Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Luận Văn: Thực trạng của việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng ở Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.26 KB, 49 trang )



Luận Văn:
Thực trạng của việc thực hiện chính sách lãi
suất tín dụng ở Việt Nam

1


MỤC LỤC

Phần một: Những vấn đề lí luận chung về lãi suất
I.

Lãi suất-Cấu trúc -Chức năng và vai trò
1. Định nghĩa lãi suất
2. Cấu trúc của lãi suất
3. Chức năng của lãi suất
4. Vai trò của lãi suất

II.

Nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất
1. Nguyên tắc
2. Hình thức lãi suất
3. Chính sách lãi suất

III.

Sự phân biệt
1. Lãi suất và lợi tức


2. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa

IV.

Phân loại lãi suất :
1.Căn cứ vào thời hạn tín dụng
2.Căn cứ vào các loại hình tín dụng

2


3.Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất
4.Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất
V.

Nhân tố tác động đến lãi suất
1. Sự thay đổi của tổng cầu
2. Chi tiêu của Chính phủ
3. Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư
4. Chính sách tiền tệ của Chính phủ

Phần hai: Thực trạng của việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng ở Việt Nam
I.

Đánh giá khái qt q trình đổi mới chính sách lãi suất
1. Giai doạn 1988-1992: thời kì lãi suất âm
2. Giai đoạn cuối 1992
3. Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể,
vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận
4. Giai đoạn từ 1/1/96

5. Nhìn lại diễn biến của lãi suất tín dụng trong năm 199 vừa qua

II.

Tình hình điều hành lãi suất
1. Những sai lầm cũ
2. Đặc điểm thị trường tín dụng Việt Nam
3. Những mặt được cơ bản của chính sách lãi suất trần
4. Những mặt hạn chế của chính sách lãi suất trần

III.

Thực trạng của việc giảm lãi suất trong chính sách kích cầu ở Việt Nam
hiện nay
1. Nguyên nhân tại sao NHNN Việt Nam đã giảm lãi suất trần đến 4 lần
mà mục đích kích cầu vẫn chưa thực hiện được
a. Tình hình kinh tế thế giới
b. Xu hướng giảm lãi suất trên thế giới
c. Các nguyên nhân trong nước
2. Mục đích của việc giảm lãi suất

3


Phần ba: Xu hướng- giải pháp để đổi mới và hồn thiện chính sách tín dụng
I.

Một số vướng mắc pháp lí giữa lãi suất ngân hàng với các qui định về lãi
suất trong các văn bản pháp luật
1. Các qui định về lãi suất trong Bộ luật dân sự

2. Các qui định liên quan đến lãi suất tiết kiệm trong Luật lao động
3. Kết luận và kiến nghị

II.

Định hướng điều hành lãi suất theo ý tưởng của Luật Ngân hàng Nhà
nước
1. Vừa áp dụng lãi suất trực tiếp vừa áp dụng lãi suất gián tiếp nhưng
tạm thời nghiêng về áp dụng lãi suất trực tiếp
2. Tự do hoá dần lãi suất thông qua lãi suất tái cấp vốn

III.

Thực hiện lãi suất cơ bản để tiến tới tự do hoá lãi suất
1. Điều kiện cần và đủ để chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản
2. Căn cứ xác định và các phương án điều hành lãi suất cơ bản
3. Các bước cải cách lãi suất

4


LỜI NÓI ĐẦU

Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều phạm trù kinh tế-tài chính,trong
đó lãi suất tín dụng ngân hàng là một trong những phạm trù quan trọng. Nếu
xác định lãi suất hợp lí sẽ là địn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thơng
hàng hố phát triển và ngược lại. Vì vậy, lãi suất ngân hàng vừa là cơng cụ
quản lí vĩ mơ của Nhà nước vừa là công cụ vi mô của các NHTM. Một chính
sách lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong một lãnh
thổ và đưọc NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù

hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời bảo đảm
được cho hoạt động của các NHTM thực sự có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng phản ánh quan hệ giữa các
chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng đối với các nguồn vốn trong nền kinh tế
trên nguyên tắc hồn trả có kèm theo lãi.Nhờ có hoạt động tín dụng mà một bộ
phận lớn vốn của xã hội dưới dạng hiện kim hoặc hiện vật được vận động từ
nơi tạm thời dư thừa sang nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong nền kinh tế.Đối với chủ thể “thừa “ vốn ,tín dụng mang đến cho
họ cơ hội khơng những bảo tồn được vốn mà còn thu lãi.Đối với các chủ thể

5


“thiếu “ vốn ,tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp ứng các nhu cầu sản
xuất,kinh doanh hoặc phục vụ cho đời sống sinh hoạt .
Công cụ và là địn bẩy quan trọng khơng thể thiếu được cho hoạt động tín dụng
ngân hàng chính là lãi suất tín dụng ngân hàng.Chính nhờ lãi suất tín dụng tác
động đến lợi ích của các chủ thể ,mà các quan hệ tín dụng được xác lập và vận
động.Nếu khơng có lãi suất tín dụng ,hoặc có nhưng khơng hợp lý thì nó sẽ làm
triệt tiêu các quan hệ tín dụng ,làm giảm đi vai trị tích cực vốn có của tín dụng
đối với sự phát triển của nền kinh tế . Như vậy, xây dựng một chính sách lãi
suất là cơ bản để giải quyết mối quan hệ này mang lại sự ổn định và hiệu quả
kinh tế -xã hội.
Sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất
định, góp phần khơng nhỏ vào những thành quả chung của nền kinh tế. Cùng
với quá trình từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, các nghiệp vụ ngân
hàng đã không ngừng được đổi mới và phát triển để phù hợp với điều kiện thực
tiễn của nước ta. Trong nhiệm vụ thực hiện xây dựng và điều hành chính sách
tiền tệ, NHNN đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết. Nhưng

