Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Luận Văn: "Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.88 KB, 47 trang )



1









Luận Văn
"Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam"












2






LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi
suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất-lưu thông hàng hoá phát
triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của
Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một
chính sách lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong một
lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù
hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân chúng, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo
được cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lí của Nhà
nước, trong quá trình hoà nhập cùng sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem
xét vấn đề lãi suất là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : Tiến tới tự
do hoá lãi suất ở Việt Nam thông qua 4 phần chính:
Phần I: Tìm hiểu chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Phần III: Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất trong giai đoạn hiện nay
Phần IV: Tự do hoá lãi suất ở Việt nam


3

MỤC LỤC
Lời cảm ơn

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU


1 Tính cấp thiết của đề tài
4
2 Mục đích nghiên cứu của đề tài
5
3 Bố cục của đề án
5
CHƯƠNG 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ LĂI SUẤT

1.1 Các khái niệm về lăi suất 6
1.2 Các loại lăi suất chủ yếu
7
1.3 Chức năng của lăi suất trong nền kinh tế 9
1.4 Các mục tiêu của lăi suất
9
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến lăi suất
10
1.6 Các nguyên tắc xác định lăi suất
12
CHƯƠNG 2 TÙ DO HOÁ LĂI SUẤT

2.1 Khái niệm về tự do hoá lăi suất
13
2.2 Biểu hiện của tự do hoá lăi suất
13
2.3 Tù do hoá lăi suất với các quá tŕnh tự do hoá khác của nền
kinh tế
14
2.4 Tính tất yếu của tự do hoá lăi suất trong nền kinh tế thị
trường

15
2.5 Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lăi suất thành công.
17


4

2.6 Kinh nghiệm của một số nước khi tù do hoá lăi suất
18
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾN TỚI TỰ DO HOÁ LĂI SUẤT Ở VIỆT
Nam

3.1
Những thách thức trong điều hành công cụ lăi suất ở Việt
Nam trong thời gian tới
24
3.2 Định hướng về điều hành lăi suất ở Việt Nam trong thời gian
tới
24
3.3 Việt Nam đă hội tụ đủ các điều kiện để tự do hoá lăi suất hay
chưa
25
3.4 Một số giải pháp và các bước đi tiến tới tự do hoá lăi suất
trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
27
3.5 Một số kiến nghị
34

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

PHẦN I
TÌM HIỂU CHUNG VỀ LÃI SUẤT
I.Khái niệm và vai trò của lãi suất.
1. Khái niệm.
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất
nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi Ngân hàng Trung ương
(NHTW) đặc biệt ở những nước đang phát triển . Vì vậy, có rất nhiều cách hiểu về
lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra một vài khái niệm cơ bản về lãi suất như
sau:
 Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng,
đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay
tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ để điều hành chính sách tiện tệ của NHTW
mỗi nước.


5

 Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất được ấn định trên thị trường, không được
điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá.
 Lãi suất thực là lãi suất được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính
về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Theo
Fishes, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng với mức lạm phát dự tính:
i = r + .
 Lãi suất hoàn vốn: Là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh
toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là
phép đo được các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính xác nhất.
 Lãi suất tái cấp vốn: Là lãi suất do NHNN áp dụng khi tái cấp vốn.
 Lãi suất tái chiết khấu: Là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi NHNN tái
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng.
 Lãi suất liên ngân hàng: Là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng,

nơi các ngân hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ dẫn chính xác
hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung cầu vốn trên thị trường.
2. Vai trò của lãi suất.
2.1.Đối với kinh tế vĩ mô.
Lãi suất được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô. Thể hiện ở các nội
dung sau:
 Lãi suất tiến hành phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế -> điều
chỉnh cơ cấu đầu tư -> điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển cân đối và ổn định.Lãi suất tác động trực tiếp đến đầu tư, do đó được sử dụng
như một công cụ để chống lạm phát. Nếu nền kinh tế suy thoái, có thể sử dụng lãi
suất để tăng đầu tư, phát triển kinh tế.
 Lãi suất hướng dẫn cho sản xuất- tiêu dùng: Lãi suất tăng -> chi phí sản xuất
tăng -> giá thành sản phẩm tăng -> dân chúng sẽ hạn chế tiêu dùng loại hàng sản
xuất đó và ngược lại.


