Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Luận Văn: Thực trạng giảm phát ở Việt Nam nguyên nhân và kinh nghiệm từ một số nước potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.98 KB, 43 trang )


1










Luận Văn
Thực trạng giảm phát ở Việt Nam - nguyên nhân và
kinh nghiệm từ một số nước


2
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và
thực tiễn. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo về nguy cơ giảm phát toàn cầu bởi vì
giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục nếu không khắc phục sẽ gây ra những
tác hại lớn hơn cả lạm phát, cụ thể là nó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về vấn đề giảm phát đòi hỏi một quá trình lâu dài, một sự
phân tích mạch lạc, khách quan bởi chính bản chất phức tạp và kéo dài của giảm
phát. Trên thực tế, trừ trường hợp các cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ 19,
giảm phát rất ít khi là một hiện tượng tự phát, mà thường là các biện pháp cố
tình của Nhà nước nhằm hạn chế mạnh cầu và qua đó giảm những mất cân đối
rất lớn. Ngày nay, giảm phát lại đang là trở lực kéo nền kinh tế của nhiều nước
vào vòng xoáy suy thoái. Vấn đề này đã và đang làm đau đầu nhiều nhà kinh tế
học và các nhà lãnh đạo trên thế giới, mặc dù đã có nhiều sự cố gắng suy nghĩ to


lớn.
Trong một thế giới không có ranh giới, trong điều kiện thương mại quốc tế,
kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cũng không thể tránh
khỏi những tác động khủng hoảng có tính chu kỳ và dây chuyền của kinh tế các
nước. Tuy giảm phát ở nước ta mới chỉ là nhất thời khó kèo dài với mức độ trầm
trọng song nếu không thoát khỏi “vòng xoáy” giảm phát thì triển vọng phát triển
về trung và dài hạn là hết sức khó khăn. Kích cầu là một biện pháp tất yếu phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước nhằm thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiểm soát được một cách chặt chẽ các yếu tố gây
tác động đến giá cả thị trường theo hướng tích cực. Những vấn đề được nêu ra
có thể nắm bắt được bằng trực giác nhưng việc đi sâu nghiên cứu những mối
quan hệ có tính định lượng thường xuyên giữa tiền tệ, sự tăng trưởng và giá cả
là một việc làm còn quá nhiều mạo hiểm. Vì vậy, trong khuôn khổ một bài
nghiên cứu khoa học, những vấn đề được trình bày dưới đây không nhằm kết
thúc một sự phân tích ngắn gọn về giảm phát và các biện pháp kích cầu mà chỉ

3
để nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của chúng trong những mối liên kết
của nền kinh tế hiện đại.

4
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I - TỔNG QUAN VỀ GIẢM PHÁT VÀ KÍCH CẦU 6
I-/ GIẢM PHÁT - CÁC NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ 6
1-/ Giảm phát là gì ? 6
2-/ Nguyên nhân gây ra giảm phát 7
3-/ Hậu quả của giảm phát. 7
II-/ KÍCH CẦU - NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP 8
1-/ Kích cầu là gì? 8

2-/ Nguyên nhân phải kích cầu: 9
3-/ Các biện pháp kích cầu: 11
PHẦN II - THỰC TRẠNG GIẢM PHÁT Ở VIỆT NAM - NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƯỚC 17
I-/ KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC: 17
1-/ Kích cầu ở Trung Quốc - bài học cho Việt Nam 17
2-/ Kinh nghiệm từ các nước khác. 20
II-/ THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA GIẢM PHÁT

VIỆT NAM 21
1-/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam: 21
2-/ Nguyên nhân gây ra tình trạng trên: 27
III-/ VIỆT NAM MỘT NĂM KÍCH CẦU: 31
PHẦN III - ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP 36
LỜI KẾT 41

5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 42




6
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ GIẢM PHÁT VÀ KÍCH CẦU
I-/ GIẢM PHÁT - CÁC NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1-/ Giảm phát là gì?
Từ trước thế kỷ 20, chưa một nhà kinh tế nào nhắc đến giảm phát trong nền
kinh tế Quốc dân, người ta mới chỉ nói đến lạm phát như một cơn lốc cuốn đi
của cải của nền kinh tế sau những cuộc khủng hoảng xuất hiện có tính chu kỳ

của nền kinh tế TBCN. Cho đến giữa hai cuộc cạnh tranh thế giới, cuộc đại
khủng hoảng 1929 - 1933 diễn ra, các nhà kinh tế mới quan niệm được rằng có
một tình trạng giảm phát, tức là tình trạng trái ngược với tình trạng lạm phát.
Người ta đã từng căn cứ vào tương quan giữa khối lượng hàng hoá dịch vụ và
khối lượng tiền tệ trong phương trình Irving Fisher. Nếu vì một lý do nào mà
khối lượng tiền tệ giảm bớt, tất nhiên giá hàng hoá giảm sút và dẫn đến một số
xí nghiệp lỗ vốn, phá sản và sa thải công nhân. Như vậy nếu cân bằng có tái lập
giữa hai khối hàng hoá và tiền tệ thì phải là một thế cân bằng khiếm dụng.
Tình trạng giảm phát còn được nhận diện rõ ràng hơn qua học thuyết của
John Mayhard Keynes. Theo học thuyết này thì khi ngân hàng tung thêm tiền tệ
mà không làm cho vật giá tăng thêm, tức là trong nền kinh tế lúc đó có khuynh
hướng giảm bớt. Không nên nhầm lẫn giảm lạm phát với giảm phát; giảm phát
là giảm giá nói chung trong khi giảm lạm phát là làm giảm mức tăng giá. Trong
sự điều hành của bộ máy kinh tế, lạm phát và giảm phát có thể coi là hai cực, mà
các chính sách kinh tế vĩ mô cần hướng vào thế cân bằng giữa khối lượng hàng
hoá và tiền tệ.
Theo thuyết lạm phát lưu thông tiền tệ “thì cho giảm phát là do việc đưa
tiền vào lưu thông ít hơn mức cần thiết, khiến sản xuất và lưu thông bị “nghẹt”
vì thiếu tiền làm chất bôi trơn.