quan trọng nhất vẫn là cơng cụ quản lí lãi suất. Lãi suất được coi là cơng cụ
nhạy cảm nhất, có ảnh hưởng trực tiếp lớn nhất. Thời gian qua, từ thực tế sử
dụng công cụ lãi suất, chúng ta đã đúc rút được khá nhiều kinh nghiệm, đặc
biệt là việc chuyển sang cơ chế lãi suất thực dương. Tuy cách thức áp dụng vẫn
cịn mang nhiều tính chất áp đặt, trực tiếp. Chính vì vậy, vấn đề điều hành lãi
suất cần phải được cải tiến để phù hợp hơn trong thời gian tới.
Trong đề tài này , em xin trình bày những vấn đề xoay quanh chủ đề trên. Tuy
nhiên , với sự hiểu biết về những kiến thức chuyên ngành còn hạn chế, đề án
chắc chắn còn nhiều sai sót. Em mong nhận được sự nhận xét , góp ý của các
thầy, các cơ để hồn thiện thêm vốn kiến thức của bản thân..

6


PHẦN MỘT
LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT

I.

LÃI SUẤT - CẤU TRÚC,CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA LÃI
SUẤT
1. Định nghĩa lãi suất
Có nhiều cách định nghĩa về lãi suất tín dụng .Lãi suất tín dụng như

nhiều người nói là giá cả của tín dụng hay nói một cách khác là tỷ lệ phần trăm
tính theo một thời gian xác định (ngày ,tuần ,tháng ,q ,năm..) dùng làm căn cứ
để tính tốn số lợi tức tín dụng mà các chủ thể đi vay phải trả hoặc các chủ thể
cho vay phải nhận được,nhằm điều hồ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia
quan hệ tín dụng .
Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung cầu vốn quyết định. Khi cung lớn

hơn cầu thì lãi suất giảm , khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng. Lãi suất vươn
tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn trên thị trường với lãi suất đó
bằng tổng cung về vốn được cung ứng trên thị trường đó ứng với lãi suất đó.
Vậy thì lãi suất phải là bao nhiêu mới là hợp lý? Trong lý luận về tư bản cho
vay C.Mác đã khẳng định rằng: “ Tiền không đẻ ra tiền ,tiền chỉ có thể đẻ ra
tiền một khi tiền được đưa vào sử dụng dể sản xuất ,lưu thộng hàng hố “,ơng
khẳng định lợi tức tín dụng (tiền lãi ) là một bộ phận của lợi nhuận mà người đi

7


vay tạo ra trong sản xuất kinh doanh nhờ sử dụng vốn tín dụng ,và phân phối
lại cho người cho vay dưới hình thức lợi tức.Từ lập luận này cho phép ta khẳng
định giới hạn tối đa của lãi suất nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình qn của
nền kinh tế ,còn giới hạn tối thiểu của lãi suất chính là chỉ số lạm phát ,bởi vì
nó làm cho người gửi ít nhất cũng bảo tồn được vốn .Nói chung ,để lãi suất tín
dụng trở thành địn bẩy kích thích và mở rộng quan hệ tín dụng trong nền kinh
tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng phải được kiểm soát trong khung giới hạn
sau đây:
Tỷ lệ lạm phát <=Lãi suất tín dụng <= Tỷ suất lợi nhuận bình qn
Vượt qua giới hạn trên ,lãi suất tín dụng nói riêng và tín dụng nói chung sẽ gây
tác động tiêu cực tới nền kinh tế-xã hội ,hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình
trạng bất ổn rối loạn .
2.Cấu trúc của lãi suất
a.Cấu trúc rủi ro của lãi suất
Khái niệm:Tính tương quan giữa những loại lãi suất của những cơng cụ
nợ có cùng kỳ hạn thanh tốn gọi là cấu trúc rủi ro của lãi suất
Các yếu tố gây ra hiện tượng này là:
*Rủi ro vỡ nợ
Rủi ro vỡ nợ là khả năng người đi vay không trả đủ tiền lãi,tiền gốc hoặc

cả hai khi đến hạn trả. Rủi ro vỡ nợ là một thuộc tính của các cơng cụ nợ
nhưng khơng phải mọi cơng cụ nợ đều có thuộc tính này .Ví dụ chứng khốn
của chính phủ khơng có rủi ro vỡ nợ .Khoảng cách (chênh lệch) giữa lãi suất
của một cơng cụ nợ có rủi ro với lãi suất của một cơng cụ nợ khơng có rủi ro
được gọi là mức bù rủi ro .Rủi ro vỡ nợ càng cao thì mức bù rủi ro càng lớn
.Đối với những cơng cụ có rủi ro vỡ nợ sẽ ln có mức bù rủi ro dương và một
sự tăng rủi ro vỡ nợ của nó sẽ làm tăng mức bùi rủi ro này.
*Tính lỏng
Tính lỏng của một tài sản là nói tới khả năng có thể chuyển đổi nó
thành tiền mặt một cách nhanh chóng và ít tốn kém.Tính lỏng có ảnh hưởng

