. Ngày này dân làng không chỉ tổ chức tế lễ, ghi nhớ công ơn của ông tổ nghề mà còn còn tổ chức trưng bày chiếu và thi dệt chiếu.

Làng Hải Triều là địa danh ghi vào Lịch sử dân tộc trong chiến công chống lại quân Chiêm Thành, phát huy truyền thống yêu nước, đánh giặc bảo vệ quê hương.

Từ thời Tiền Lí (548 – 602) đến thời Lí – Trần (1010 – 1400) giặc Chiêm Thành đã từng nhiều lần quấy nhiễu nước ta, vào cuối thời Trần có lần giặc Chiêm Thành đã đánh vào kinh đô Thăng Long, xâm phạm vào cả lăng mộ nhà Trần ở Ngự Thiên. Tháng Giêng năm

<i><small>Hình 3.6.. Cảnh phơi chiếu của dân làng Hới xưa</small></i>

<i>Hình 3.7. Cảnh phơi chiếu của dân làng Hới ngày nay</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Canh Ngọ (1390) vua Chiêm, Chế Bồng Nga cùng hơn 100 thuyền chiến tiến đến sông Hải Triều – ngã ba sông Hồng và sông Luộc. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Canh Ngọ (Quang Thái) năm thứ 3 (1390) mùa Xuân tháng Giêng ngày 22 Đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được chúa nó là Chế Bồng Nga”.

– Hải Triều là quê hương có truyền thống hiếu học, đỗ đạt cao + Nguyễn Thị Lộ (1390 – 1442).

Sinh trưởng trong một gia đình nho học khá giả. Từ nhỏ Nguyễn Thị Lộ đã thơ hay, văn giỏi, được Nguyễn Trãi lấy làm thiếp khi ông ở ẩn Đông Quan, rồi ông bà cùng vào Lam Sơn giúp Lê Lợi. Ở Lam Sơn, Nguyễn Thị Lộ đã từng dạy học cho các tướng sĩ, đặc biệt là dạy con em các tướng tụ nghĩa ở Lam Sơn. Như đánh giá của tiến sĩ Sử học Đinh Công Vĩ: Nguyễn Thị Lộ đã có cơng “làm sáng thêm ngơi khao khuê Nguyễn Trãi”. Khi Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên làm vua,

<i>Những câu rao bán chiếu trong dân gian rất gần gũi với giai thoại về cuộc gặp giữa Nguyễn Thị Lộ. Người dân Hải Triều cùng với quân dân nhà Trần đã anh dũng chống lại quân xâm lược con gái làng Hới, làng Hải Hồ với Thái học sinh Nguyễn Trãi. </i>

<i>Em ở Hải Hố bán chiếu gonCớ sao ông hỏi hết hay cịnXn xanh vừa độ trăng trịn lẻChồng cịn chưa có hỏi chi con?</i>

<i>Nếu những lời rao bán làm khách hàng mua chiếu thì những vần thơ đối đáp của Nguyễn Thị Lộ đã đưa bà đến với Nguyễn Trãi, thành vợ quan Thừa chỉ rồi thành Lễ nghi học sĩ. </i>

Em có biết?

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

thấy bà là người phụ nữ đẹp, nghi thức phong độ giao thiệp, lịch lãm, tiếng đàn giọng hát đều hay. Tam cương, ngũ thường, tứ đức đều trọn vẹn, vua truyền cho vào cung, là người phụ nữ đầu tiên được vua phong cho chức Lễ nghi học sĩ.

Nguyễn Thị Lộ không chỉ là một nhà giáo, bà còn là một nhà thơ. Thơ và tên tuổi bà đã thành giai thoại văn học để lại cho đời sau. Sau vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bị khép tội “chu di tam tộc”. 22 năm sau Nguyễn Trãi đã được vua Lê Thánh Tông minh oan. Dân làng đã giải thoát nỗi

oan khuất này khi tôn bà là Đức thánh mẫu, nhân dân nhiều nơi cũng lập đền thờ, tưởng nhớ đến bà.

+ Tam nguyên, trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457 – 1531).