7
2-/ Nguyên nhân gây ra giảm phát.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế của
một nước bị chậm lại.
Nguyên nhân thứ nhất thuộc tổng cầu: Tổng cầu xã hội giảm, thể hiện cụ
thể là vốn đầu tư nước ngoài giảm, đầu tư trong nước thấp. Thu nhập thực tế của
người dân giảm làm cho sức mua kém, thêm vào đó cầu từ nước ngoài giảm do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Nguyên nhân thứ hai thuộc tổng cung: lượng tiền cung ứng không đủ
cho lưu thông. Hàng hoá nhiều, giá liên tục giảm nhưng lượng người mua ít,

cung hàng hoá vẫn ở trong tình trạng lớn hơn cầu hàng hoá, hàng hoá ở trong
tình trạng dư thừa không có thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, hàng nhập lậu trốn
thuế từ bên ngoài vào với số lượng lớn, giá rẻ hơn thoả mãn nhu cầu thị hiếu đã
làm giảm sút nhu cầu đối với hàng nội địa, chèn ép sản xuất trong nước, làm
gián đoạn thị trường.
3-/ Hậu quả của giảm phát.
Bên cạnh khía cạnh tích cực của giảm phát là phản ánh sự tiến bộ trong công
nghệ sản xuất thì nỗi lo do các tác động xấu của giảm phát lớn hơn nhiều: nhu cầu
tiêu dùng suy giảm, năng lực sản xuất giảm giảm phát cũng làm tăng gánh nặng
của các khoản nợ của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Đối với một nền kinh tế có hiện tượng giảm phát, điều dễ nhận thấy là tất
cả các khâu của quá trình tái sản xuất gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu
dùng đều ở trong trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng,
sản phẩm làm ra ứ đọng. Sức cạnh tranh trên thị trường yếu ớt.
Giảm phát sẽ gây cho nền kinh tế những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ
trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm
lý trì hoãn mua hàng sẽ làm giảm mức cầu xã hội, buộc các nhà sản xuất phải
tiếp tục giảm giá hàng. Nếu tình hình ấy kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải

8
ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các
doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng, kéo theo ngân hàng đến bờ phá sản.
Giá hạ còn làm cho các khoản thu ngân sách giảm sút, làm cho tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm lại. Nguy hại hơn cả là giảm phát có thể vô hiệu hoá chính
sách lãi suất, một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
II-/ KÍCH CẦU - NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP:
1-/ Kích cầu là gì?
Trước khi trả lời câu hỏi này, ta cần phân biệt được cung cầu hàng hoá,
dịch vụ với cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Cung hàng hoá và dịch vụ là kết quả hoạt động kinh doanh của các ngành

sản xuất hàng hoá và dịch vụ cung ứng cho thị trường. Nếu xét riêng từng loại
hàng hoá, dịch vụ, thì chỉ gọi là cung hàng hoá, dịch vụ cá biệt. Nếu xét trên
tổng thể cả nền kinh tế, thì gọi là tổng cung hàng hoá và dịch vụ.
Cầu hàng hoá và dịch vụ là sức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có khả năng
thanh toán bằng tiền. Cũng như trên, có thể xét cầu từng hàng hoá, dịch vụ cá
biệt và có thể xét trên tổng thể nền kinh tế gọi là tổng cầu.
Cung cầu tiền tệ lại có một sắc thái khác. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ
có nghĩa là trên thị trường thừa tiền, thừa sức mua có khả năng thanh toán,
nhưng cầu tiền tệ thực tế lại bé hơn. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ thường gắn
chặt và nói đúng hơn là do lạm phát gây ra, lúc đó tiền mất giá, giá cả các hàng
hoá dịch vụ tăng lên.
Ngược lại, khi cầu tiền tệ lớn hơn cung tiền tệ thì nền kinh tế sẽ xảy ra
giảm phát, tiền tệ lên giá và giá cả hàng hoá, dịch vụ bị tụt xuống.
Giữa cung cầu hàng hoá, dịch vụ và cung cầu tiền tệ có sự khác nhau,
nhưng lại gắn chặt với nhau.

9
Tổng cung hàng hoá, dịch vụ lớn hơn tổng cầu hàng hoá dịch vụ có nghĩa
là sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thừa hay nói đúng hơn là tổng sức mua có khả
năng thanh toán bằng tiền và khi tổng cung bé hơn tổng cầu thì ngược lại. Nói
đến sản xuất thừa cũng cần được hiểu là: có thể sản phẩm tạo ra nhiều hơn cái
mà con người cần, hoặc là sản phẩm tạo ra không đáp ứng được nhu cầu thị
hiếu, giá cả, chất lượng của khách hàng trong và ngoài nước.
Vậy kích cầu là gì? Nói một cách đơn giản là kích thích nhu cầu tiêu dùng
hàng hoá và dịch vụ tạo ra. Nói theo mối quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ với
cung cầu tiền tệ, thì kích cầu chính là giải pháp nâng sức mua có khả năng thanh
toán bằng tiền của nền kinh tế nói chung và của nhân dân nói riêng.
Kích cầu hàng hoá và dịch vụ phải được thực hiện đối với cả hàng hoá là tư
liệu sản xuất, hàng hoá là tư liệu tiêu dùng, cả dịch vụ sản xuất và dịch vụ phục
vụ đời sống con người về mọi mặt. Kích cầu hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất là

kích thích đầu tư vốn vào xây dựng cơ sở vật chất và tăng vốn lưu động vào sản
xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là sức mua về các tư liệu sản xuất. Kích cầu
về hàng hoá và dịch vụ cho đời sống con người là kích thích sức mua để nâng
mức tiêu dùng, trong đó chủ yếu là hàng hoá tiêu dùng.
2-/ Nguyên nhân phải kích cầu:
Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có nhiều lí luận về kích
cầu để giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế kể từ khi nổ ra cuộc khủng
hoảng kinh tế đầu tiên ở nước Anh vào năm 1825.
Thomas Robert Malthus (1766-1834) là nhà kinh tế học người Anh thuộc
trào lưu trọng cầu. Ông cho rằng khủng hoảng kinh tế xảy ra là do có sự giảm
sút trong cầu, bởi vì, nhà tư bản thì tiết kiệm quá mức, còn công nhân thì tiền
lương không đủ để tiêu dùng hết hàng hoá sản xuất ra. Muốn thoát khỏi khủng
hoảng thì phải kích cầu.