8


đến lãi suất vì một tài sản càng lỏng ,càng được ưa chuộng (điều kiện :mọi yếu
tố khác không đổi ),cầu về nó tăng lên so với cung nên làm lãi suất giảm xuống
.Một công cụ nợ càng kém “lỏng “ ,lãi suất của nó sẽ càng cao so với những
công cụ “lỏng “ hơn .Khoảng cách lãi suất giữa công cụ nợ kém lỏng so với
công cụ lỏng hơn cũng gọi là mức bù rủi ro ,đơi khi cịn gọi là mức bù tính lỏng
*Qui chế thuế thu nhập
Nếu qui chế thuế thu nhập qui định :có những cơng cụ nợ phải
chịu thuế thu nhập khi thanh toán tiền lãi thì thuế thu nhập là một yếu t tạo
nên sự khác nhau trong lãi suất của công cụ nợ .Đối với những cơng cụ nợ mà
tiền thanh tốn lãi của nó được miễn ,thuế thu nhập có lãi suất thấp hơn lãi suất
của công cụ nợ chịu thuế thu nhập .Sở dĩ như vậy vì :Do khơng phải chịu thuế
thu nhập nên có lợi tức dự tính sau thuế cao hơn so với công cụ nợ phải chịu
thuế thu nhập khiến cho nó được ưa chuộng hơn ,cầu về nó tăng so với cung
làm lãi của nó giảm xuống thấp hơn so lãi suất của công cụ nợ phải chịu thuế
thu nhập .
Như vậy ,Cấu trúc rủi ro của lãi suất được giả thích bằng ba

yêú tố :
Rủi ro vỡ nợ ,tính lỏng và qui chế thuế thu nhập đối với công cụ nợ .Khi rủi ro
vỡ nợ của một công cụ nợ tăng khoảng cách giữa lãi suất của nó với lãi suất của
cơng cụ nợ khơng có vỡ nợ tăng lên (mức bù rủi ro tăng lên).Khi tính lỏng của
một cơng cụ nợ được cải thiện ,lãi suất của nó giảm xuống.Nếu một cơng cụ nợ
được hưởng một qui chế thu nhập thuận lợi thì lãi suất của nó sẽ thấp hơn lãi
suất của những cơng cụ nợ so sánh khơng có những thuận lợi về thuế này.
b.Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất
-Khái niệm :Tính tương quan giữa những lãi suất của các công cụ nợ có
cùng đặc tính rủi ro ,tính lỏng và thuế thu nhập nhưng có kỳ hạn thanh tốn
khác nhau gọi là cấu trúc kỳ hạn của lãi suất.
*Giả thuyết về dự tính:

9


Giả thuyết hình thành xuất phát từ tiền đề cho rằng những người mua
công cụ nợ không ưu tiên nhưngx cơng cụ nợ có kỳ hạn thanh tốn này hơn là
những cơng cụ nợ có một hạn kỳ thanh tốn khác mà họ ưu tiên cho những
công cụ nợ nào có tỷ suất lợi tức cao hơn bất kể kỳ hạn của nó ngắn hạn hay
dài .
Giả thuyết về dự tính coi lãi suất dài hạn của một cơng cụ nợ bằng trung
bình của những lãi suất ngắn hạn tương lai được trông đợi xuất hiện trong suốt
thời gian tồn tại của cơng cụ nợ dài hạn đó. Nội dung của giả thuyết dự tính có
thể cụ thể hố bằng công thức sau:
it

ie t+1

+


iet+2

+

+ .. . . . . .+ ie t+n-1

int =
n
Trong đó :
:Lãi suất hơm nay(tại thời điểm t) của công cụ n giai đoạn.

int

:Lãi suất hôm nay(tại thời điểm t) của một công cụ nợ loại1

it
giai đoạn
i

e
t+1

,ie

t+2

,. . . ,ie

t+n-1


:Lãi suất của một công cụ nợ loại 1các giai

đoạn dự tính tiếp theo
Giả thuyết dự tính giải thích về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất bao gồm
:
+Giải thích lãi suất của những cơng cụ nợ có kỳ hạn thanh tốn khác nhau thì
khác nhau chín là do những lãi suất ngắn hạn được trông đợi là có những giá trị
khác nhau trong tương lai.
+Gải thích các đường lãi suất có hình dạng khác nhau là thể hiện cấu trúc có
kỳ hạn của lãi suất
Đường lãi suất dốc lên là do lãi suất ngắn hạn được trông đợi tăng lên trong
tương lai.
Đường lãi suất dốc xuống lá do trung bình của các lãi suất ngắn hạn tương lai
được trông đợi sụt giảm .

10


Đường lãi suất nằm ngang là do các lãi suất ngắn hạn khơng được trơng đợicó
sự thay đổi tính theo trung bình trong tương lai.
+Giả thích vì sao những lãi suất của những cơng cụ nợ có kỳ hạn thanh toán
khác nhau diễn biễn theo nhau .
-Ưu điểm của giả thuyết :Mang lại sự giải thích giản đơn về hình thái diễn biến
của cấu trúc kỳ hạn của lãi suất .
-Nhược điểm :Khơng giải thích được hiện tượng xảy ra trên thực tế là các lãi
suất ngắn hạn có khả năng sụt giảm như khả năng tăng lên.
*Lý thuyết thị trường phân cách :
Lý thuyết này xuất phát từ tiền đè cho rằng lãi suất của những công cụ nợ có kỳ
hạn thanh tốn khác nhau hồn tồn khơng thể thay thế cho nhau.Theo lý

