Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI TRONG PHÁP LUẬT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.9 KB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Huỳnh Anh Bộ môn: Luật Kinh tế </b>

<i><b>Hậu Giang, tháng 03 năm 2024 </b></i>

<b>BÀI BÁO CÁO NHÓM 01 </b>

<b>NHÓM HỌC PHẦN H01 – HỌC PHẦN KL376 HỌC KỲ II – NĂM HỌC 2023 – 2024 </b>

<b> PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI </b>

<b>TRONG PHÁP LUẬT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ </b>

<i><b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ </b></i>

<b>KHOA LUẬT </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

DANH SÁCH THÀNH VIÊN VÀ

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HỒN THÀNH CƠNG VIỆC

3 Trần Thị Kim Ngọc B2101705 100% Nội dung 4 Thạch Thanh Toàn B2108786 100% Nội dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

1. KHÁI NIỆM VỀ PHÁP LUẬT NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI ... 1

1.1. Định nghĩa “ni con ni” ... 1

1.2. Định nghĩa “ni con ni có yếu tố nước ngồi” ... 1

1.3. Định nghĩa “pháp luật ni con ni có yếu tố nước ngồi” ... 1

2. NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ... 1

2.1. Các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam là thành viên ... 1

2.2. Các văn bản quy phạm pháp luật trong nước ... 1

2.3. Tập quán trong pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngoài ... 1

3. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT XẢY RA ... 2

3.1. Ngun tắc giải quyết việc ni con ni có yếu tố nước ngoài... 2

3.2. Điều kiện đối với trẻ em Việt Nam được nhận là con nuôi ... 3

3.3. Điều kiện đối với người xin nhận con ni có yếu tố nước ngồi ... 3

3.4. Thẩm quyền, trình tự giới thiệu trẻ em làm con ni người nước ngồi ... 5

4. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỀ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở MỘT SỐ QUỐC GIA ... 6

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

1

<b>PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI TRONG PHÁP LUẬT TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1. KHÁI NIỆM VỀ PHÁP LUẬT NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI 1.1. Định nghĩa “ni con ni” </b>

Dưới góc độ xã hội, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi nhằm đáp ứng những nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận ni và người được nhận ni mà khơng có sự cơng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.<small>1</small>

Dưới góc độ pháp lý căn cứ tại khoản 1, Điều 3, Luật Nuôi con nuôi năm 2010: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.

<b>1.2. Định nghĩa “ni con ni có yếu tố nước ngoài” </b>

Căn cứ theo khoản 5, Điều 3, Luật Ni con ni năm 2010 Ni con ni có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, giữa công dân VIệt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.

Theo cơng ước La Haye 1993 Ni con ni có yếu tố nước ngoài là khi một trẻ em thường trú ở một Nước ký kết (Nước gốc) đã, đang hoặc sẽ được chuyển đến một Nước ký kết khác (Nước nhận) sau khi đã được một cặp vợ chồng hay một người thường trú ở nước nhận nhận làm con ni tại Nước gốc, hoặc vì mục đích của việc ni con ni như vậy tại Nước nhận hay Nước gốc.

<b>1.3. Định nghĩa “pháp luật ni con ni có yếu tố nước ngồi” </b>

Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi là tổng thể các quy phạm pháp luật quốc gia và các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.

<b>2. NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI </b>

<b>2.1. Các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam là thành viên </b>

Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi và các Hiệp định tương trợ tư pháp có nội dung liên quan đến ni con ni. Trong đó quan trọng là Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con ni quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/02/2012.

<b>2.2. Các văn bản quy phạm pháp luật trong nước </b>

<b>Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17/06/2010; </b>

Nghị định 19/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con

<b>nuôi; </b>

Nghị định 24/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.

<b>2.3. Tập quán trong pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngoài </b>

Theo quy định hiện hành của pháp luật, việc nuôi con nuôi theo tập quán được xem là hợp pháp nếu các bên tuân thủ quy định về điều kiện và thời gian đăng ký nuôi con nuôi.

<small>1</small><i><small> Bùi Thị Thanh Lê: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015: </small></i>

<small>4. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Tại Việt Nam, việc áp dụng tập quán trong quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi không phổ biến. Mặc dù quan hệ nuôi con ni theo tập qn có thể là vì lợi ích của con ni, người nhận ni, gia đình hoặc dòng họ, nhưng quan trọng là tất cả các bên phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Các quan hệ này đã tồn tại từ lâu, được xã hội và cộng đồng chấp nhận. Để được công nhận bởi pháp luật, các bên tham gia quan hệ nuôi con nuôi phải tuân thủ các quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010, Nghị định 24/2019/NĐ-CP sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 19/2011/NĐ-CP và các văn bản liên quan.