Xuất thân trong một gia đình nghèo khó, cha mất sớm. Nhưng từ nhỏ Phạm Đơn Lễ đã bộc lộ trí tuệ khác người.

Năm 1481 (đời vua Lê Thánh Tông), Phạm Đôn Lễ, đỗ Trạng ngun. Ơng cũng đỗ đầu cả kì thi Hương, thi Hội nên được coi là vị Tam nguyên đầu tiên của lịch sử khoa bảng Việt Nam, ông làm quan đến chức Tả thị lang, Thượng thư.

Năm 1484, ông đi sứ sang nhà Minh. Chuyến đi của Phạm Đôn Lễ đã thành công, được vua Minh và các nhân sĩ Trung Quốc nể trọng,

<i><small>Hình 3.8. Đền thờ Nữ nghi học sĩ – Nguyễn Thị Lộ tại xã Tân Lễ</small></i>

<i><small>Hình 3.9. Tượng đồng, Nữ nghi học sĩ – Nguyễn Thị Lộ tại xã Tân Lễ</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

ơng cịn học được kĩ thuật dệt chiếu về truyền dạy cho dân làng. Tấm bia đá đặt trước đền thờ ông nghi nhận:

“Phủ quân họ Phạm huý Đôn Lễ, tên thụy là Ngu Khanh...Khoa thi năm Tân Sửu (1481) thời Lê Hồng Đức đỗ thi hội, vào thi Đình qua nhiều lần đổi sách đều trúng đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhất danh (Trạng nguyên). Nước Đại Việt ta dựng khoa thi mấy trăm năm, đỗ như vậy mới có 5 người.

+ Phạm Nguyên Chẩn (1470 – 1530)

Phạm Nguyên Chẩn đỗ Hoàng giáp khoa Kỉ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499) đời vua Lê Hiến Tông (1498 – 1504). Sau khi thi đỗ, ông được bổ dụng làm quan ở Ngự sử đài, sau thăng chức Thiêm đô ngự sử. Năm Cảnh Thống thứ 5 (1502) được sung vào đoàn sứ bộ sang nhà Minh. Khi làm quan ở Ngự sử đài, ơng dám nói thẳng, Lê Hiến Tơng đã cử ông làm Giám sát ngự sử Đông Đạo.

<i><small>HÌnh 3.10.. Đền thờ ơng tổ nghề dệt chiếu – Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Thời vua Lê Uy Mục (1505 – 1509), mùa xuân năm Mậu Thìn (1508) vua bổ dụng Mạc Đăng Dung chức Đô chỉ huy sứ thuộc về Thiên Võ, ông đã can gián, vua không nghe. Tháng 4 năm Tân Mùi (1512), vua Lê Tương Dực phong Mạc Đăng Dung làm Vũ Xuyên Bá, ông lại can ngăn, vua không nghe nên ông trao trả ấn tín Thiêm đô Ngự sử, cáo quan về quê. Năm Minh Đức thứ nhất (1527) nhà Mạc kính nể Phạm Nguyên Chẩn là người cương trực, muốn tranh thủ ơng để khuyến khích kẻ sĩ nhà Lê, mời ra làm quan nhưng ba lần ông đều chối từ.

<i>Lịch triều Hiến chương loại chí chép ơng vào bậc bề tơi tiết nghĩa </i>

(trong số 44 tấm gương tiết nghĩa từ Đinh, Lê, Lí, Trần).

Làng Hải Triều nay vẫn giữ được truyền thống văn hố tốt đẹp của cha ơng với làng nghề thủ cơng truyền thống, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người có cơng với làng, với nước.

<i>Dựa và thông tin trong bài, em hãy khái lược những nét văn hoá tiêu biểu của làng Hải Triều.</i>

<i><b>Luyện tập và vận dụng</b></i>

1. Trong vai một Hướng dẫn viên du lịch, em hãy lựa chọn và giới thiệu về một làng văn hố tiêu biểu ở Thái Bình.

2. Theo em, chúng ta cần làm gì để gìn giữ nét đẹp văn hoá truyền thống của quê hương?

3. Địa phương em sống có làng nào nổi tiếng? Hãy chia sẻ với các bạn những nét độc đáo về lịch sử, văn hố làng đó.