6

 Lãi suất là công cụ để kiểm soát các luồng vốn di chuyển giữa các ngành
trong nền kinh tế cũng như với nước ngoài.
Vậy, đối với tầm vĩ mô, lãi suất rất quan trọng, tất cả các nước đều rất quan tâm.
2.2.Đối với tầm vi mô.
Lãi suất là cơ sở quan trọng cho các cá nhân, các doanh nghiệp đưa ra các
quyết định đối với việc sử dụng vốn. Ngoài ra, lãi suất còn góp phần thúc đẩy và
củng cố hiệu quả kinh tế.
2.2.a Lãi suất với sự phân bổ các nguồn lực
Tất cả mọi nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ
và sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị
trường cho thấy, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các
nguồn lực giữa các ngành kinh tế.

Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò
phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào
một ngành kinh tế, một dự án hay là một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm
đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó
hay tài sản đó so với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét một ngành,
một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để
trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Ngành nào, dự án
kinh doanh nào có tỷ suất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới
đó, và đó là sự phân bổ hiệu quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành sản xuất
khác nhau để đầu tư nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao. Như vậy lợi suất là tín hiệu, là
căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội, lãi suất là
yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư.
2.2.b Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.


7

Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng
và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề
hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi
suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều hơn cho
việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất
cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do
đó tiết kiệm tăng.
2.2.c. Lãi suất với đầu tư.
Hoạt động đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi
phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu tư là yếu tố
quan trọng quyết định đầu tư.

Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập
nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm ,
ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật
nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn vay để đầu tư
vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưởng của lãi suất do doanh nghiệp
có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao, chi phí cơ hội của một khoản đầu tư sẽ cao,
chi tiêu đầu tư giảm do các doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn vào đầu tư
vốn hiện vật. Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm, chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên
vì đầu tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh nghiệp so
với mua chứng khoán.
Đối với đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả
cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để
mua hàng. Lãi suất làm việc tăng, chi phí biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi
ích biên đã giả định trước làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm.Như vậy lãi suất là


8

nhân tố chủ yếu quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng
dự trữ.
2.2d. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước
khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế quan, quota, sự ưa thích hàng nội, hàng
ngoại, năng suất lao động Ngoài ra tỷ giá trong ngắn hạn còn chịu ảnh hưởng của
lãi suất: Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây
là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm
phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa
tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước

tăng, tỷ giá tăng.Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá
giảm) và ngược lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động XNK. Nếu lãi suất tăng làm tăng tỷ giá
sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy thông
qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có ảnh hưởnglớn tới xuất nhập khẩu, xuất khẩu ròng
của một quốc gia.
2.2.e. Lãi suất với lạm phát.
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm
phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Những nước
trải qua lạm phát cao cũng chính là những nước có mức lãi suất cao. Lạm phát là
hiện tượng mất giá của đồng tiền, là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền
kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy cũng có nhiều biện pháp khác
nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể
thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu


9

thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như
vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy
trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng.
Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể
kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất
phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
III. Các loại lãi suất thông dụng.
1.Lãi suất đi vay.
Là lãi suất mà ngân hàng trả cho khách hàng khi vay vốn của họ. Lãi suất đi

vay thường được công bố trước lãi suất cho vay.
2.Lãi suất cho vay.
Là lãi suất mà người đi vay của ngân hàng phải căn cứ vào đó để trả lãi cho
ngân hàng. Lãi suất cho vay đứng đằng sau lãi suất đi vay trong bảng công bố lãi
suất.
3.Lãi suất đơn.
Là lãi suất được hình thành do không ghép lãi vào vốn. Lãi suất đơn thường
là lãi suất danh nghĩa, ghi trên hợp đồng tín dụng.
4.Lãi suất kép.
Còn gọi là lãi suất thực tế không ghi trên hợp đồng tín dụng mà tự các bên kí
kết hợp đồng tính toán để biết được mức lãi thực tế mà họ nhận được là bao nhiêu.
Lãi suất kép chính là mức lãi suất mà người đi vay và người cho vậy quan tâm đến.
II. Nguyên tắc và phương pháp xác định lãi suất.
1. Các nguyên tắc cơ bản để xác định chế độ lãi suất.
Lãi suất tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Lãi suất phải đồng thời thực hiện được 2 chức năng kích thích, điều
tiết hoạt động kinh tế phát triển và là chính sách kinh tế có hiệu quả.