<b>3. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT XẢY RA </b>

<b>3.1. Ngun tắc giải quyết việc ni con ni có yếu tố nước ngồi </b>

Ngun tắc giải quyết việc ni con ni có yếu tố nước ngồi là những tư tưởng, quan điểm chủ đạo trong công việc quy định và giải quyết vấn đề ni con ni có yếu tố nước ngồi. Điều 4 Luật Ni con ni năm 2010 có quy định ba ngun tắc đối với việc ni con ni nói chung và ni con có yếu tố nước ngồi nói riêng như sau:

Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.

Việc ni con ni phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, khơng phân biệt nam nữ, khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Chỉ cho làm con ni người ở nước ngồi khi khơng thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, giải quyết việc ni con ni có yếu tố nước

<i>ngoài cần phải chú ý đến những nguyên tắc sau: Một là, nguyên tắc "Khi giải quyết việc </i>

<i>nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong gia đình gốc". Đây là </i>

nguyên tắc rất quan trọng được ghi nhận từ thực tế phát triển của trẻ em được cho/nhận làm con ni. Gia đình gốc nơi trẻ được sinh ra là môi trường lý tưởng nhất cho sự phát triển và hình thành nhân cách của trẻ, là gia đình của những người có quan hệ quyết thống chung với nhau. Do đó, nếu được sống trong gia đình gốc, trẻ em sẽ được sống trong môi trường tốt nhất, được những người ruột thịt yêu thương, chăm sóc, bảo vệ, tránh được những xâm hại về thể chất và tinh thần. Đây là tiền đề để trẻ em phát triển tốt về mặt tâm lý, tạo điều kiện tốt để phát triển toàn diện.

Ngun tắc này chi phối tồn bộ q trình cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Khi trẻ em được cho làm con ni thì thứ tự ưu tiên hàng đầu là những người thân trong gia đình của trẻ em đó, là những người có quan hệ nuôi dưỡng hoặc huyết thống gần gũi nhất như cha dượng, mẹ kế, cơ, dì, chú, bác ruột. Tiếp theo đó, người được ưu tiên nhận con ni là người Việt Nam ở trong nước, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam, cuối cùng mới đến người Việt Nam, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.

<i>Hai là, nguyên tắc "Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con ni và người nhận con ni, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam, nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội". Nguyên tắc này đề cao quyền và lợi </i>

ích hợp pháp của người được nhận làm con ni và người nhận con ni. Ngồi ra, việc ni con ni cịn phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng khơng phân biệt giới tính. Đây là nguyên tắc nhằm thiết lập các quan hệ nuôi con nuôi một cách bền vững.

<i>Ba là, nguyên tắc "Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngồi khi khơng thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước". Nguyên tắc này bổ trợ cho nguyên tắc "cần tơn trọng quyền được sống trong gia đình gốc" của trẻ em, thể hiện tinh thần ưu tiên cho người trong </i>

nước nhận trẻ em Việt Nam làm con ni hơn người nước ngồi. Nếu việc nuôi dưỡng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chăm sóc trẻ em trong gia đình gốc khơng thể thực hiện được thì việc tìm kiếm một gia đình thay thế trong lãnh thổ Việt Nam được ưu tiên trước khi tìm kiếm một gia đình thay thế cho trẻ em ở nước ngoài. Điều này đảm bảo cho Trẻ em Việt Nam vẫn được sống tại q hương, được sống trong mơi trường văn hóa, phong tục, tập quán của Việt Nam.

<b>3.2. Điều kiện đối với trẻ em Việt Nam được nhận là con nuôi </b>

Trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ 16 tuổi trở xuống (khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010). Trẻ em từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì có thể được nhận làm con ni nếu:

Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; Được cơ, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con ni.

Sở dĩ pháp luật Việt Nam có quy định như thế bởi ở độ tuổi này trẻ em chưa phát triển toàn diện về cả thể chất và tinh thần, khó có thể sống độc lập và tự lo cho cuộc sống của mình. Vì thế chúng cần được quan tâm và chăm sóc. Trẻ em chỉ có thể làm con ni của một người độc thân hoặc của hai vợ chồng là những người khác giới có quan hệ hơn nhân hợp pháp (khoản 3 và khoản 4 Điều 8 Luật Ni con ni 2010).