10
Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773-1842) là một nhà kinh tế
người Pháp thuộc trường phái kinh tế chính trị tiểu tư sản. Khi phân tích khủng
hoảng kinh tế, ông đứng trên quan điểm trọng cầu. Ông cho rằng, khủng hoảng
kinh tế xảy ra là do tiêu dùng lạc hậu so với sản xuất, bởi vì có sự phân phối thu
nhập không công bằng. Ngoài ra tiêu dùng sụt giảm còn do: (1) Sự phá sản của
những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ ) khiến
cho thu nhập của họ giảm sút nên tiêu dùng của họ cũng giảm theo; (2) Tình trạng
thất nghiệp càng gia tăng khiến cho thu nhập của người bị thất nghiệp lẫn người tại
nghiệp bị giảm thấp, do đó mức cầu của họ cũng bị sụt giảm; (3) Những nhà tư bản
lại có khuynh hướng gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng vì muốn tích luỹ tư bản
nhiều hơn. Từ những phân tích trên ông cho rằng muốn thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế thì phải tăng mức cầu (kích cầu).
Phát triển lý thuyết trọng cầu là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh - John
Maynard Keynes (1883-1946). Với phương pháp tiếp cận vi mô khi phân tích
các vấn đề của nền kinh tế, Keynes đưa ra khái niệm cầu tổng hợp (tổng cầu) và

cung tổng hợp (tổng cung) và cho rằng trong nền kinh tế không có một sự tự
quân bình giữa tổng cung và tổng cầu, không thể có một sự tự điều chỉnh trong
nền kinh tế. Theo ông, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu
thường không theo kịp tổng cung, mà tổng cầu là nhân tố tích cực, nó quyết định
tổng cung chứ không phải ngược lại. Việc tổng cầu không theo kịp tổng cung
ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu hẹp đầu tư và làm gia tăng thất nghiệp. Để
giải quyết tình trạng này cần phải có sự tác động của nhà nước để làm gia tăng
tổng cầu, tổng cầu gia tăng sẽ làm tổng cung tăng theo, khối lượng công ăn việc
làm cũng tăng, thu nhập xã hội cũng tăng, nền kinh tế tăng trưởng và sẽ thoát
khỏi tình trạng suy thoái, trì trệ.
Giảm phát xảy ra, nền kinh tế cung ứng chưa đủ lượng tiền tệ cần thiết cho
lưu thông hàng hoá và dịch vụ ở thị trường trong nước. Điều cần làm là phải

11
kích cầu tiêu dùng và kích cầu đầu tư để tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông
hàng hoá và dịch vụ trong nước.
Giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục mức giá chung của hàng hoá và
dịch vụ. Từ các hậu quả của giảm phát ta thấy việc kích thích nhu cầu tiêu dùng
hàng hoá và dịch vụ tạo ra của dân chúng (kích cầu) là biện pháp tối ưu để giúp
khôi phục lại nền kinh tế.
3-/ Các biện pháp kích cầu:
- Quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển:
Theo Malthus, phải phục hồi mức cầu của những người không sản xuất
như: viên chức, quân nhân, thầy tu, là những người không đè nặng lên chi phí
sản xuất của các nhà kinh doanh. Ông gọi đây là lớp “người mua thứ ba”, ngoài
nhà tư bản và công nhân, để chống khủng hoảng sản xuất thừa. Lý luận của
Malthus được J.M.Keynes đánh giá rất cao và coi như là người mở đầu cho chủ
nghĩa trọng cầu. Nhưng quan điểm trên của Malthus lại bị Sismondi phê phán.
Theo Sismondi, cần phải có lớp “người mua thứ ba” để tăng sức mua của
xã hội. Nhưng khác với Malthus, lớp người thứ ba của Sismondi là những người

sản xuất nhỏ, chứ không phải là những người phi sản xuất. Như vậy việc tăng
thu nhập cho nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, là một điều cần
thiết để tăng cầu trong nền kinh tế. Muốn vậy, theo Sismondi, nhà nước phải can
thiệp để tạo công ăn, việc làm cho họ, hạn chế sự cạnh tranh gây phá sản hàng
loạt cho người sản xuất nhỏ, thực hiện sự phân phối công bằng hơn giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội.
Theo Keynes, việc kích cầu là vai trò của nhà nước. Điều này trước đây
Malthus và Sismondi cũng đã đề cập đến khi nói lên một cách dè dặt về hiệu quả
của bàn tay vô hình của A.Smith, nhưng không phân tích kỹ như Keynes.
Trong lý thuyết của mình Keynes đưa ra mô hình “số nhân đầu tư” để chứng
minh cho việc gia tăng đầu tư có tác động khuếch đại thu nhập tăng lên số nhân lần.