<i><b>??</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>LỊCH SỬ THÁI BÌNH </b>

<b>TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XVI</b>

<i><b>chủ đề IV</b></i>

Học xong chủ đề này, em sẽ:

<i><b>– Trình bày được lịch sử Thái Bình từ thế kỉ X đến thế kỉ </b></i>

<i><b>XVI qua một số triều đại phong kiến.</b></i>

<i><b>– Nhận biết được một số sự kiện và dấu ấn quan trọng của </b></i>

<i><b>Thái Bình từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI.</b></i>

<i><b>– Biết và giới thiệu được quần thể di tích nhà Trần ở </b></i>

<i><b>Thái Bình; đề xuất biện pháp gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.</b></i>

<b>1. Lịch sử Thái Bình từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI</b>

<i>a) Tình hình chính trị, xã hội</i>

Từ đầu thế kỉ X đến thế kỉ XVI, vùng đất Thái Bình được chia thành các lộ, phủ, đạo thuộc triều đình phong kiến quản lí. Đứng đầu các lộ, phủ, đạo

<i> Do nằm vùng ở ven biển có điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ khi được hình thành cho đến thế kỉ X, vùng đất Thái Bình khơng ngừng được mở mang. Trong các thế kỉ X – XVI, vùng đất Thái Bình tiếp tục có nhiều thay đổi, được bồi đắp, cải tạo trở thành vùng đất màu mỡ, thịnh vượng gắn liền với những chặng đường xây dựng và phát triển của quốc gia.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

là Tri phủ, Tri huyện. Dưới phủ, huyện là các tổng rồi lãng xã, hương, ấp mà đứng đầu là Chánh tổng, Lí trưởng. Dân cư thời kì này chủ yếu sống thành các làng xã. Trong xã hội, ngoài hai giai cấp chủ yếu là địa chủ, nơng dân cịn có tầng lớp nho sĩ, thợ thủ cơng. Triều đình phong kiến cai trị đất nước theo luật, còn ở các làng xã theo hương ước.

Dưới thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, Lí, Trần, Lê sơ tình hình chính trị, xã hội vùng đất Thái Bình khá ổn định và phát triển. Thời Lí, các lộ Long Hưng, Kiến Xương là chỗ dựa của triều đình. Triều Trần, Thái Bình là miền đất khởi nghiệp. Từ thế kỉ XVI trở đi, chế độ phong kiến mục ruỗng, vua quan chỉ ăn chơi vơ vét của dân, các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, phải chịu nhiều thuế khoá và chế độ lao dịch nặng nề.

<i>Thời Tiền Lê, Lê Long Ðĩnh – Lê Ngọa Triều (1005 – 1009) lên làm vua đã đổi châu Ðằng thành phủ Thái Bình. Địa danh Thái Bình được chính sử ghi nhận. Thời Lí (1010 – 1225), năm 1010, vua Lí Thái Tổ chia nước ra làm 24 lộ, miền đất Thái Bình thuộc hai lộ Long Hưng ở phía bắc sơng Trà Lí và lộ Kiến Xương ở phía nam sơng Trà Lí. Dưới lộ, nhà Lí đã cho thành lập huyện. Lộ Long Hưng có các huyện: Ngự Thiên, Diên Hà, Thần Khê, Cổ Lan, A Côi, Ða Dực, Tây Quan, Thái Bình. Lộ Kiến Xương gồm các huyện Bổng Ðiền, Bố (Vũ Tiên), Kiến Xương, Chân Lợi.</i>

<i>Thời nhà Trần (1225 – 1400), buổi đầu khi mới lên ngôi, vua Trần Thái Tơng tổ chức lại thành 12 lộ, đất Thái Bình vẫn thuộc hai lộ Long Hưng, Kiến Xương. Thời Trần Thuận Tông (1388 – 1398), Thái sư Hồ Quý Ly lại chia nước ra làm 15 lộ. Lộ Long Hưng tách thành hai lộ: Long Hưng và An Tiêm. Lộ An Tiêm gồm 4 huyện Thái Bình, Tây Quan, Ða Dực, A Côi. Như vậy, thời Trần miền đất Thái Bình thuộc ba phủ Long Hưng, Kiến Xương và An Tiêm.</i>

<i>Thời Lê sơ (1428 – 1527), Lê Lợi chia nước làm 5 đạo, bỏ tên do nhà Minh đặt, trả lại tên cũ, Kiến Xương được tách ra làm hai huyện Thư Trì, Vũ Tiên. Ðời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 7 (1466) chia nước </i>

Em có biết?