Ví dụ: Theo quy định của Pháp luật Việt Nam trẻ em được nhận làm con ni là trẻ em có độ tuổi từ 16 tuổi trở xuống. Theo Pháp luật của Pháp thì trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em có độ tuổi từ 15 tuổi trở xuống. Lúc này, xảy ra xung đột pháp luật giữa 2 nước.

<b>3.3. Điều kiện đối với người xin nhận con ni có yếu tố nước ngồi </b>

Trước hết, người nước ngoài muốn được nhận trẻ em Việt Nam làm con ni thì phải là người thường trú ở nước mà nước đó cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam. Người nước ngồi thường trú ở nước mà nước đó không cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam sẽ không được nhận Trẻ em Việt Nam làm con nuôi (Điều 28 Luật Nuôi con nuôi năm 2010). Quy định này là phù hợp khi Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993.

Theo khoản 2 Điều 28 Luật Ni con ni năm 2010 thì Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con ni đích danh trong các trường hợp sau đây:

Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con ni;

Là cơ, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; Có con ni là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;

Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con ni;

Là người nước ngồi đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm .

Như vậy, có thể hiểu là người nước ngoài thường trú ở bất cứ nước nào cũng có quyền được nhận đích danh trẻ em Việt Nam làm con nuôi trong các trường hợp trên, không phụ thuộc vào việc nước họ thường trú có cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam hay không. Quy định này hoàn toàn hợp lý, mang lại nhiều cơ hội để tìm kiếm gia đình thay thế cho những trẻ em có hồn cảnh đặc biệt.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải tuân thủ pháp luật của nước nơi người đó thường trú và các quy định sau đây của pháp luật Việt Nam (khoản 1 Điều 29 Luật Ni con ni năm 2010):

Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên; Có tư cách đạo đức tốt;

Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc, chăm sóc, ni dưỡng giáo dục con ni;

Không phải là người đang bị phạt tù, bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội: cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhânphẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Cơng dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngồi làm con ni phải đồng thời có đủ các điều kiện tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 như nêu trên và pháp luật của nước mà trẻ em đó thường trú (khoản 2 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi năm 2010).

<b>Giải quyết xung đột pháp luật theo các Điều ước quốc tế Việt Nam tham gia </b>

Phương pháp xung đột và việc áp dụng các quy phạm xung đột là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong các điều ước quốc tế, bởi nó dễ xây dựng, chi phí ít vì chỉ cần thông qua thỏa thuận của các bên. Nếu đi sâu nghiên cứu phương pháp thực chất và phương pháp xung đột thì ta thấy phương pháp thực chất có những điểm ưu việt hơn hẳn so với phương pháp xung đột bởi tính nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ

Ni con ni có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp thực chất đạt được sự thống nhất giữa các bên bởi giữa các quốc gia khơng có sự tương đồng về hồn cảnh lịch sử, thành phần dân tộc, trình độ phát triển và chế độ chính trị…Do đó, việc xây dựng một quy phạm thực chất là rất khó khăn.

Có thể thấy việc thống nhất các quy phạm xung đột cũng góp phần củng cố cho việc nhất thể hóa các quy phạm thực chất. Khi quy phạm xung đột của một điều ước quốc tế dẫn chiếu tới một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực chất được áp dụng để giải quyết quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài một cách dứt điểm thì ta lại thấy tính chất song hành giữa quy phạm xung đột và quy phạm thực chất.

Như vậy, sự thống nhất giữa quy phạm xung đột và quy phạm thực chất trong một điều ước quốc tế là nền tảng cần thiết để giải quyết quan hệ nuôi con nuôi giữa các quốc gia thành viên của điều ước. Qua đó, thiết lập một quy tắc xử sự chung, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi quốc tế.

<b>Giải quyết xung đột pháp luật theo Pháp luật Việt Nam </b>

Để giải quyết xung đột pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngồi, nguyên tắc lựa chọn pháp luật theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là kết hợp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi thường trú của cha, mẹ nuôi hoặc của con nuôi. Việc lựa chọn áp dụng luật nơi thường trú trách được tình trạng phức tạp xảy ra đối với người nhiều hoặc không quốc tịch khi tham gia vào quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.

Việc điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài theo luật nơi thường trú của người nhận hoặc người được nhận làm con nuôi, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 của Việt Nam và các quy định của Cơng ước La Hay năm 1993 có những sự tương thích. Theo quy định của Cơng ước, rất nhiều nội dung liên quan đến trình tự, thủ tục nhận con nuôi điều phải được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của Nước Gốc – nước người nhận nuôi thường trú.

