Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Thực trạng lạm phát ở việt nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.81 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................3
NỘI DUNG....................................................................................................4
CHƯƠNG I: LẠM PHÁT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG....................4
I. Các lý thuyết về lạm phát.................................................................4
1. Khái niệm....................................................................................4
2. Bản chất của lạm phát................................................................6
3. Nguyên nhân lạm phát................................................................6
II. Các loại lạm phát.............................................................................9
III. Lạm phát được tính như thế nào? (đo lường lạm phát)................12
IV. Hậu quả của lạm phát....................................................................13
V. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế..........................................15
CHƯƠNG II: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.............................................17
I. Khái niệm.........................................................................................17
II. Vai trò của tăng trưởng kinh tế.......................................................18
III. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.......................18
CHƯƠNG III: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM-THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC
TRƯNG...............................................................................................19
I. Thời kỳ 1976-1980..........................................................................19
II. Thời kỳ 1981-1988.........................................................................21
III. Chuyển theo kinh tế thị trường.....................................................27
CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI...............................................................41
I. Mỹ....................................................................................................41
II. Nhật................................................................................................42
III. Zimbabwe......................................................................................43
CHƯƠNG V: GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT.............................44
I. Chống lạm phát bằng cách giảm cầu...............................................44
1
II. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung................................46
III. Chống lạm phát do quán tính........................................................47


KẾT LUẬN..................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................49
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và
ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và
chống lạm phát được thực hiện ở nhiều các quốc gia trên thế giới. Càng ngày
cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên
nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh
tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của
nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện
pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của
đất nước.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LẠM PHÁT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm
Khi phân tích lưu thông tiền giấy theo chế độ bản vị vàng, Mác đã khẳng
định một qui luật: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng
vàng thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình’’, với qui luật
này, khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá
mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy
sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Có thể xem đây như là một
định nghĩa của Mác về lạm phát. Song có những vấn đề cần phân tích cụ thể
hơn. Tiền giấy ở nước ta cũng như ở tất cả các nước khác hiện đều không
theo chế độ bản vị vàng nữa, do vậy người ta có thể phát hành tiền theo nhu
cầu chi của nhà nước, chứ không theo khối lượng vàng mà đồng tiền đại
diện. Điều đó hoàn toàn khác với thời Mác.

Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau
vế lạm phát. Trong số các dó có các lý thuyết chủ yếu là:
Lý thuyết cầu do nhà kinh tế Anh nổi tiếng John Keynes đề xướng. Ông
đã qui nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mức
cung đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản suất, thì
nhà nước cần phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà
nước, tăng tín dụng, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và
vượt cung. Khi đó đã xuất hiên lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc
đẩy sản xuất phát triển. Vậy là trong điều kiện nền kinh tế phát triển có hiệu
quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới
nhanh và đúng hướng thì lạm phát đã là một công cụ để tăng trưởng kinh tế,
chống suy thoái. Thực tế của các nền kinh tế thị trường trong thời kỳ sau
4
chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng tỏ điều đó. Nhưng khi nền kinh tế đã
vào thời kỳ phát triển kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng chậm
chạp, cơ cấu kinh tế được đổi mới theo các hướng không đúng hay trì trệ,
thiết bị kỹ thuật cũ tồn đọng đầy ứ. v. v... thì lạm phát theo lý thuyết cầu đã
không còn là công cụ tăng trưởng kinh tế nữa.
Lý thuyết chi phí cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản
xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng chi
phí này chủ yếu là do tiền lương được tăng lên, giá các nguyên nhiên vật liệu
tăng, công nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậu không
giảm được chi phí... Đặc biệt là trong những năm 70 do giá dầu mỏ tăng cao,
đã làm cho lạm phát gia tăng ở nhiều nước. Vậy là chi phí tăng đến mức mà
mức tăng năng suất lao động xã hội đã không bù đắp được mức tăng chi phí
khiến cho giá cả tăng cao lạm phát xuất hiện. Ở đây suy thoái kinh tế đã đi
liền với lạm phát. Do đó, các giải pháp chống lạm phát không thể không gắn
liền với các giải pháp chống suy thoái. Kể từ cuối những năm 60 nền kinh tế
thế giới đã rơi vào thời kỳ suy thoái với nghĩa là tốc độ tăng trưởng bị chậm
lại, kể từ đó vai trò là công cụ tăng trưởng của lạm phát đã không còn nữa.

Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lý
thuyết này thì lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ
cấu cơ của nền kinh tế mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa công
nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa sản
xuất và dịch vụ... Chính sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế đã làm cho nền
kinh tế phát triển không có hiệu quả, khuyến khích các lĩnh vực đòi hỏi chi
phí tăng cao phát triển. Và xét về mặt này lý thuyết cơ cấu trùng hợp với lý
thuyết chi phí.
Cũng có thể kể ra các lý thuyết khác nữa như lý thuyết tạo lỗ trống lạm
phát lý thuyết số lượng tiền tệ... song dù có khác nhau về cách lý giải nhưng
hầu như tất cả các lý thuyết đều thừa nhận: lạm phát chỉ xuất hiện khi mức
giá cả chung tăng lên, do đó làm cho giá trị của đồng tiền giảm xuống. Định
5
nghĩa này có một điểm chung là hiện tượng giá cả chung tăng lên và giá trị
đồng tiền giảm xuống. Tốc độ lạm phát được xác định bởi tốc độ thay đổi
mức giá cả.
Tóm lại, lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức
giá cả chung tăng nhanh và kéo dài trong một thời gian dài.
2. Bản chất của lạm phát: là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động
tăng lên của giá cả diễn ra trong một thời gian dài.
3. Nguyên nhân lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát
do cầu kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
Cân đối thu chi là điều không thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát.
+ Lạm phát do cầu kéo ( lạm phát do cầu): xảy ra khi tổng cầu tăng trong
khi tổng cung không đổi hoặc tăng chậm hơn tổng cầu.
Có nhiều nguyên nhân làm tăng tổng cầu:
- Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh
nghiệp. Khi đó, có một lượng tiền lớn được tung ra mua hàng hoá và dịch vụ
gây ra sự thừa tiền trong lưu thông, dẫn đến việc đồng tiền bị mất giá.

- Do tăng cán cân thương mại, khiến cho nước ngoài tăng mua hàng trong
nước, còn người trong nước giảm mua hàng nước ngoài.
- Do Chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế. Nếu chính phủ tăng chi tiêu
của mình dành cho hàng hoá và dịch vụ, lượng tiền mà chính phủ chi mua
hàng hoá và dịch vụ sẽ được đưa trực tiếp vào nền kinh tế, làm tăng tổng
cầu. Nếu Chính phủ giảm thuế hoặc tăng chi chuyển nhượng thì sẽ làm tăng
thu nhập khả dụng, từ đó làm tăng tiêu dùng của hộ gia đình, tức là tăng cầu.
Hiện nay, nguyên nhân tăng chi tiêu của Chính phủ là một trong những
nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát cao.
- Do việc kiểm soát lượng cung tiền của ngân hàng trung ương còn hạn
chế. Ngân hàng trung ương không kiểm soát được lượng cung tiền hợp lí,
cung tiền tăng làm tăng lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân làm tăng cầu.
6
Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho
một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về
một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó.
Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá
của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu
được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ
ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Các nhà
khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là”quá nhiều tiền đuổi theo quá ít
hàng hoá”.
+ Lạm phát do chi phí đẩy ( lạm phát do cung): xảy ra khi chi phí sản xuất
gia tăng hoặc năng lực sản xuất của quốc gia bị giảm sút, trong cả hai trường
hợp đều tạo ra áp lực tăng giá.
- Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng tiền
lương danh nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu,... Do chi phí sản xuất tăng
nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận,
cuối cùng, thị trường cân bằng tại mức giá cao hơn ban đầu.
- Năng lực sản xuất của quốc gia giảm có thể do các nguyên nhân như:

giảm sút nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, do sự biến
động chính trị, chiến tranh, thiên tai,... Do năng lực sản xuất suy giảm nên
khả năng đáp ứng nhu cầu giảm, gây khan hiếm hàng hoá và tăng giá cả.
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu
vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một
hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc
chắn cũng tăng lên. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình
sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng
tăng.
Cả hai trường hợp nêu trên tuy có cơ chế tác động khác nhau nhưng cùng
có một kết quả sau cùng: nền kinh tế vừa bị lạm phát vừa giảm sản lượng.
7
+ Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh
nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không
thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để
đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành
sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
+ Lạm phát do cầu thay đổi: Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi,
trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có
người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có
thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không
giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả
là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
+ Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung
sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng
cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
+ Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán
sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung
bị giá nhập khẩu đội lên.

Khi lạm phát xảy ra, giá trị của đồng tiền sụt giảm.
+ Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại
tệ; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của
nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây
ra lạm phát.
+ Lạm phát do quán tính:
- Lạm phát do quán tính hay lạm phát dự kiến là tỷ lệ lạm phát hiện tại
mà mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này được đưa vào
các hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các loại thoả thuận khác. Và, chính
8
vì mọi người đều đưa tỷ lệ lạm phát dự kiến này vào mọi hoạt động của
mình nên cuối cùng nó trở thành hiện thực.
Một ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính là khi nền kinh tế
bị lạm phát cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối
thiểu để chi tiêu hằng ngày, họ đem tiền đổi lấy các đồng tiền mạnh khác,
vàng hay các loại hàng hoá để tích trữ giá trị, làm tăng lượng tiền lưu thông
trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.
II. CÁC LOẠI LẠM PHÁT
Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia ra làm ba loại lạm phát khác
nhau.
1. Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm ở mức một con số hay
dưới 10% một năm. Hiện ở phần lớn các nước TBCN phát triển đang có lạm
phát vừa phải. Trong điều kiên lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường
xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút do vậy đồng tiền bị
mất giá không lớn, điều kiện kinh doanh tương đối ở định tác hại của lạm
phát ở đây là không đáng kể.
2. Lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba
con số như 20%, 100% hoặc 200%... một năm. Khi lạm phát phi mã đã hình
thành vững chắc, thì các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giá

hoặc theo hợp đồng ngoại tệ mạnh nào đó và do vậy đã gây phức tạp cho
việc tính toán hiệu quả của các nhà kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mức
âm, thị trường tài chính tàn lụi, dân chúng thi nhau tích trữ hàng hoá vàng
bạc bất động sản... Dù có những tác hại như vậy nhưng vẫn có những nền
kinh tế mắc chứng lạm phát phi mã mà tốc độ tăng trưởng vẫn tốt như
Brasin và Itxaraen. Về các trường hợp này cho đến nay chúng ta chưa đủ
thông tin và các công trình nghiên cứu giải thích một cách có khoa học và có
căn cứ.
9
3. Siêu lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã,
được các nhà kinh tế xem như là căn bệnh chết người và không hề có một
chút tác động gọi là tốt nào. Người ta đã dẫn ra các cuộc siêu lạm phát nổ ra
điển hình ở Đức năm 1920-1923, hoặc sau chiến tranh thế giới thứ hai
ở Trung quốc và Hunggari...
Xem xét các cuộc siêu lạm phát xảy ra người ta đã rút ra một nét chung
là: thứ nhất tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên ghê gớm; thứ hai giá cả tăng
nhanh và vô cùng không ở định; thứ ba tiền lương thực tế biến động rất lớn
thường bị giảm mạnh; thứ tư cùng với sự mất giá của tiền tệ mọi người có
tiền đều bị tước đoạt ai có tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn; thứ năm
hầu hết các yếu tố của thị trường đều bị biến dạng bóp méo hoặc bị thổi
phồng do vậy các hoạt động kinh doanh rơi vào tình trạng rối loạn. Siêu lạm
phát thực sự là một tai hoạ, song điều may mắn siêu lạm phát là hiện tượng
cực hiếm. Nó đã xảy ra trong thời kỳ chiến tranh, sau chiến tranh.
Có thể có một cách phân loại lạm phát tuỳ theo tác động của chúng đối
với nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Mỹ PaunA. Samuelson đã phân biệt
lạm phát cân bằng và có dự đoán trước với lạm phát không cân bằng và
không được dự đoán trước. Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân
bằng và có dự đoán trước, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn
định được dự báo, mọi thu nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là
10% và mọi người sẽ điều chỉnh hoạt động của mình theo thước đo đó. Nếu