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i>thành 12 Thừa tuyên, đổi lộ thành phủ, đổi trấn làm châu. Thái Bình có ba phủ: Tân Hưng (từ năm 1600 vì kiêng h vua Lê Kính Tơng – Duy Tân, đổi gọi là Tiên Hưng) kiêm quản các huyện: Ngự Thiên, Diên Hà, Thần Khê, Thanh Lan (thời Trần là Cổ Lan). Phủ Kiến Xương kiêm quản các huyện: Chân Ðịnh, Vũ Tiên, Thư Trì. Phủ Thái Bình kiêm quản các huyện: Quỳnh Côi, Phủ Dực, Ðông Quan (Tây Quan), Thụy Anh (Thái Bình). Thế kỉ XV, miền đất Thái Bình thuộc Nam Đạo, năm 1471 đổi là đạo Sơn Nam của nhà Lê sơ.</i>

b. Tình hình kinh tế

Vùng đất Thái Bình sớm trở thành chỗ dựa cho Nhà nước về kinh tế. Các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê, Lí, Trần, Lê sơ đều có những chính sách quan tâm phát triển sản xuất nông ng-hiệp như lễ cày tịch điền, đắp đê trị thuỷ (“Cơi đê sông Hồng; Khai thông sông Luộc; Mở ruột sông Sinh; Cắt phình sơng Hố” để nước lũ, nước mặn đều thơng thốt, tránh nạn úng tắc), đẩy mạnh khai khẩn đất hoang, lấn biển xây dựng các điền trang thái ấp làm cho miền đất Thái Bình ngày càng trù phú hơn. Do điều kiện tự nhiên đất đai màu mỡ và tập quán canh tác, lúa nước được gieo cấy hai vụ trong một năm cho năng xuất cao, một số nơi ven biển hoặc đồng trũng chỉ cấy một vụ. Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong gia đình ở

<i><small>Hình 1. Làng nghề dệt chiếu Hới</small></i>

<i><small>Hình 2. Làng nghề truyền thống ươm tơ</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

vùng ven biển, ven sông được chú trọng, nhiều làng làm nghề đánh cá.

Trên vùng đất Thái Bình, nhiều ngành nghề thủ công xuất hiện từ sớm như dệt chiếu làng Hới (Hưng Hà), kéo tơ, dệt lụa ở Bộ La (Vũ Thư), Phong La (Hưng Hà), nghề chạm bạc ở Đồng Xâm (Hồng Thái – Kiến Xương)…

Sự phát triển triển của kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp đã thúc đẩy thương nghiệp phát triển sớm. Các chợ ở làng xã trở thành trung tâm trao đổi, buôn bán, họp theo phiên, nhân dân đến đổi chác, mua bán sản phẩm hàng tiêu dùng. Trong các thế kỉ này chưa

có phố phường, đơ thị hay trung tâm thương nghiệp nên chợ đóng vai trị rất quan trọng với đờii sống của cư dân vùng nơng thơn Thái Bình.

<i>Thế kỉ thứ X, tướng quân Trần Lãm chọn trung tâm cát cứ ở vùng đất Bố Hải Khẩu (từ phía nam sông Luộc kéo dài xuống vùng ven biển Nam Định, trung tâm là thành phố Thái Bình ngày nay) vì nơi đây ruộng tốt, người đơng và là một trong những trung tâm giao lưu với cảnh “trên bến dưới thuyền”. </i>

<i>Vùng đất Thái Bình được các vua Lí đặc biệt quan tâm. Mùa xuân năm Mậu Dần (1038), vua Lí Thái Tơng ngự ra Bố Hải Khẩu cày ruộng tịch điền; mùa đông năm Đinh Dậu (1057), vua Lí Thánh Tơng ngự đến cửa </i>

Em có biết?