12
Đóng vai trò quan trọng trong số nhân là khuynh hướng tiêu dùng cận biên (MPC-
Marginal Propensity to Consume) và khuynh hướng tiết kiệm cận biên (MPS-
Marginal Propensity to Save). Đó là những khuynh hướng tâm lý xã hội thể hiện
mối quan hệ giữa gia tăng tiêu dùng và gia tăng tiết kiệm so với gia tăng thu nhập.
Khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng thì số nhân đầu tư càng lớn, do đó độ
khuếch đại của gia tăng đầu tư đối với thu nhập, sản lượng và công ăn việc làm
càng lớn và ngược lại, khuynh hướng tiết kiệm cận biên càng tăng thì sự dò dỉ
trong chi tiêu càng lớn nên số nhân càng nhỏ, do đó độ khuếch đại thu nhập, sản
lượng, công ăn việc làm của gia tăng đầu tư càng nhỏ. Có thể khái quát mô hình số
nhân đầu tư của Keynes bằng các công thức sau:
k = Error! Từ đó: Y = k . I mà trị số k được xác định bằng công thức:
k = Error! = Error!
Trong đó:
- k : số nhân đầu tư
- Y : gia tăng thu nhập, sản lượng
- I : gia tăng đầu tư.
- MPC : khuynh hướng tiêu thụ cận biên = Error! với C là gia tăng tiêu

dùng còn Y
d
là gia tăng thu nhập được quyền sử dụng.
- MPS : khuynh hướng tiết kiệm cận biên = Error! với S là gia tăng tiết
kiệm.
Theo Keynes, muốn đầu tư có sự gia tăng thì nhà đầu tư phải có lợi nhuận
tăng thêm khi đầu tư thêm. Ông gọi đó là “thu hoạch tương lai” của tư bản. “Thu
hoạch tương lai” là thu nhập của doanh nhân sau khi trừ đi “phí tổn thay thế” (phí
tổn thay thế là giá cung của tư bản, đó chính là lãi suất). Quan hệ giữa “thu hoạch
tương lai” và “phí tổn thay thế” để sản xuất thêm một đơn vị sản lượng được gọi là
“hiệu quả cận biên của tư bản” (the marginal productivity of capital). Các nhà đầu

13
tư khi quyết định một cuộc đầu tư nào đều so sánh hiệu quả cận biên của tư bản với
lãi suất. Nếu chừng nào hiệu quả cận biên của tư bản còn lớn hơn lãi suất thì các
nhà đầu tư còn tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất làm thu nhập gia tăng, sản lượng
gia tăng, công ăn việc làm gia tăng và ngược lại, khi hiệu quả cận biên của tư bản
bằng hoặc thấp hơn lãi suất thì tình hình đầu tư sẽ sụt giảm, mà điều đó thì không
có lợi cho nền kinh tế. Keynes cho rằng, hiệu quả cận biên của tư bản có xu hướng
giảm sút, ảnh hưởng xấu đến tình hình đầu tư và làm cho nạn thất nghiệp tăng cao.
Từ đó, cần phải giảm lãi suất để kích thích đầu tư. Muốn giảm lãi suất thì nhà nước
phải dùng chính sách tăng cung tiền tệ.
Theo Keynes, khối lượng tiền mặt trong lưu thông càng nhiều hơn nhu cầu về
tiền mặt thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. Keynes chủ trương “lạm phát là quốc
sách” để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, giải quyết nạn thất nghiệp, bởi vì thất
nghiệp là căn bệnh nguy hiểm cho nền kinh tế chứ không phải lạm phát. Ông cho
rằng phát hành tiền càng nhiều sẽ làm thu nhập bằng tiền tăng lên, cầu về hàng hoá
tiêu dùng sẽ tăng, giá cả sẽ tăng, nhưng giá đầu tư (lãi suất) lại giảm và do đó sẽ
mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư nên họ gia tăng đầu tư. Vậy lạm phát tăng,
dẫn đến cầu gia tăng, sản xuất gia tăng để thoả mãn cầu, sản xuất tăng sẽ giải quyết

được nạn thất nghiệp. Công ăn việc làm gia tăng nên thu nhập xã hội gia tăng, cầu
tổng hợp gia tăng, cung tổng hợp, do đó cũng gia tăng làm cho nền kinh tế cũng
tăng trưởng theo. Đó là hiệu ứng số nhân của Keynes, và được các nhà kinh tế đánh
giá như một mô hình kinh điển về số nhân.
- Kế tục quan điểm trọng cầu, các nhà kinh tế học hiện đại đã phát triển lý
thuyết tổng cầu của Keynes. Theo họ, tổng cầu (AD) bao gồm các thành phần cơ
học sau: chi tiêu của cá nhân hộ gia đình (C), đầu tư tư nhân của các doanh
nghiệp (I), chi tiêu của chính phủ (G), và xuất khẩu ròng (NX-là hiệu số của xuất
khẩu và nhập khẩu). Như vậy, AD = C+I+G+NX. Thật sự thì các thành tố trên
của tổng cầu đã được Keynes đề cập đến rồi và họ chỉ làm rõ thêm mà thôi. Để
tăng tổng cầu thì có thể tác động làm tăng các yếu tố của nó, nghĩa là, có thể gia

14
tăng tiêu dùng, gia tăng đầu tư, gia tăng chi tiêu của chính phủ và gia tăng xuất
khẩu ròng (tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu). Mô hình số nhân đầu tư của
Keynes cũng được phát triển thành mô hình số nhân của tổng cầu, nghĩa là hiệu
ứng số nhân có ý nghĩa đối với tất cả các thành phần của tổng cầu, chứ không
phải chỉ có đối với đầu tư. Có thể khái quát lý luận trên bằng các công thức sau: k
= Error! do đó Y = k . AD. Ở đây trị số của k được xác định bằng công thức
sau:
k = Error!
Trong đó:
- t: thuế suất là tỷ lệ phần trăm của lượng thuế tính trên thu nhập (Y)
- MPI: khuynh hướng đầu tư cận biên = Error! với I là gia tăng đầu tư
còn Y là gia tăng thu nhập.
- MPM: khuynh hướng nhập khẩu cận biên = Error! với M là gia tăng nhập
khẩu.
Mẫu số trong số nhân (k) được gọi là suất rò rỉ cận biên. Như vậy, nếu suất
rò rỉ cận biên càng nhỏ khi khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng, thuế
suất càng giảm, khuynh hướng đầu tư cận biên càng tăng và khuynh hướng nhập

khẩu cận biên càng giảm thì số nhân càng lớn, độ khuếch đại thu nhập của gia
tăng tổng cầu sẽ càng lớn và ngược lại, nếu suất rò rỉ cận biên càng lớn khi
khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng giảm, thuế suất càng tăng, khuynh hướng
đầu tư cận biên càng giảm và khuynh hướng nhập khẩu cận biên càng tăng thì số
nhân sẽ càng nhỏ, độ khuếch đại thu nhập của tổng cầu sẽ càng nhỏ.
Từ những lý thuyết cơ bản trên, chúng ta thấy rằng việc gia tăng thu nhập,
sản lượng, công ăn việc làm phải có những giải pháp nhằm làm tăng độ lớn của
số nhân (k) cũng như các giải pháp làm tăng tổng cầu (AD =
C+I+G+NX). để gia tăng tổng cầu cần kích thích sự gia tăng tiêu dùng, gia
tăng đầu tư, gia tăng chi tiêu của chính phủ và đẩy mạnh xuất khẩu so với nhập