thuyết này lãi suất cho một cơng cụ nợ lúc đó được xác định theo lượng cung
và cầu đối với cơng cụ nợ hạn kỳ đó và khơng chịu tác dụng của lợi tức dự tính
của những cơng cụ nợ có kỳ hạn khác.Lượng cung và cầu về các cơng cụ nợ có
kỳ hạn thanh tốn khác nhau thì khác nhau ,cụ thể :
Các đườnglãi suất dốc lên vì lượng cầu về những cơng cụ nợ ngắn hạn tương
đối cao hơn so với lượng cầu về những công cụ nợ dài hạn .Công cụ nợ ngắn
hạn có giá cao hơn và lãi suất thấp hơn cơng cụ dà hạn
Các đường cong lãi suất dốc xuống là vì lượng cầu về cơng cụ nợ ngấn hạn là
tương đối cao hơn .
-Ưu điểm : Giải thích được tại sao đường lãi suất thường có xu hướng dốc lên.
-Nhược điểm :Khơng giải thích được trường hợp xảy ra trong thực tiễn là
những lãi suất của những công cụ nự khác nhau có diễn biến theo nhau.
*Lý thuyết mơi trường ưu tiên:
Lý thuyết này xuất phát từ cả hai tiền đề của cả hai lý thuyết trên.Lý thuyết giải
thích những cơng cụ nợ có kỳ hạn thanh tốn khác nhau lại diễn biến theo nhau
qua thời gian là do một sự tăng các lãi suất ngắn hạn chỉ ra rằng các lãi suất
ngắn hạn ,tính trung bình ,sẽ cao hơn trong tương lai và các lãi suất dài hạn sẽ
tăng theo chúng

11


Lý thuyết này coi các lãi suất dài hạn là bằng trung bình của những lãi suất
ngắn hạn tương lai được trông đợi xảy ra trong suốt thời gian tồn tại của một
trái khoán dài hạn cộng với một mức bù hạn kỳ ,mức bù này phản ánh mức
cung và cầu về những trái khốn có những kỳ hạn khác nhau.Lý thuyết này cho
phép ta suy ra những dự tính của thị trường về những những diễn biến của
những lãi suất ngắn hạn tương lai dựa trên đường lãi suất hoàn vốn.
Một đường dốc mạnh cho biết rằng các lãi suất ngắn hạn được trong đợi trong
tương lai tăng lên .Một đường dốc lên thoai thoải cho biết rằng các lãi suất

ngắn hạn được trông đợi sẽ gữ nguyên không đổi .Một đường nằm ngang cho
biết lãi suất được trông đợi sẽ giảm nhẹ .Một đường dốc xuống cho biết sự
giảm sút nghiêm trọng của các lãi suất

ngắn hạn được trông đợi trong tương

lai .
-Ưu điểm :Lý thuyết môi trường ưu tiên đã kết hợp các đặc điểm của các giả
thuyết trước đó nên nó có một cách giải thích khá hoàn hảo các sự việc xảy ra
trên thực tế về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất .nó là lý thuyết được chấp nhận
rộng rãi nhất trong việc giải thích cấu trúc có kỳ hạn của lãi suất.Mặt khác ,nó
chỉ ra cho nhà đầu tư biết những dự đốn của thị trường về diễn biến lãi suất
ngắn hạn trong tương lai chỉ bằng cách nhìn vào hướng dốc của các đường lãi
suất hoàn vốn.
3.Chức năng
a. Phân phối
Trong chức năng này, các lãi suất giúp cho nền kinh tế phân bổ khoản tiết
kiệm vào những cách sử dụng khác nhau. Đối với những người có tiền tiết
kiệm thì lãi suất là tiền thưởng cho việc hạn chế tiêu dùng và chờ đợi tiêu dùng
vào thời gian trong tương lai. Lãi suất tiết kiệm càng cao càng khuyến khích
được nhiều người gửi tiền tiết kiệm.
Đối với những người đi vay, lãi suất là cái giá phải trả cho số tiền vay để
đầu tư hay tiêu dùng. Lãi suất cho vay càng cao, người ta vay mượn để đầu tư
hay tiêu dùng càng ít. Trường hợp một gia đình vay tiền để mua nhà thì lãi suất

12


tiền vay là lãi suất cầm cố. Những người vay tiền để kinh doanh, khi quyết định
đầu tư bao nhiêu phải so sánh lãi suất phải trả cho khoản vay với số tiền kiếm

được từ các dự án đầu tư.

b. Kiểm sốt
Lãi suất có vai trị trung tâm trong chính sách tiền tệ của chính phủ.
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất
như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng cung
ứng tiền tệ. Khi mức cung ứng tiền tăng lên, nếu đem số tiền tạm thời thừa ra
cho vay, đầu tư thì lãi suất sẽ hạ xuống. Khi lãi suất giảm, giá thành đầu tư
giảm theo, các doanh nghiệp lại tăng đầu tư, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng tăng
lên, lãi suất lại tăng lên.
Lãi suất có vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Thông qua sự biến động
của lãi suất, người ta có thể dự đốn được nền kinh tế đang phát triển hay đang
suy thoái.
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế vì nó trực tiếp tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi người cũng
như sức khoẻ của nền kinh tế.
Lãi suất tác động đến những quyết định cá nhân như chi tiêu hay để
dành, mua nhà , mua chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân hàng.
Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh
nghiệp hoặc gia đình như dùng vốn đầu tư vào nhà máy mới, mua thêm tư liệu
sản xuất, đầu cơ chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân hàng. Mỗi mức lãi suất
đều có tác động trực tiếp đến tiết kiệm, đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, giá cả, tỷ
giá hối đoái và lạm phát. Khi lãi suất ổn định, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư ổn
định, nền kinh tế phát triển theo kế hoạch. Khi lãi suất tăng, nhu cầu tiêu dùng
và đầu tư tăng, việc làm tăng, sản lượng tăng, thu nhập tăng. Tóm lại , lãi suất