<i><small>Hình 3. Khung cửi làng dệt</small></i>

<i><small>Hình 4. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<i>biển Đại Bàng; mùa hạ năm Giáp Thìn (1064), nhà vua xây hành cung ở cửa biển Bố Hải, mùa xuân năm Ất Tỵ (1065), vua ra hành cung Bố Hải cày ruộng tịch điền; mùa thu năm Canh Thìn (1080) vua Lí Nhân Tơng ngự ra Phù Nhân xem gặt,…</i>

<i>Tổ tiên nhà Trần từ nghề đánh cá đã chọn miền Hải Ấp (nay thuộc huyện Hưng Hà) lên bờ định cư, lập nghiệp. Từ vùng đất này, họ Trần đã sinh ra những anh tài, kiệt hiệt, nhờ phát nghiệp nông trang mà trở nên giàu có, từng bước tiến thân vào vũ đài chính trị. Thế kỉ XIII, nhà Trần chú trọng việc đào sông, đắp đê và đẩy mạnh khai hoang, mở lộ. Đê Đỉnh Nhĩ ven sông Hồng, cột mốc Đa Bối và chứng tích gia phả ở Thái Ninh, Kiến Xương </i> hành ở các làng, nhân dân xây dựng nhiều chùa thờ Phật như chùa Báo Quốc (Lưu Xá, Canh Tân, Hưng Hà). Từ cuối thời Trần sang thời Lê sơ, đạo Nho thịnh đạt, ở các làng, nhân dân dựng đình để thờ thành hồng làng.

Về giáo dục, thời kì này Thái Bình có nhiều vị đỗ đại khoa. Tiêu biểu là nhà thơ Phạm Nhữ Dực (Quỳnh Phụ) thi đỗ làm chức Giám hộ ở Tân An (Quảng Ninh) thời Trần – Hồ. Thời Lê sơ có Nguyễn Thành (Đơng Hưng), Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm (Thái Thụy).

<i><small>Hình 5. Chùa Keo</small></i>

<i><small>Hình 6. Đình làng</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Đặc biệt, thời vua Lê Thánh Tơng có Đồn Huệ Nhu – còn gọi là Phạm Như Huệ (Hưng Hà) là nhà thơ duy nhất của Thái Bình là thành viên hội Tao Đàn (hội thơ văn đầu tiên của nước ta thành lập năm 1495).

Về lễ hội, cư dân Thái Bình thời kì này sinh sống trong các làng – nơi nuôi dưỡng, gìn giữ các phong tục tập quán của làng. Hội làng là hình thức văn hố phổ biến ở hầu hết các làng. Lễ hội từng làng vừa mang đặc trưng chung của văn hố xóm làng người Việt, vừa mang đặc điểm riêng của từng cộng đồng dân cư. Chính từ lễ hội làng, các loại hình nghệ thuật đặc sắc đã ra đời và phát triển như múa rối nước ở làng Nguyên Xá, hát chèo ở làng Khuốc, …

<i>Đọc thông tin trong bài, hay cho biết tình hình chính trị, xã hơi, kinh tế và văn hố của vùng đất Thái Bình trong các thế kỉ X – XVI. Vì sao vùng đất Thái Bình được xác định là chỗ cho Nhà nước về kinh tế?</i>

<b>2. Một số sự kiện, dấu ấn quan trọng của Thái Bình từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI </b>

<i>a) Các điền trang thái ấp ở Thái Bình</i>

Thái Bình là q hương phát tích, khởi nghiệp của vương triều Trần. Từ rất sớm, nhà Trần đã ban phong nhiều điền trang, thái ấp cho các vương hầu thân tộc. Thái ấp ở nơi đây của Thái uý phụ chính Trần Tự Khánh ở Cả Lũ, Thần Khê (Thanh Long, Đông Hưng); của Phụng Càn vương Trần Liễu ở A Sào (An Đồng, An Thái, Quỳnh Phụ); của Tướng quốc Trần Nhật Hiệu ở Dương Xá (Tiến Đức, Hưng Hà); của vợ chồng Thái sư Trần Thủ

<i><b>??</b></i>

</div>

×