lãi suất thực tế là 6% một năm thì nay những người có tiền cho vay sẽ điều
chỉnh mức lãi suất này lên tới 16% một năm. Công nhân viên chức sẽ được
tăng lương lên 10% một năm... Vậy là một cuộc lạm phát cân bằng và có dự
đoán trước đã không gây ra một tác hại nào đối với sản lượng thực tế, hiệu
quả hoặc phân phối thu nhập.
Trên thực tế hiếm có thể xảy ra một cuộc lạm phát như vậy, vì khi một
khối lượng tiền tệ được ném thêm vào lưu thông, giá cả mọi hàng hoá không
vì thế mà tăng ngay, và nếu lạm phát chưa sang giai đoạn phi mã thì mức gia
10
tăng mức đầu thường là thấp hơn mức tăng khối lượng tiền tệ, do vậy nhà
nước đã có lợi về thu nhập và ngay khi mức giá cả tăng lên ngang hoặc cao
hơn mức tăng của khối lượng tiền tệ thì nhà nước vẫn có lợi vì giá trị tiền tệ
của những người cho nhà nước vay tiền đã giảm đi. Chỉ đến khi toàn bộ giá
cả kể cả lãi suất và tiền lương đều tăng theo mức lạm phát thu nhập của nhà
nước mới cân bằng trên một mặt bằng giá cả mới. Hơn nữa trong thực tế rất
khó dự báo được một chỉ số lạm phát ổn định, vì có khá nhiều yếu tố làm giá
cả tăng vọt như: giá dầu mỏ đã tăng trong những năm 70, hay trong sự kiện
chiến tranh vùng vịnh.
Song có thể thấy một loại lạm phá vừa phải được điều tiết đã xuất hiện ở
một số nước có nền kinh tế thị trường. Loại lạm phát này có đặc trưng là
mức độ lạm phát không lớn và ổn định, không tăng đột biến và nhà nước có
thể điều tiết nó, tăng, giảm tuỳ theo các điều kiện cụ thể sao cho nó không
gây ra các tác hại đáng kể cho nền kinh tế. Loại lạm phát này chỉ có thể xuất
hiện ở những quốc gia mà ở đó bộ máy nhà nước đủ mạnh để kiềm chế tốc
độ lạm phát khi cần. Sức mạnh của nhà nước thể hiện ở chỗ có đủ hiểu biết
về lạm phát và các công cụ chống lạm phát (mà ngày nay đã có khá nhiều tài
liệu nói đến), đồng thời phải có đủ ý chí và quyết tâm sử dụng các công cụ
đó và giải quyết các hậu quả của nó. Trong những năm 80 ta đã thấy không
ít quốc gia TBCN phát triển ở phương Tây đã làm được điều đó. Mức lạm
phát mà họ duy trì được vào khoảng từ 3-6% một năm. Mức lạm phát này