13


là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí

đầu tư, quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu tiền tệ.
4.Vai trị :
Lãi suất đóng một vai trị hết sức to lớn trong nền kinh tế ,thể hiện:
-Trong nền kinh tế có những chủ thể thừa vốn hoặc khơng đưa vốn vào kinh
doanh ,khiến cho số vốn đó nằm im trong túi và trở thành “vốn chết “.
Ngược lại ,lại có những chủ thể muốn đi vào kinh doanh nhưng khơng có vốn
,thiếu vốn .Thật là có lợi nếu như hai chủ thể đó trao đổi cho nhau .Vậy cơ sở
nào để có thể tiến hành sự trao đổi ?Lãi suất chính là điểm gặp của những
người tiết kiệm (thừa vốn ,có vốn nhàn rỗi ) với những nhà đầu tư (thiếu vốn
,cần vốn ).Lãi suất làm dung hoà lợi ích của các bên .Người tiết kiệm ,nếu đem
tiền của mình cho người khác vay,họ sẽ nhận được một khoản lãi nhất định
được tính theo lãi suất ngân hàng hoặc lãi suất do hai bên tự thoả thuận .Người
đầu tư đem khoản tiền vay được đó đi vào kinh doanh ,biến số tiền đó thành
vốn .Khi sản xuất kinh doanh phát triển ,làm ăn có lãi ,ngồi việc họ trả được
số tiền vay ,họ còn thu được thêm lợi nhuận .Như vậy họ đã biết cách dùng tiền
của người khác để tạo ra tiền cho mình .
-Mặt khác ,vì là lãi suất đem lại lợi ích cho nhà tiết kiệm ,nên với mức lãi suất
hợp lý sẽ khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế.Theo một mô thức logic
,tiết kiệm tăng sẽ khiến cho đầu tư cũng tăng và thúc đẩy sản xuất xã hội phát
triển .
-Một vai trò không thể thiếu là :lãi suất là một công cụ quan trọng để nhà
nước có thể điều tiết vĩ mơ nền kinh tế .Thông qua lãi suất ,nhà nước thực hiện
chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài khố của mình .Đối với chính sách
tiền tệ ,khi lãi suất tăng sẽ làm cho cung tiền giảm và ngược lại .
Đối với chính sách tài khố ,lãi suất cao sẽ tác động gián tiếp tới cung cầu của
thị trường hàng hóa.Lãi suất tiền gửi tăng sẽ kéo theo sự tăng lãi suất cho
vay.Sự tăng lãi suất sẽ đẩy giá bán của hàng hoá lên.Giả sử ban đầu nền kinh tế
đang cân bằng (cung hàng hoá bằng cầu hàng hoá ),khi lãi suất tăng dẫn tới giá

14



cả hàng hoá tăng sẽ làm cho cầu về hàng hố đó giảm,nền kinh tế trở nên dư
cung hàng hố ,các nhà sản xuất phải thu hẹp sản lượng .Ngược lại ,lãi suất
thấp sẽ dẫn tới giá bán hàng hoá giảm ,kích thích tiêu dùng , làm cho cầu về
hàng hố đó tăng .Cầu tăng ,trong khi cung khơng đổi sẽ dẫn tới tình trạng dư
cầu hàng hố .Để đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của xã hội ,các nhà sản xuất có
thể đẩy được giá bán lên hoặc tiếp tục mở rộng sản xuất ,tạo ra hàng hoá ngày
càng đa dạng cho thị trường
-Ngồi ra ,lãi suất cịn có tác động rất lớn tới chế độ tỉ giá .Nếu lãi suất trên thế
giới lớn hơn lãi suất trong nước thì nguồn vốn của tư bản nước ngồi đổ vào
trong nước ,làm cho cung ngoại tệ tăng lên ,tỉ giá giảm .Ngược lại ,nếu lãi suất
thế giới nhỏ hơn lãi suất trong nước sẽ dẫn tới hiện tượng nguồn vốn trong
nước chảy ra nước ngoài ,làm cho cung ngoại tệ giảm ,tỉ giá tăng.
Như vậy ,lãi suất là một công cụ không thể thiếu được trong bất kỳ nền kinh tế
của nước nào .

II.

NGUYÊN TẮC CƠ BẢN HÌNH THÀNH LÃI SUẤT
1. Nguyên tắc

- Nguyên tắc bảo toàn giá trị đồng tiền: địi hỏi lãi suất ít nhất phải bằng tỷ
lệ lạm phát.
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người gửi tiền
Lãi suất tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người vay vốn ngân hàng
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay


2. Hình thức lãi suất

15


Lãi suất tín dụng của NHNN : là cơng cụ vĩ mô của Nhà nước, điều chỉnh
cung cầu tiền tệ, điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế. Đâycó thể là lãi
suất tái chiết khấu, tái cấp vốn căn cứ vào nhiều tiêu thức, yếu tố nhưng cơ bản
là mục tiêu chính sách tiền tệ thời kì đó.
Lãi suất tín dụng của NHTM: là cơng cụ kinh tế vi mô, bao gồm lãi suất
đầu vào, lãi suất đầu ra hay gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của
NHTM.

3. Chính sách lãi suất
Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế,
trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó
là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai,
chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị
trường tiền tệ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và cơng bằng giữa các tổ chức tín
dụng, xố bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính sách lãi
suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, tránh tình trạng biến
tướng chi phí của các TCTD vào giá thành sản xuất của xã hội. ngồi ra, đối
với các TCTD, chính sách lãi suất cịn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất
đủ để duy trì và phát triển hoạt ddộng kinh doanh.

III.