Ví dụ: Tại Điều 14 của Cơng ước La Hay 1993 quy định như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

“Những người thường trú ở một Nước ký kết này muốn nhận trẻ em thường trú ở một Nước ký kết khác làm con nuôi cần phải liên hệ với Cơ quan Trung ương của Nước nơi họ thường trú”.

Bên cạnh những điểm hợp lý như trên, những vẫn còn một số điểm bất cập trong giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực nuôi con ni có yếu tố nước ngồi của Luật Ni con nuôi năm 2010 như sau:

Quy định tại khoản 2, Điều 29; khoản 1, Điều 40 Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Các quy định này chưa toàn diện, chưa bao quát được vấn đề xung đột phát sinh đối với quan hệ nuôi con ni có yếu tố nước ngồi.

Quy định tại khoản 1, Điều 41 quy định người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi phải tuân thủ các quy định tại Điều 14, 15, 16, 17, 18, 21, 22, 23, 24, 25, 26 và 27 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 những quy định này mang tính liệt kê, gây ra cách hiểu khơng chính xác cho việc xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.

<b>3.4. Thẩm quyền, trình tự giới thiệu trẻ em làm con ni người nước ngồi </b>

Việc giới thiệu trẻ em làm con ni có yếu tố nước ngồi được thực hiện theo trình tự như sau:

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận con nuôi, Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi trên cơ sở bảo đảm các căn cứ giới thiệu trẻ em làm con nuôi theo quy định và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Trước khi Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngồi, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con ni thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con ni đã hồn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để chấm dứt việc giới thiệu trẻ em làm con ni nước ngồi.

Sau khi giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Sở Tư pháp báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho ý kiến.

Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý việc giới thiệu trẻ em làm con ni, thì trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý, Sở Tư pháp chuyển cho Cục Con nuôi 01 bộ hồ sơ của trẻ em kèm theo văn bản đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Trường hợp không đồng ý với việc giới thiệu của Sở Tư pháp, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thơng báo rõ lý do bằng văn bản để Sở Tư pháp tiến hành giới thiệu lại. Sau 03 tháng kể từ ngày Ủy ban nhân dân tỉnh không đồng ý mà Sở Tư pháp khơng giới thiệu được thì Sở Tư pháp phải gửi trả lại hồ sơ của người nhận con nuôi cho Cục Con nuôi kèm theo văn bản nêu rõ lý do.

Trong khi kiểm tra kết quả giải quyết việc ni con, Cục Con ni có thể lấy ý kiến của chuyên gia tâm lý, y tế, gia đình, xã hội. Nếu trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi ở nước ngoài, việc giải quyết cho trẻ em làm con ni bảo đảm đúng trình tự, thủ tục quy định và đáp ứng lợi ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con ni thơng báo bằng văn bản cho người nhận con nuôi, Cơ quan Trung ương về ni con ni của nước ngồi hữu quan kèm theo báo cáo đánh giá về trẻ em đủ điều kiện cho làm con ni ở nước ngồi và văn bản lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sở ni dưỡng thì phải có văn bản lấy ý kiến của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc cho trẻ em làm con nuôi. Trường hợp trẻ em không đủ điều kiện để cho làm con nuôi, việc giải quyết cho trẻ em làm con ni khơng bảo đảm đúng trình tự, thủ tục quy định và khơng đáp ứng lợi ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con ni thơng báo cho Sở Tư pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra việc giới thiệu trẻ em làm con ni, nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá việc trẻ em Việt Nam đủ điều kiện được làm con ni nước ngồi và thơng báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú thông báo về sự đồng ý của người nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu, xác nhận trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước mà trẻ em được nhận làm con nuôi, Bộ Tư pháp thông báo cho Sở Tư pháp.

Người nhận con nuôi không được có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo giới thiệu trẻ em làm con nuôi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật nuôi con nuôi 2010.

Trường hợp người nhận con nuôi từ chối nhận trẻ em được giới thiệu làm con nuôi mà khơng có lý do chính đáng thì việc giải quyết hồ sơ xin nhận con ni của người đó chấm dứt.

<i><b>Cơ sở pháp lý: Điều 36 Luật nuôi con ni 2010, nghị định số 19/2011/NĐ-CP của </b></i>

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật nuôi con nuôi, nghị định 24/2019/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật nuôi con nuôi.