được xem như một chỉ số cộng thêm vào mức tăng lương thực tế, lãi suất
thực tế mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế.
Paul A. Samuelson còn nói tới một loại lạm phát không cân bằng và
không dự đoán trước. Sự không cân bằng xảy ra là vì giá cả hàng hoá tăng
không đều nhau và tăng vượt mức tiền lương.
Thứ nhất, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước
điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào
đồng tiền nữa các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất
11
ngờ cua lạm phát và do vậy tác dụng đieu chỉnh của thuế bị hạn chế ngay cả
trong trường hợp nhà nước có thể “chỉ số hoá” luật thuế thích hợp mức lạm
phát thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn chế.
Thứ hai, phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng
hoá có giá cả tăng đột biến giầu lên một cách nhanh chóng và những người
có các hàng hoá mà giá của chúng không tăng hoặc tăng chậm, và những
người giữ tiền bị nghèo đi.
Thứ ba, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản và vàng
bạc... gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí.
Thứ tư, xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thi trường, làm cho các điều
kiện của thị trường bị biến dạng hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện
trên giá cả hàng hoá, giá cả tiền tệ( lãi suất), giá cả lao động... một khi
những giá cả này tăng hay giảm đột biến và liên tục thì những yếu tố của thị
trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
Do những tác hại nêu trên, loại lạm phát không cân bằng và không dự
đoán trước về cơ bản là có hại cho hoạt động của thị trường.
III. LẠM PHÁT ĐƯỢC TÍNH NHƯ THẾ NÀO? (ĐO LƯỜNG LẠM
PHÁT)
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường
dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên

đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Các giá cả của
các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá
cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các
sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
12
trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được
thực hiện.Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index - CPI): đo giá cả của một số
lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, bao gồm thực phẩm,
lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế..., được mua bởi "người tiêu dùng
thông thường".
- Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng trưởng trên lý thuyết trong giá cả
sinh hoạt của một cá nhân, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng được giả định
một cách xấp xỉ.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được.
- Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả của một sự lựa chọn các
hàng hóa bán buôn.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của một sự lựa chọn các
hàng hóa.
- Chỉ số giảm phát GDP dự trên việc tình toán của tổng sản phẩm quốc
nội.
- Chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCEPI)
IV. HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT
Ai là nạn nhân của lạm phát?
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở
thành nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều
là người tiêu dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:
- Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất

về giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng
hoá đã tăng lên gấp nhiều lần.
- Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền
khiến cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền
tiết kiệm đánh mất của cải nhanh nhất.
13
- Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một
món hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị
thấp hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần
thì người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải
trả có vẻ nhẹ gánh hơn.
- Những người thuộc diện nghèo trong xã hội (thu nhập dưới
1USD/ngày): đây là những người chịu hậu quả nặng nề nhất của lạm phát
khi số tiền ít ỏi của họ giờ đây không đủ cho 1 bữa ăn gia đình.
Tuy nhiên, lạm phát ở mức độ vừa phải cũng có cái lợi, đó là nó góp
phần phân phối lại thu nhập trong xã hội, giữa những người thừa tiền và
những người có hàng hoá cần thanh lý. Sau khi lạm phát kết thúc thì tiền sẽ
phân phối đều hơn, ít trường hợp người này wá nhiều tiền còn người kia quá
nhiều hàng nhưng lại thiếu vốn.
Ngoại trừ trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (1 con số) có tác
động tích cực đến nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng
xấu đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội.
Hậu quả của lạm phát tập trung lại ở những mặt sau:
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: trong điều kiện lạm phát ở mức độ
cao, giá cả hàng hóa tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn.
Quy mô sản xuất không tăng hoặc giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu
tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển
những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn
những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu
hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy, trong điều kiện có lạm phát, lĩnh vực

thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu
hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức.
Trong lĩnh vực thương mại: người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là
trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa đẩy
14
khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thông
tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra là môi trường tốt để những hiện tượng
tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ gây cung – cầu hàng
hóa giả tạo…
Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng: tín dụng cũng rơi vào khủng hoảng khi
người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát
làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác
thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động
của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi
trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả
năng thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối
loạn không thể kiểm soát nổi.
Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập
cho ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập của
quốc dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu
của ngân sách nhà nước (chủ yếu là thuế) ngày càng sụt giảm do sản xuất bị
sút kém, do nhiều công ty, xí nghiệp bị phá sản, giải thể…
Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó
khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế
của tiền lương giảm sút nghiêm trọng làm cho trật tự an toàn xã hội bị phá
hoại nặng nề.
Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã
hội và nhà nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng
kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát.

V. TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ
- Các hiệu ứng tích cực :
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ
15
"dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa
phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao
động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất.
Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
- Các hiệu ứng tiêu cực:
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Trong điều kiện lạm phát ở mức độ
cao,giá cả hàng hóa bị tăng liên tục,điều này làm cho sản xuất gặp khó
khăn.Quy mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung
vốn đầu tư liên tục.Cơ cẩu nền kinh tế dễ mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát
triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn,thời gian thu hồi vốn nhanh,còn
ngành sản xuất có chu kỳ dài,thời gian thu hồi vốn chậm sẻ có xu hướng bị
đình đốn.phá sản.Vì vậy,trong điều kiện có lạm phát,lĩnh vực thương nghiệp
thường phát triển mạnh.Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp,công tác
hạch toán chỉ còn là hình thức.
Trong lĩnh vực thương mại: người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là
trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng,hàng hóa đẩy
khỏi tay mình những đồng tiền mất giá.Điều này càng làm cho lưu thong
tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn là môi trường tốt để những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ cung - cầu hàng
hóa giả tạo…
Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng: tín dụng bị rơi vào khủng hoảng khi
người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát tăng. Lạm phát làm
sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường,
tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ

thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gởi trong xã
hội bị sụt giảm nhanh chống, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng
thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn
không thể kiểm soát nổi
16
Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: tuy lúc đầu mang lại thu nhập cho
Ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc
dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của
Ngân sách nhà nước (chủ yếu là thuế) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút
kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể…
Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó
khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế
của tiền lương bị giảm sút nghiêm trọng dẫn đến trật tự an toàn xã hội bị phá
hoại nặng nề.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã
hội ,và nhà nước phải cần bằng giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh
tế và đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát.
CHƯƠNG II: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng
được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là
sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị
của cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản
phẩm quốc nội.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của
mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất
định (thường là một năm).

- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn
bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó
17
(dù nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian
nhất định.
II. VAI TRÒ CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo
những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong
đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội.
- Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng,
chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng
kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng
kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con
đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi
thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế,
văn hoá... phát triển
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên
nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng
trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề kinh
tế trong nền kinh tế.Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế
nhưng nó lại là hai vấn đề luôn luôn tồn tại song song với nhau.
18

Trong thực tế không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không
tránh khỏi lạm phát. Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng trải
qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô
khác nhau. Tỷ lệ lạm phát tăng cáo sẽ đẩy giá cả hàng hóa chung tăng lên
mà tiền công danh nghĩa của công nhân không tăng lên đo đó tiền lương
thực tế của họ sẽ giảm đi.
Khi lạm phát tăng cao gây ra hiện tượng siêu lạm phát làm đồng nội tê
tăng rất nhanh, khi đó người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ.Tệ nạn
tham nhũng tăng cao, nạn buôn lậu phát triển mạnh, tình hình đầu cơ trái
phép tăng nhanh, trốn thuế và thuế không thu đã gây ra tình trạng nguồn thu
của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân sách nhà nước
trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.
CHƯƠNG II I : LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC
TRƯNG
I. THỜI KỲ 1976-1980
Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của
Đảng cộng sản Việt Nam được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
năm 1976. Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam từ thời kỳ này là công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã
hội chủ nghĩa và lao động khác), xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
Để thực hiện điều này, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống kinh tế trong
đó:
• Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển,
19
• Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát
triển ưu tiên, nông dân ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến

khích tham gia sản xuất tập thể,
• Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất.
• Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương
trợ Kinh tế từ năm 1978.
Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị
kiểm soát bằng chế độ tem phiếu.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có cả “do khuyết điểm, sai
lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh
đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội”
[5]
dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra
những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng,
những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác
đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong
việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương,
trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất
nước... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch hóa gò
bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ
sở, địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề
20

×