10

Do lãi suất có ảnh hưởng đến tất cả các quyết định liên quan đến tiền trong
xã hội nên việc xác định một mức lãi suất hợp lí là rất quan trọng. Lãi suất có khả
năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ
người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư
sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức
hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu
tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn
người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức
lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì

chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng,
không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở
thành ” vốn chết ” không còn tác dụng gì nữa. Vì vậy, trước khi xác định mức lãi
suất phải tính đến nguyên tắc này đầu tiên.
Nguyên tắc 2: Bảo tồn giá trị của vốn, bù đắp được rủi ro, có tích luỹ cho người sở
hữu vốn và người sử dụng vốn.
Khi đem vốn vào sử dụng, sau một thời gian nhất định, người sử dụng vốn
cũng như người cho vay vốn đều hi vọng vốn ban đầu sẽ tạo ra một lượng tiền lớn
hơn tức là có sinh lãi đủ để trang trải các chi phí và để lại một phần lợi nhuận. Đây
là lẽ đương nhiên. Song trên thực tế không phải đầu tư nào cũng đem lại kết quả tốt
đẹp, sẽ có những lúc bị lỗ, thậm chí mất cả vốn ban đầu. Do đó, lãi suất phải đảm
bảo nguyên tắc 2 để người cho vay và người đi vay không bị thiệt thòi dù cho việc
sử dụng vốn có lúc lãi có lúc lỗ.
Nguyên tắc 3: Lãi suất phải được phân định theo thị trường tiền tệ cấp 2.
Sở dĩ lãi suất phải phân định ra vì trên mỗi thị trường, các yếu tố quyết định
đến mức lãi suất là khác nhau như: chủ thể sở hữu và sử dụng vốn, chi phí huy
động vốn, mức độ rủi ro, uy tín của người vay.v.v Tuy nhiên, lãi suất trên thị
trường cấp 2 có thể dựa vào lãi suất trên thị trường cấp một để định ra mức lãi suất


11

phù hợp và lãi suất trên thị trường cấp 1 có thể tăng hay giảm để tác động vào lãi
suất của thị trường cấp 2. Tóm lại, lãi suất trên 2 thị trường tiền tệ phải khác nhau
nhưng có quan hệ hữu cơ và ràng buộc lẫn nhau. Thông thường, lãi suất trên thị
trường cấp một nhỏ hơn lãi suất trên thị trường cấp 2 để đảm bảo cho các tổ chức
tín dụng sau khi đi vay trên thị trường cấp 1 và cho vay trên thị trường cấp 2 sẽ thu
được một phần lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất trên hai thị trường đó.
Nguyên tắc 4: Nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở nguyên tắc 1 và 2, trong
đó:

Tỉ lệ lạm phát < Lãi suất đi vay < Lãi suất cho vay < Tỉ suất lợi nhuận bình
quân c
ủa nền kinh tế
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất trung và dài hạn.
Bất đẳng thức 1 cho thấy lãi suất phải đảm bảo có lợi cho cả người vay và
người đi vay đồng thời có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển nền
kinh tế. Tỉ lệ lạm phát càng thấp và tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế càng
cao thì càng tốt đối với cả dân cư, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
Trong bất đẳng thức 2, lãi suất rõ ràng phải có tính bù đắp được rủi ro, thời
hạn sử dụng vốn càng dài, rủi ro càng cao thì lãi suất càng lớn. Vì nếu lãi suất ngắn
hạn lớn hơn lãi suất trung và dài hạn thì nó chỉ có lợi cho những người giàu, lắm
tiền gửi vào TCTD, sống dựa vào lãi cao, ngắn ngày, làm mất đi chức năng cơ bản
của các tổ chức tín dụng là “ đi vay để cho vay” và có hại cho nền kinh tế, xã hội và
các doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo sự biến thiên của lãi suất theo sát sự biến động của thị
trường tiền tệ trong nước và tiếp cận thị trường quốc tế.
Lãi suất phản ánh qui luật cung- cầu vốn, do đó nó phải phụ thuộc vào sự
biến động của các luồng vốn trên thị trường. Nếu cung vốn đang thừa mà lãi suất
cứ tăng lên thì những người cần vốn trên thị trường sẽ không vay tiền nữa, làm cho
vốn không được lưu thông, hạn chế sự tăng trưởng của nền kinh tế.