15
khẩu. Để giảm suất rò rỉ cận biên thì cần kích thích khuynh hướng tiêu dùng
biên, đầu tư biên và giảm thuế suất cũng như giảm khuynh hướng nhập khẩu
biên.
Như vậy, để kích cầu ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Dựa vào phương trình Y
d
= Y - T
d
- T
R

Y
d
: thu nhập có thể sử dụng
Y : thu nhập quốc dân
T
d
: thuế trực thu

T
R
: các khoản trợ cấp
Muốn kích thích tiêu dùng thì phải tăng thu nhập có thể sử dụng. Mà muốn
tăng Y
d
thì phải giảm T
d
. Vậy để tăng thu nhập được quyền sử dụng của các
tầng lớp dân cư thì phải giảm thuế thu nhập và các khoản đóng góp khác.
Để kích cầu còn cần giảm các khoản thuế gián thu nhằm giảm giá bán của
hàng hoá phù hợp với sức mua còn thấp của thị trường.
+ Đối với chính sách lưu thông tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện
một nền kinh tế đang có giảm phát thì Nhà nước nên dùng chính sách tiền tệ mở
rộng nhằm giảm lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng. Lãi suất hạ, nhà đầu
tư sẽ thấy rằng việc gửi tiền trong ngân hàng với lãi suất thấp không có lợi bằng
việc đầu tư vào sản xuất nên họ sẽ mở rộng đầu tư, tạo thêm công ăn việc làm,
thu nhập gia tăng. Lãi suất gửi tiền thấp, người dân sẽ mở rộng tiêu dùng vì việc
tiêu dùng lúc này có lợi hơn là việc gửi tiền ở các tài khoản tiết kiệm. Như vậy,
cần thực hiện các giải pháp nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu thông như: hạ
lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành thêm tiền vào lưu thông
để thu nhập bằng tiền cho xã hội Tất cả những việc này sẽ làm lạm phát gia
tăng, nhưng nó lại kích thích sản xuất tăng trưởng, công ăn việc làm gia tăng,
tiêu dùng gia tăng và nền kinh tế tăng trưởng theo. Vấn đề đặt ra ở đây là xác

16
định tỷ lệ lạm phát vừa phải, đừng để lạm phát tăng cao tác động xấu đến nền
kinh tế.
+ Đối với chính sách thương mại: cần tăng xuất khẩu hàng trong nước, giảm
dần nhập khẩu. Tăng xuất khẩu có tác động tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu

dùng và kinh tế nội địa phát triển. Muốn vậy Nhà nước phải có chính sách bảo hộ
xuất khẩu, giảm thuế xuất khẩu (có thể giảm xuống bằng 0%).
+ Nhà nước phải tăng cường đầu tư trong nước.
+ Ngoài các giải pháp nêu trên còn một vấn đề quan trọng nữa là cần
khuyến khích tâm lý tiêu dùng hàng nội địa. Bởi vì nếu khuyến khích tiêu dùng
mà người dân chỉ thích tiêu dùng hàng ngoại nhập thì lại không có tác động làm
gia tăng sản xuất trong nước, tăng công ăn việc làm trong nước mà ngược lại nó
làm sản xuất trong nước bị thu hẹp và công ăn việc làm bị thu hẹp, thu nhập sẽ
bị giảm thấp.


17
PHẦN II
THỰC TRẠNG GIẢM PHÁT Ở VIỆT NAM - NGUYÊN NHÂN
VÀ KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƯỚC

I-/ KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC:
1-/ Kích cầu ở Trung Quốc - bài học cho Việt Nam
Bước sang năm 1998 Trung Quốc chịu sức ép ngày càng gia tăng và rõ nét
của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, xuất hiện nhiều mầm mống của sự
tăng trưởng không bền vững. Đầu tư nước ngoài, xuất khẩu có dấu hiệu suy
giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, sức
tiêu thụ giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh. Tính đến hết tháng 7 - 1999 giá hàng
tiêu dùng tiếp tục giảm sang tháng thứ 16 nếu tính 6 tháng đầu năm nay thì giá
bán lẻ giảm 3,2%. Mức tăng trưởng kinh tế đang chậm lại, nhập khẩu phát triển
16,6% trong khi đó xuất khẩu giảm 4,6%. Đầu tư nước ngoài so 4 tháng đầu
năm 98 thì đầu tư nước ngoài giảm 12,6%. Trong khi đó Trung Quốc lại muốn
duy trì sự ổn định của đồng nhân dân tệ. Đứng trước sức ép từ trong và ngoài
nước nêu trên. Trung Quốc đã buộc phải lựa chọn những giải pháp tháo gỡ, chủ
yếu là kích cầu với quy mô lớn trong cả nước để đảm bảo tăng trưởng GDP 8%

như mục tiêu đã đề ra trong năm 1999. Chương trình kích cầu của Trung Quốc
gồm 2 vấn đề lớn là kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước và
khuyến khích đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể:
- Kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nườc:
+ Chương trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc được bắt đầu từ
công nghiệp xây dựng với điểm khởi đầu là xây dựng nhà ở tháng 6 năm 1998
Trung Quốc quyết định chấm dứt bao cấp nhà ở cho công nhân viên chức và
thực hiện chính sách thương mại hoá nhà ở. Chính phủ Trung Quốc dành một