SỰ PHÂN BIỆT
1. Lãi suất và lợi tức

Nhiều người nghĩ rằng lãi suất của một trái khoán cho họ biết đủ những

gì cần thiết về việc họ đã khá lên như thế nào do sở hữu nó. Một người thu lợi
như thế nào khi nắm giữ một trái khoán hay một chứng khốn bất kì khác qua
một khoảng thời gian nhất định sẽ được lượng định một cách chính xác bằng
lợi tức . Đối với một chứng khoán bất kì, tỷ suất lợi tức được định nghĩa là tiền

16


trả cho chủ sở hữu nó cộng với sự thay đổi về giá trị của chứng khốn đó rồi
chia cho giá mua.
Lợi tức của một trái khốn khơng nhất thiết bằng lãi suất của nó. Tuy
hiên, trong nhiều trường hợp, lợi tức và lãi suất có quan hệ chặt chẽ với nhau.

2. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa
Trong thời kì lạm phát, cần phân biệt giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh
nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất bằng tiền trên các tài sản bằng tiền.
Lãi suất thực tế là lãi suất tính theo giá trị thực tế của hàng hố và dịch vụ. Nó
được chỉnh lại theo những thay đổi về mức giá, phản ánh đúng chi phí thật của
việc vay tiền. Đây là một cách tính tốn chính xác cho những người muốn đi
vay hoặc muốn cho vay. Lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi mức
lạm phát.
Theo Fisher, lạm phát tăng lên 1% sẽ kéo lãi suất danh nghĩa tăngthêm
1%. Lãi suất danh nghĩa thường tăng ngang với mức lạm phát để giữ nguyên lãi
suất thực tế. Mức chênh lệch giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa càng lớn
có nghĩa là lạm phát càng cao. Lãi suất danh nghĩa tăng hay giảm liên quan mật
thiết tới lạm phát dự kiến.
Lãi suất danh nghĩa không phải lúc nào cũng cho biết lãi suất thực tế là

dương. Trường hợp này đã từng có ở Việt Nam trong những năm 80, khi trong
nhiều năm liền lãi suất tiền gửi tiết kiệm luôn thấp hơn mức lạm phát.
IV.PHÂN LOẠI LÃI SUẤT:
1.Căn cứ vào thời hạn tín dụng :
Lãi suất được chia thành 3 loại chính sau:
Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn .
Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn.
Lãi suất tín dụng áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn .
2.Căn cứ vào các loại hình tín dụng :

17


a.Lãi suất tín dụng thương mại (TDTM):
Mệnh giá thương phiếu-Giá cả hàng hoá trả ngay
Lãi suất TDTM=
Mệnh giá thương phiếu

b.Lãi suất tín dụng ngân hàng:
Lãi suất tiền gửi :là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi.Mức lãi suất tiền
gửi phụ thuộc vào thời hạn ,qui mô tiền gửi .
Lãi suất tiền vay :là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu:áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc các chứng từ có giá khác chưa đến hạn
thanh tốn của khách hàng.Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của chứng
từ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng
.Như vậy nếu nếu xét trong quan hệ giữa ngân hàng với người vay chiết
khấu,lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi
suất thông thường.

Mệnh giá thương phiếu-giá bán thương phiếu
Lãi suất chiết khấu=
Mệnh giá thương phiếu

PHẦN HAI
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM
I.

NHẬN ĐỊNH KHÁI QUÁT VỀ Q TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM

18


1. Giai đoạn 1988-1992: Thời kì lãi suất âm
Nghị định 53/HĐBT ngày 26//3/88 và hai Pháp lệnh về Ngân hàng
(1/10/90) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp, từng bước cuyển hoạt
động ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, do lạm phát còn ở mức cao
nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất
âm. NHNN qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và cho vay để các NHTM
thực hiện. Lãi suất âm có đặc điểm:
-

Lãĩ suất tiền gửi thấp hơn lạm phát

-

Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn lạm phát.


2. Giai đoạn cuối năm 1992 :chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương:
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, có điều kiện
thực hiện chính sách lãi suất dương tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy
động và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lạm phát. Tháng 10/92, NHNN bắt
đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/93 thì thực hiệ lãi suất
dương hồn tồn, nhưng NHNN vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho
vay cụ thể có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế: cho vay đối với
doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho
vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung, dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết
kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi các tổ chức kinh tế.

3. Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể ,
vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận:
Từ 1/10/93, NHNN qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể,
vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi
suất cho vay cụ thể ( Quyết định 184/QĐ-NH1 ngày 28/9/93)”
- Lãi suất giai đoạn này có hai loại: lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước
và lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh.

19


- Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng: nếu vốn
huy động tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất qui định mà khơng đủ
để cho vay thì các TCTD được phép phát hành kì phiếu với lãi suất cao
hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn tối đa là 0,2%/tháng và cho vay với lãi
suất cao hơn trên cơ sở thoả thuận với khách hàng theo phương châm:
ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp nhận được. Cơ chế lãi suất
cho vay thoả thuận có người gọi đó là đã “ tự do hoá lãi suất một nửa”.
Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các NHTM đã cho vay với tỷ

lệ khá cao: từ 30-60% dư nợ và đối tượng chịu lãi suất thoả thuận chủ yếu là
các doanh nghiệp ngồi quốc doanh, hộ nơng dân . Điều đó cũng nói lên một
thực tế khách quan là lãi suất đã theo nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi
phí hoạt động ngân hàng ở nơng thơn cao hơn.
Thời kì này, các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất huy động cao, phổ biến là từ 0,7%-1%/tháng, cho nên, hầu hết các
NHTM đều có mức lợi nhuận cao, trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn
về tài chính. Từ thực trạng này , Quốc hội khố IX, kì họp thứ 8 tháng 10/95 đã
thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh htu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng
thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay. Đồng
thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động
0,35%/tháng. Đó là lí do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách
trần lãi suất.