12

Mặt khác, đối với mỗi quốc gia, lãi suất không chỉ phù hợp với thị trường
trong nước mà còn phải vận động ngày càng gần với lãi suất trên thị trường quốc
tế. Có như thế, đất nước mới có thể hoà nhập với nền kinh tế thế giới và có quan hệ
bình đẳng với các quốc gia phát triển khác.
1.Phương pháp xác định lãi suất.
1.1. Cơ sở hình thành lãi suất.

Việc tìm ra một cơ sở có thể hoàn toàn tin cậy là không thể có ngay được.
Các nước có nền kinh tế thị trường cạnh tranh hoàn hảo cũng đã và đang xây dựng
lãi suất theo phương pháp phân tích thông tin của thị trường, với kinh nghiệm và sự
uyên thâm trong nghề nghiệp để định lượng một lãi suất phù hợp. Trong phần này,
chúng ta xem xét các cơ sở mà hầu hết các nước đang sử dụng cho việc hình thành
lãi suất.
Tỉ lệ lợi nhuận bình quân và tỉ lệ trượt giá là hai yếu tố quan trọng cấu thành
nên lãi suất đồng thời cũng là 2 cơ sở hình thành nên mức lãi suất. Lãi suất tín dụng
trong cơ chế thị trường bị giới hạn bởi tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế
(giới hạn trên) và tỉ lệ lạm phát (giới hạn dưới). Lãi suất chỉ có thể vận động trong
giới hạn đó và phải căn cứ vào 2 yếu tố này cùng với quy luật cung - cầu vốn để
tăng, giảm một cách hợp lí. Mặt khác, do nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào 2 cơ
sở trên nên lãi suất được đặt ra, ngoài mục đích thu lợi cho một cá nhân, một tổ
chức, phải đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, khi xác định lãi suất,
người ta phải dựa trên 2 cơ sở cơ bản này.
Cơ sở thứ 3 là ước định một tỉ lệ kích thích. Lãi suất cũng giống như các loại
giá cả khác, chỉ cần thấp hoặc cao hơn một chút so với các tổ chức tín dụng khác đã
có thể thu được nhiều khách hàng hơn, cho vay nhiều hơn hoặc ngược lại. Như vậy,
trên cơ sở một tỉ lệ kích thích, lợi nhuận của TCTD có thể bị giảm đi nếu tính trên
giá trị từng giao dịch song với số lượng giao dịch tăng lên thì lợi nhuận vẫn tăng
mà TCTD lại tạo ra được lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mình.


13

Cơ sở tiếp theo là chỉ tiêu hợp lí về tổng chi phí tín dụng bình quân. Dựa trên
chỉ tiêu này, người ta có thể xác định được nhiều chỉ tiêu khác như doanh thu, lợi
nhuận, mức lương, mức lãi suất.v.v Nếu tính toán tổng chi phí tín dụng bình quân
cao hơn nhu cầu thực tế của thị trường sẽ dẫn đến thừa vốn, TCTD muốn cho vay
được phải giảm lãi suất cho vay. Điều này có thể dẫn đến hai hậu quả là giảm lãi