18
khoản 12 tỷ USD để xây dựng nhà ở cho công nhân viên chức có nhu cầu mua
trước trả góp sau. Đến tháng 7 năm 1999 Trung Quốc đã đưa ra một loạt các
biện pháp kích thích tài chính nhằm khuyến khích các nhà kinh doanh bất động
sản đầu tư vào khu vực nhà ở như miễn thuế đánh vào các công ty nước ngoài
đang tìm cách đầu tư vào các dự án nhà ở hoặc văn phòng cao cấp, hoặc các nhà
đầu tư sẽ được vay ngân hàng với lãi suất thấp nhất có thể. Bên cạnh đó Trung
Quốc đã đẩy mạnh tư nhân hoá việc xây dựng nhà cửa và coi xây dựng nhà ở
mới là động lực mới nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, cùng với việc cải cách
chế độ nhà ở, Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và chấp nhận
với quy mô lớn. Trong năm 1998, các ngân hàng đã cho vay 100 tỷ nhân dân tệ
dùng vào việc đầu tư xây dựng cơ bản. Trong những tháng cuối năm 1998 Trung
Quốc đã phát hành thêm 100 tỷ nhân dân tệ để hỗ trợ tập trung vốn xây dựng hạ
tầng cơ sở. Hàng loạt các chương trình đường xá, cầu cống đã được khởi công
xây dựng. Có thể nói trong những tháng cuối năm 1998 và đầu năm 1999, đẩy
mạnh xây dựng hạ tầng cơ sở đã được Trung Quốc coi như “đầu tầu” để kích
cầu trong nước, lôi kéo các ngành khác cùng phát triển.
+ Song song với việc đẩy mạnh đầu tư từ ngân sách Nhà nước Trung Quốc
đã áp dụng hàng loạt các biện pháp về tài chính - tiền tệ nhằm kích thích đầu tư
vào sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của người dân, mà hai biện pháp chính là điều
chỉnh lãi suất và hướng người dân đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chỉ trong

vòng 3 năm từ 1996 - 1999 Trung Quốc đã 7 lần hạ lãi suất. Đặc biệt trong năm
1998 Trung Quốc đã 3 lần giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất liên tục như vậy có
tác dụng bơm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng và kích thích đầu tư của tư nhân
và doanh nghiệp. Ở Trung Quốc, tình trạng tiền gửi trong ngân hàng rất lớn song
ngân hàng lại không dám cho vay hoặc đầu tư vì sợ không thu hồi được vốn. Do
đó giảm lãi suất ngân hàng cùng với đánh thuế lãi tiền gửi tiết kiệm sẽ không
khuyến khích người dân tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền đó để đầu
tư vào sản xuất, tiêu dùng, mua nhà ở

19
+ Trung Quốc đã liên tục đưa ra các biện pháp nhằm làm sôi động thị
trường chứng khoán. Mục tiêu là hướng người dân đầu tư vào cổ phiếu và thông
qua đó gián tiếp góp vốn cho doanh nghiệp. Các biện pháp đó cụ thể là:
 Cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán, cho
phép các nhà môi giới phát triển quy mô vốn trên thị trường thứ cấp.
 Giảm thuế giao dịch trên thị trường chứng khoán.
 Cho phép các công ty tư nhân phát hành cổ phiếu B bằng ngoại tệ mạnh
và chào bán cho người nước ngoài mà trước đây chỉ có các doanh
nghiệp Nhà nước mới được phép phát hành cổ phiếu B.
Những biện pháp trên đã thu hút một lượng tiền mặt đáng kể vào thị
trường chứng khoán.
+ Một biện pháp nữa mà Trung Quốc áp dụng để kích thích nhu cầu tiêu dùng
trong nước là tăng lượng hàng loạt cho cán bộ công nhân viên chính phủ Trung
Quốc đã chi một khoản tiền khổng lồ và hy vọng có thể kích thích nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Để có khoản tiền trên, Trung Quốc quyết định phát hành 60 tỷ
nhân dân tệ công trái trong đó 30 tỷ nhân dân tệ dùng cho tăng lương.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu:
Song song với việc khuyến khích mở rộng nhu cầu đầu tư và tiêu dùng
trong nước Trung Quốc ra sức thu hút tối đa nguồn vốn nước ngoài. Trung Quốc
khuyến khích thương nhân nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp, kỹ thuật cao,

xây dựng cơ sở hạ tầng môi trường sinh thái và các ngành xuất khẩu thu ngoại
tệ. Phát triển các dự án thu hút người lao động. Khuyến khích các công ty xuyên
quốc gia đầu tư. Tạo điều kiện cho công ty nước ngoài sử dụng ngoại tệ bằng
nới lỏng những hạn chế về ngoại hối. Đồng thời Trung Quốc thực hiện từng
bước tự do hoá khu vực tài chính tiền tệ thông qua các biện pháp như cho phép
ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh đồng nhân dân tệ, cho phép các ty
nước ngoài kinh doanh chứng khoán được tham gia trong thị trường Trung

20
Quốc Có thể nói khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng là một cách để Trung
Quốc phát triển càng thu hút vốn đầu tư cho sản xuất.
Bên cạnh đó Trung Quốc cũng hết sức nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu bằng các
biện pháp như nâng mức hoàn thuế, tăng cường tín dụng xuất khẩu, duy trì tỷ
giá đồng nhân dân tệ.
Chương trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc đã duy trì được tốc
độ tăng trưởng tương đối cao. Nhu cầu đầu tư và tiêu dùng đều tăng lên. Nhờ
chương trình này Trung Quốc đã giảm thiểu tối đa tác động, áp lực từ bên trong
và bên ngoài nền kinh tế, duy trì sự ổn định của đồng NDT.
2-/ Kinh nghiệm từ các nước khác.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của hầu hết các nước trong khu vực đều giảm sút nghiêm trọng, đầu tư
giảm, sản xuất thu hẹp, sức mua kém Để thoát khỏi tình trạng trên, một trong
số các giải pháp mà các nước đều đã áp dụng là kích cầu trong nước cả sản xuất
lẫn tiêu dùng để không lệ thuộc vào thị trường bên ngoài.
- Ở Thái Lan, chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình trọn gói với giá trị
lên đến vài tỷ USD để thúc đẩy kinh tế, kích thích tiêu dùng. Để giảm giá cả
hàng hoá, tăng sức mua của dân chúng, chính phủ Thái Lan sẵn sàng chấp nhận
giảm ngân sách 1,8 tỷ USD để giảm thuế GTGT đối với một số ngành từ 10%
xuống 7% trong 2 năm (ban đầu từ 1/4/1999 đến 31/3/2000). Bên cạnh đó chính
phủ cũng quy định giảm giá điện, dầu khí đốt, (vì những khoản này, ngân sách