4. Từ 1/1/96 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất
Trên cơ sở Nghị quyết của quốc hội về bỏ thuế doanh thu hoạt động tín
dụng , yêu cầu ngân hàng giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay và khống chế
chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức
0.35%/tháng, nên NHNN đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần
lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các NHTM chỉ được hưởng
chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc qui định

20


các mức lãi suất cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay theo thoẻ thuận . Chính sách
điều hành lãi suất vừa qui định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch nên có
quan điểm cho rằng thực chất của nó là vừa qui định trần, vừa qui định sàn lãi
suất.
Trần lãi suất cho vay được qui định nhiều mức trần khác nhau, xuất phát

từ đặc điểm có nhiều loại hình thức tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn
khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, qui mơ khác nhau và do đó chi phí hoạt
động khác nhau, nên qui định nhiều mức trần cho vay khác nhau. Lúc đầu có 4
loại :
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn ( áp dụng cho khu vực thành thị)
- Trần lãi suất cho vay trung , dài hạn
- Trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng cho vay trên địa bàn nông
thôn
- Trần lãi suất cho vay của quĩ tín dụng nhân dân
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với nhau khá xa
nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cách này đã rút ngắn lại và chỉ cịn chênh
lệch ít.
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là nơi có chi phí cao , cho
vay món nhỏ chi phí lớn, rủi ro cao, thiếu vốn là khu vực nơng thơn có nhu cầu
vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở
đây cao, nên NHNN qui định trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị
nhằm thu hút vốn từ thành thị về nông thôn cho vay bằng công cụ lãi suất và
bảo đảm cho các NHTM ở nơng thơn bù đắp được chi phí. Nhưng nhiều quan
diểm cho rằng lãi suất cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị
mới ưu đãi nông nghiệp, mới khuyến khích nơng nghiệp phát triển. Cho nên,
với quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN1 của Thống đốc NHNN từ 21/1/98 đã
xoá bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nơng thơn, rút từ 4
mức trần cuống cịn 3, khoảng cách giữa chúng cũng không xa nhau như trước
và không qui định chênh lệch 0,35%/tháng. Qui định này có ưu việt là giảm sự

21


chênh lệch lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh ở thành thị với mức lãi suất
cho hộ nông dân vay nhưng ở nông thôn lại thiếu vốn và không bảo đảm an

tồn hệ thống các tổ chức tín dụng nhất là ở khu vực nông thôn.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, NHNN cũng khống chế trần lãi suất
cho vay và khi có sự biến động tỷ giá, đã phối hợp chặt chẽ giữa công cụ lãi
suất và tỷ giá như khống chế trần lãi suất tiền gửi các doanh nghiệp để tăng
cường quản lí ngoại tệ và chống hiện tượng đơla hố.
5.Nhìn lại diễn biến lãi suất tín dụng năm 1999 vừa qua:
Năm 1999 ,NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách
lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các
TCTD ;trong khôn khổ trần lãi suất cho vay ,TCTD được phép qui định các
mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu
về vốn tín dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan trọng
vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong năm vừa qua.
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên tục ,phù hợp với chỉ
số lạm phát ,quan hệ cung cầu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp phần thực
hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ thơng qua cơ chế nới lỏng lãi
suất tín dụng.Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều
nhất từ trước đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn co sxu hướng giảm sau các lần
điều chỉnh ,cụ thể như sau :
Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị 01/1999/Ct-NHNN1 điều chỉnh
giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh đối với
khách hàng ở khu vực thành thị từ 1.2-1.25% /tháng xuống 1.11.15%/tháng;các TCTD khác vẫn thực hiẹntheo mức trần 1.2%/tháng đối với
cho vay ngắn hạn và 1.25%/tháng đối với cho vay trun gvà dài hạn.
Ngày29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát ,tăng trưởng kinh
tế chậm lại ,sức mua giảm sút .,Thống đốc NHNN đã có Quyết định
184/199/QĐ-NHNN1 về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng
Việt Nam từ 1.2-1.25%/tháng xuống mức 1.15%/tháng áp dụng chung cho các

22



TCTD cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc giảm trần lãi
suất cho vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn của NH từ 1%/tháng và lãi
suất tái cấp vốn về cho vay chỉ định thu mua tạm trữ xuất khẩu 0.9%/tháng
xuống thống nhất một mức là 0.85%/tháng.Như vậy ,từ tháng 6/1999 từ chỗ
nhiều trần lãi suất ngắn ,trung ,dài hạn ,trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
và nông thôn khác nhau đã thống nhất một trân fáp dụng chung cho các TCTD
,không phân biệt quốc doanh hay cổ phần .
Tháng 9/1999,Thống đốc NHNN có chỉ thị 05/1999/CT-NHNN1 điều chỉnh
giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM qốc doanh đối với
khách hàng ở khu vực thành thị từ 1.05%/tháng xuống 0.95%/tháng Đây là
một bước tiến chính trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn cho các
TCTD trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với điêù kiện về
chi phí ,cung cầu với trên từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng
khoản vay ,tạo tiền đề cho việc áp dụng cơ chế điều hành chính sách lãi suất
của NHNN theo lãi suất cơ bản

II.