<b>4. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỀ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở MỘT SỐ QUỐC GIA </b>

Tại Cộng hịa Pháp, điều kiện của người nhận con ni theo pháp luật của Pháp là độ tuổi của người xin con nuôi và “Báo cáo tâm lý xã hội của người xin con nuôi”.

Khi liên hệ với pháp luật Trung Quốc ta thấy nên có sự ưu tiên trong việc cho ông bà nuôi cháu trước khi được cho làm con nuôi khi cháu mồ côi nha mẹ sẽ đảm bảo được tối đa cho trẻ được đảm bảo trong mơi trường gia đình ruột thịt.

Từ pháp luật Liên bang Nga: trẻ em được cho làm con ni có quyền được hưởng lương hưu và khoản trợ cấp dành cho cha mẹ nuôi bị chết.

<b>5. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG 5.1. Tình huống 1 </b>

Chị Võ Thị A 29 tuổi (quốc tịch Trung Quốc) đã có một con gái. Năm 2023, chị A đi du lịch tại Việt Nam đã tình cờ gặp cháu Lê Tấn B 3 tuổi, mồ côi bố mẹ, không may từ nhỏ bị nhiễm HIV đang sống tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tại Hà Nội. Ngày 17/01/2023, chị A đã đến Sở Tư pháp thành phố Hà Nội xin nhận cháu B làm con nuôi. Theo bạn luật nước nào được áp dụng để xác định điều kiện đối với chị A (người nhận nuôi)? Tại sao? Và Chị A có được nhận cháu B làm con nuôi không? Biết rằng theo Điều 6 Luật Nuôi con nuôi của Trung Quốc quy định người xin nhận nuôi phải đáp ứng các điều kiện: Khơng có khả năng sinh con; Có khả năng nuôi dưỡng và giáo dục trẻ được nhận làm con nuôi; Không bị các bệnh ảnh hưởng đến việc nuôi con nuôi; Từ 30 tuổi trở lên.

<i><b>Giải đáp: Xác định đây là quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài căn cứ theo </b></i>

khoản 1, Điều 28, Luật Nuôi con nuôi năm 2010.Và Việt Nam và Trung Quốc khơng có ký với nhau hiệp định liên quan đến việc ni con ni có yếu tố nước ngồi như vậy khi đó ta sử dụng Luật quốc gia để điều chỉnh. Căn cứ theo khoản 1, Điều 29 và Điều 14 Luật Nuôi con ni năm 2010 thì chị A đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 14 tuy nhiên lại không đủ điều kiện theo pháp luật Trung quốc là về độ tuổi và chị đã có con. Như

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

vậy, Luật được áp dụng là luật Trung Quốc và Điều 14, Luật Nuôi con nuôi 2010 và chị A không được nhận cháu B làm con ni.

<b>5.2. Tình huống 2 </b>

Bà Theresa May (Quốc tịch Mơng Cổ) có chồng là cơng dân Việt Nam, hiện nay bà sống và làm việc tại Mơng Cổ, trước đây có thường trú tại Việt Nam tuy nhiên hiện tại chỉ còn chồng ở Việt Nam. Trong chuyến đi du lịch tại Tràng An không may gặp tai nạn lật thuyền khi đang ngắm cảnh tại quần thể di tích Cố đơ Hoa Lư, bà được gia đình cháu Đinh Thanh H (2 tuổi) cứu sống, gia đình nghèo khó H từ khi sinh ra đã bị chuẩn đoán mắc bệnh tim bẩm sinh, gia đình khơng có khả năng trị bệnh hết hẳn cho con. Gia đình có hồn cảnh khó khăn, có 5 người con. Bà yêu quý cháu H và có nguyện vọng nhận H làm con ni và được gia đình đồng ý. Ngày 21/03/2023, bà đến Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình xin nhận cháu H làm con nuôi. Luật nước nào sẽ được áp dụng để xác định điều kiện đối với người nhận ni? Cơ quan có thẩm quyền để giải quyết việc nhận con nuôi của ông bà?

<i><b>Giải đáp: Xác định đây là việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngồi căn cứ theo khoản </b></i>

1, Điều 28, Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Việt Nam và Mông Cổ đã ký với nhau Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Mơng Cổ trong đó tại khoản 3 và 4, Điều 29 đã có điều chỉnh như vậy đối với trường hợp như trên sẽ căn cứ vào pháp luật của cả Mông Cổ và Việt Nam để xác định điều kiện đối với người nhận nuôi; cơ quan có thẩm quyền là cơ quan tại Việt Nam tức Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình.

</div>

×