giảm 700 triệu USD/năm) giảm thuế thu nhập cá nhân để tăng sức mua để thu
hút vốn nhàn rỗi trong dân, chính phủ đã phát hành nhiều đợt trái phiếu Nhờ
những biện pháp kích cầu trên mà Thái Lan đã giải quyết được hàng triệu lao
động, tiêu dùng nhiều mặt hàng phát triển hơn, kích thích sản xuất tăng trưởng -
số lượng xe hơi bán ra trên thị trường năm 1998 tăng vọt, số lượng người Thái
đi du lịch sang Mỹ, sang Tây Âu tăng gấp đôi

21
- Ở Nhật Bản: Chính phủ đã thực hiện cắt giảm thuế và tung ra các chương
trình hàng trăm tỷ USD để kích thích tiêu dùng. Ở Nhật người ta thực hiện nhiều
chương trình Marketing đặc biệt để tăng lượng sản phẩm tiêu thụ như những đợt
giảm giá trong tháng, trong tuần, những lời quảng cáo rất hấp dẫn “Anh là gì?
Chúng tôi sẽ nói cho anh biết phải tiêu dùng hàng gì?” Tất cả nhằm mục đích
thúc đẩy người tiêu dùng chi sài nhiều hơn nữa. Nhờ những biện pháp đó mà
trong quý I/1999 tiêu dùng của Nhật Bản đã tăng 2,2%. Sức tiêu thụ một số mặt
hàng đắt tiền như nhà ở, ô tô, máy tính đã tăng 1,2% sau 4 quý giảm liên tục.
- Ở Philipin, chính phủ lập quỹ phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp tục thực hiện
lãi suất cho vay thấp để khuyến khích sản xuất, khuyến khích tiêu dùng
II-/ THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA GIẢM PHÁT Ở VIỆT
NAM
1-/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam:
Là một nước có nền kinh tế đang phát triển, hệ thống tài chính tín dụng
đang còn non trẻ. Việt Nam cũng không tránh khỏi vòng cuốn lốc của cơn bão
khủng hoảng kinh tế diễn ra vào tháng 7 năm 1997 vừa qua, trên phạm vi toàn
cầu. Tuy mức độ ảnh hưởng không to lớn như nhiều nước song hậu quả của nó
đối với nền kinh tế rất nặng nề. Để thoát khỏi tình trạng trên Đảng và Nhà nước
cùng toàn thể nhân dân cả nước đang từng bước khắc phục khó khăn bằng các
biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô chống suy giảm kinh tế đang xảy ra, ngăn
chặn giảm phát.
Xét trên toàn cảnh, tình hình suy giảm kinh tế là rõ rệt, nổi cộm lên là vấn

đề giảm phát đang liên tục xảy ra và kéo dài gây ra nhiều hậu quả làm cản trở
tăng trưởng kinh tế, làm cản trở quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt
Nam.
Sự suy giảm kinh tế diễn ra liên tục trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực:
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, Chỉ số GDP năm 1999 chỉ tăng 4,7-5%,

22
đây là tỷ lệ thấp nhất trong mười năm trở lại đây. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong 6 tháng đầu năm 99 chỉ đạt 4,3% cũng là mức thấp nhất trong vòng 6, 7
năm trở lại đây không bằng được mục tiêu 5-6% đã được đề ra hồi đầu năm
1999. Cụ thể trong từng ngành:
 Nông nghiệp: Trong lĩnh vực này những năm gần đây nước ta đã đạt được
những con số đáng mừng. Với mức tăng trưởng 5%, sản xuất nông nghiệp và
đặc biệt là sản xuất lương thực được mùa lớn, đạt 31 triệu tấn năm 1999. Tổng
sản lượng lương thực trong năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn trong 2 triệu so với năm
1998. Xuất khẩu gạo đạt mức kỷ lục 4,3 triệu tấn. Có thể nói sản xuất lương
thực, thực phẩm trong năm 1999 đã đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm và
đạt mức xuất khẩu cao. Chăn nuôi năm 1999 tăng từ 100 đến 106% so với 1998.
Tuy nhiên sức tiêu thụ của nhiều cây công nghiệp và chăn nuôi thấp do giá cả
cao, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu.
 Công nghiệp: Năm 1999 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,3% so với
năm 1998. Trong đó doanh nghiệp Nhà nước tăng 4,6%, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tăng 8,2%, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
19,1%. Một số ngành có tốc độ tăng trưởng cao như dầu thô tăng 20,5%, chế
biến thuỷ sản tăng 13,8%, sứ vệ sinh tăng 39,8%, may mặc tăng 13%, sản xuất
động cơ diegen tăng 2 lần, sản xuất xe đạp tăng 22%. Bên cạnh đó là hầu hết các
ngành đều giảm hoặc tăng trưởng chậm, đáng chú ý là sản xuất ti vi giảm
33,9%, so với năm 1998 than giảm 19,4%, máy công cụ giảm 23,7%.
 Giao thông vận tải: Mười tháng đầu năm 1999 khối lượng vận chuyển
hàng hoá và hành khách có mức tăng trưởng tương ứng 6,6% và 4,3% vận

chuyển hàng hoá theo đường hàng không tiếp tục giảm 8,5% so với cùng kỳ
năm 1998.
 Tài chính tiền tệ:

23
- Trong 9 tháng đầu năm 1999 thu ngân sách tăng 6% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó thu thuế và phí bằng 78,2% dự toán năm và giảm 8,5% so với cùng
kỳ. Chi ngân sách Nhà nước đến cuối tháng 9 năm 1999 tăng 6,5%.
- Trong hệ thống ngân hàng: năm 1999, ngoài công tác điều hành tỷ giá,
quản lý ngoại hối ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều chỉnh giảm trần lãi suất
4 lần (từ 1,25%/tháng xuống 0,85%/tháng ở thành thị) giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Tuy nhiên tổng dư nợ vẫn ở mức thấp lượng vốn tồn đọng trong hệ thống
ngân hàng là lớn.
 Xuất nhập khẩu: tỷ lệ nhập siêu tuy ở mức thấp song đó là dấu hiệu biểu
hiện một cách rõ rệt sự chững lại của nền kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng
đầu năm đạt 9.127 triệu USD tăng 18% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu
10 tháng đạt 9.166 triệu USD giảm 3,6% so với năm 1998.
 Lĩnh vực đầu tư: là lĩnh vực có tốc độ giảm nhanh. Vốn đầu tư xây dựng cơ
bản của Nhà nước, theo ước tính của Tổng cục thống kê, năm 1999 chỉ đạt 97,2%
kế hoạch năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ước tính đến tháng 10 mới có 191 dự án
được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 1.457 triệu USD. Giảm 14% về số dự án
và giảm 38% vốn đăng ký so với cùng kỳ. Tình hình đầu tư sụt giảm gây ra nhiều
tác động xấu đến nền kinh tế Việt Nam như hiện tượng giảm phát liên tục, giảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế
 Lực lượng lao động:
Hiện nay cả nước có khoảng trên 40 triệu lao động, trong đó lao động nông
thôn khoảng 30 triệu chiếm 75% tổng lao động cả nước. Với tình hình kinh tế hiện
nay lạm phát liên tục giảm thì thất nghiệp tăng là một điều khó tránh khỏi. Tỉ lệ thất
nghiệp của lực lượng lao động ở độ tuổi cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn như
Hà Nội 10,31%, TP. Hồ Chí Minh là 7,04%. Thất nghiệp gia tăng càng gây cản trở

đối với một nền kinh tế đang phát triển, đó là sự giảm sút về sản xuất, thu nhập dân
cư giảm sút,

24
Với thực trạng trên, nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào một thời kỳ khó khăn
đặc biệt trong lĩnh vực thị trường và giá cả. Nếu như nhiều nước trên thế giới sự sụt
giảm giá chung bắt đầu có mầm mống xuất hiện từ năm 1996 là sự dư thừa cung,
do sản xuất phát triển cung vượt quá cầu thì tại Việt Nam, một nước có nền sản
xuất còn non trẻ, chưa có sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng quá lớn trong dân
cư, thì tình trạng cung vẫn thừa mà cầu vẫn tăng là một vấn đề đáng lo ngại. Giá cả
liên tục tục giảm để giải quyết hàng hoá ế thừa trong các ngành gây ra hiện tượng
giảm phát kéo dài nhất trong lịch sử, làm chao đảo thị trường tài chính tiền tệ,
Trong lĩnh vực thị trường và giá cả: năm 1999 sự tăng trưởng chậm, trì trệ của
các ngành, các lĩnh vực, hoạt động sản xuất bị lâm vào bế tắc do hàng hoá ứ đọng
nhiều, sức mua giảm ở cả thành phố lẫn nông thôn. Điều đó làm giảm sức hấp dẫn
của môi trường đầu tư. Mức lạm phát đạt đến mức thấp nhất trong những năm gần
đây. Mức lạm phát trong 8 tháng đầu năm là 0,8% theo tổng cục thống kê mức tăng
trưởng và lạm phát được thể hiện như sau:
Năm Tăng trưởng (GDP) Lạm phát (CPI)
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,7
1998 5,8 9,2
1999 4,8 0,1
Mức độ lạm phát giảm liên tục nằm ngoài mong đợi của các nhà hoạch
định chính sách. Sự sụt giảm lạm phát dẫn đến tình trạng giảm rõ rệt tốc độ tăng
trưởng GDP. Hơn thế nữa tình trạng chuyển hoá nhanh liên tục và đột ngột của
tình trạng lạm phát từ năm 1998 và 2 tháng đầu quý I năm 1999 sang giảm phát
suốt 8 tháng liền từ tháng 3 đến tháng 10 trong năm là điều đáng lo ngại trong
nền kinh tế. Tình trạng giảm phát đã diễn ra trong nền kinh tế thể hiện ở chỗ mặt

bằng giá giảm liên tục cùng với sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo số

25
liệu Tổng cục thống kê thì tốc độ tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng qua
các năm như sau:
Năm Tăng trưởng (GDP) Lạm phát (CPI)
1994 8,8 14,4
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,6
1998 5,8 9,2
Riêng năm 1999 tình hình trở nên trầm trọng khi chỉ số GDP tăng 4,7-5%,
đây là tỷ lệ thấp nhất gần 10 năm trở lại đây. Mặt bằng giá giảm liên tục chỉ số
giá chỉ tăng vào 2 tháng đầu năm là những tháng tết Nguyên Đán, nhu cầu tiêu
dùng của các tầng lớp dân cư tăng cao: tháng 1 tăng 1,7%, tháng 2 tăng 1,9%.
Sau đó từ tháng 3 trở đi giá giảm liên tục:
Tháng/99 Chỉ số giá giảm (%)
3 -0,7
4 -0,6
5 -0,4
6 -0,3
7 -0,4
8 -0,6
9 -1
10 0,4
Với mức giảm bình quân 0,55%/tháng. Trong tháng 8, trong 11 nhóm hàng
hoá dịch vụ tiêu dùng chỉ có 5 nhóm giá tăng là dược phẩm, y tế tăng 0,8%, đồ
uống và thuốc lá tăng 0,3%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,2%, may mặc

×