TÌNH HÌNH ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT

1. Những sai lầm cũ
Trong thời kì quan liêu trì trệ trước năm 1988, lãi suất của Việt Nam
không theo qui luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHNN áp đặt là một trong
những nguyên nhân gây ra và kéo dài lạm phất phi mã. Đến tháng 3.89, qui luật
lãi suất thực mới được công nhận nhưng tư tưởng lãi suất ngân hàng phải áp sát
lãi suất thị trường đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kì cao 12%/tháng mặc dù tỷ
lệ lậm phát nửa cuối năm 1988 chỉ còn 7%/tháng , tháng 5/89 còn 0,87%. Lãi
suất cực kì cao vẫn cịn ảnh hưởng tâm lí đến ngày nay, người gửi tiền đòi hỏi
lãi suất cao.
Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp Giám

đốc đầu năm. Nhưng chủ trương này không được thực hiện với lí do tỷ lệ lạm

23


phát bị đẩy cao lên gấp đôi năm 1993. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất, tiền gửi
các ngân hàng chỉ sử dụng hết một nửa.
Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả cho những
người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VND để gửi tiết kiệm với lãi suất
cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một
sổ.
Vì vậy, khi dồn dập hạ 3 lần lãi suất trong năm 1996, số dư nguồn vốn
tiền gửi đã giảm đột ngột vào q 4 năm đó, chuyển các NHTM từ vị thế thừa
vốn sang thiếu vốn. Cộng với cái vơ lí là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ
do thực hiện chính sách hạ lãi suất, và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35%, các
NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận nặng nề. Tài
chính vẫn duy trì mức thuế lợi tức 45% và cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp, cộng
với việc tính thuế khơng cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các ngân
hàng vào tình trạng hầu như khơng tích luỹ được vốn. Việc tăng vốn điều lệ vì
vậy hầu như khơng thực hiệ được. Các NHTM đã yếu và để nợ quán hạn, nợ
xấu tăng cao lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ
khong duy trì được tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Năm 1997, lãi suất cho vay trần lại được hạ xuống còn 1% để kích thích
kinh tế phát triển, nhưng các ngân hàng cổ phần khơng tán thành vì các nước
láng giềng phải nâng lãi suất tiền gửi lên để chống làn sóng rút tiền gửi ra khỏi
ngân hàng để mua USD.Để phòng ngừa cơn bão tiền tệ có thể lướt qua, các
ngân hàng trong nước cũng phải giữ lãi suất gần như cũ, đến mức lãi suất tiền
gửi có kì hạn chỉ cịn chênh với lãi suất cho vay từ 0,05% đến 0,1% ggây lỗ về
tín dụng.. Cộng thêm vào đó, tin tức các vụ Epco, Minh Phụng làm cho một số
người gửi tiền đổ xô vào rút tiền gửi ở các ngân hàng mà họ nghi là có cho 2

cơng ty này vay. Các ngân hàng này bị một phen hú vía phải vay cao , vay cấu
bên ngồi để đối phó kịp thời và khi đã giải thích làm dịu cơn sốt rút tiền thì đã
phaỉ tăng chi phí đến mức tỷ suất lợi nhuận giảm hẳn. NHNN đã khơng có loại
tín dụng điều chỉnh như ở Mỹ để ứng phó cho vay tiếp quĩ kịp thời vào nhãng

24


lúc khó khăn như vậy lại thờ ơ với tình trạng phải giảm mạnh lợi nhuận nên các
NHTM đã phản ứng khá mạnh. Vì vậy, đầu năm 1998, NHNN đã phải nâng lãi
suất trần lên 1,2%, làm cho chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay có được cải
thiện hơn nhưng vẫn cịn q thấp khơng đủ đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ngành
Ngân hàng xấp xỉ lợi nhuận bình qn và khơng hấp dẫn người mua cổ phiếu
ngân hàng. Một ngân hàng quốc doanh nâng ngầm lãi suất bằng cách trả lãi
trước, lên đến 1,167% và 1,357% sát nút và vượt lãi suất trần cho vay trong
một đợt huy động vốn đột xuất đầu năm 1998 càng làm cho cuộc chạy đua
nâng lãi suất tiền gửi lên đến mức nguy hiểm.

2. Đặc điểm của thị trường tín dụng Việt Nam
Nước ta đổi mới xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu khi
kinh tế thị trường mới thoát ra khỏi mức sản xuất của chế độ phong kiến. Vì
vậy, thị trường tín dụng vẫn bao hàm cả thị trường cho vay nặng lãi ở vùng
nông thôn rộng lớn và ngay cả ở các chợ ở thành phố. Lãi suất cho vay ở các
chợ thành phố là 3%-4%, lãi suất tiền gửi là 1,5-2%. ở nông thôn, lãi suất thị
trường cũng là 3-4%. Vì vậy, nơng dân rất mừng khi được vay với lãi suất “sé
rào” tới 3-3,3% năm 1996 của các ngân hàng nông thôn.
Tỷ lệ người gửi tiền ngân hàng ở nước ta , năm 1994, được một tài liệu
nước ngồi ước tính chỉ có 6% dân số. Đặc biệt ở nông thôn miền Nam, người
nơng dân có thói quen mua vàng cất trữ. Miền Bắc đã có phongtrào gửi tiết
kiệm khá cao ở nơng thôn hồi kháng chiến chống Mỹ với các hợp tác xã tín

dụng xã. Nhưng phong trào này đã tan vỡ vì lãi suất âm trong thời kì lạm phát
phi mã và chưa hồi phục. Tình hình này tạo ra đặc điểm: thị trường tín dụng ở
nước ta khơng đồng nhất và tự nhiên tồn tại những lãi suất khác biệt khá xa ở
các vùng khác nhau, do cung cầu tín dụng khác nhau. Nó đã dẫn tới tình trạng
có lúc lãi suất tiền gửi của một vài ngân hàng ở thành phố cao hơn cả lãi suất
cho vay của các ngân hàng khác gây ra tình trạng phải đồng loạt nâng lãi suất
để tránh bị hút mất tiền gửi.

25


×