suất tiền gửi khiến khách hàng chuyển sang gửi tiền ở các TCTD khác hoặc là giảm
lợi nhuận đồng thời giảm tiền lương của cán bộ công nhân viên. Nếu chỉ tiêu trên
thấp hơn nhu cầu thực tế thì tác động ngược lại , TCTD phải nâng cả lãi suất đi vay
và lãi suất cho vay lên. Khi lãi suất cho vay tăng, các doanh nghiệp sẽ vay ít hơn
cho đầu tư vào sản xuất kinh doanh khiến cho nền kinh tế tăng trưởng chậm lại. Vì
vậy, xác định chỉ tiêu tổng chi phí tín dụng bình quân hợp lí là rất cần thiết khi hình
thành lãi suất giúp cho TCTD giữ được uy tín với các doanh nghiệp vay vốn và thu
hút được nhiều khách hàng gửi tiền.
Cơ sở cuối cùng là kinh nghiệm nghề nghiệp của các chuyên gia. Lãi suất là
một biến số được cấu thành từ rất nhiều biến số khác nhau mà trong đó chủ yếu là
những biến số mang tính khách quan. Do đó, muốn xác định được lãi suất phải nắm
chắc được các yếu tố cấu thành nó. Sự biến động của các yếu tố này rất phức tạp,
do đó cần phải xem xét, phân tích kĩ lưỡng, đòi hỏi phải do các chuyên gia hoạt
động lâu năm trong nghề thực hiện.
1.2 Công thức tổng quát tính lãi suất.
a) Lãi suất đi vay của ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi = < a% tỉ suất lợi nhuận + tỉ lệ lạm phát.
bình quân
Trong đó: 0 = < a < 100.
Với a = 0 % => Lãi suất tiền gửi không kì hạn = Tỉ lệ trượt giá.
Với tiền gửi có kì hạn thì kì hạn càng dài, a% càng lớn.
b) Lãi suất cho vay.


14

Lãi suất cho vay = Lãi suất + b%Tỉ suất lợi nhuận + Phụ phí + Hệ số
nói chung tiền gửi bình quân tín dụng rủi ro.
 b% phụ thuộc vào thời hạn vốn được sử dụng, thời hạn càng dài b% càng lớn.
 Hệ số rủi ro phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời hạn sử dụng vốn, chủ thể vay

vốn, mục đích vay vốn, tính khả thi của dự án đầu tư






15

PHẦN II.
THỰC TRẠNG LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
1.Trước tháng 3- 1989 : là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm.
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước 1988, lãi suất của Việt Nam không tuân
theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHTƯ áp đặt là một trong những
nguyên nhân gây ra và kéo dài lạm phát phi mã. Lãi suất âm có đặc điểm :
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của
tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho doanh
nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân
hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
2.Từ tháng 3-1989: Thời kỳ lãi suất dương
NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi
suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao
cấp qua lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao trong một
thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % / năm, lãi suất tiết kiệm 3

tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
 Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm
áp lực lạm phát.
 Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền,
người vay vốn và TCTD.


16

 Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh
doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi
suất tiền gửi và cho vay.
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất.
Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách lãi suất
theo hướng:
- Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn lãi
suất tiền gửi.
- Ngân hàng nhà nước chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối thiểu
cụ thể với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM tự
quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng.
- Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế.
- Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung được nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn
định và kích thích tăng trưởng. Năm 1992, lạm phát giảm mạnh từ 67,6% (1991)
xuống 14,5% , tăng trưởng kinh tế từ 6% (1991) lên 8,6%. Năm 1993 lạm phát đạt
mức thấp 5,2% và tăng trưởng kinh tế 8,1%.
Mức lãi suất mới đã khắc phục được tình trạng lợi dụng vốn của ngân hàng
để găm hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn

và tăng nhanh quay vòng vốn.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp dụng lãi
suất thoả thuận.
Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các mức lãi
suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi
suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể:


17

a)Trần : Đối với doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh
2,1 % / tháng.
b)Thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi
suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất
thoả thuận: Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1
%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay
bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các ngân hàng đạt mức
chênh lệch giỡa lãi suất cho vay và lãi suất huy động râta cao, phổ biến từ 0,7% -
1% tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi
suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động
nhất định.
4.Giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất.
Ngày 28-12-1995, Quốc hội ra quyết định 381/NQNH1 quy định thực hiện
quy định chính sách trần lãi suất áp dụng cho một số lĩnh vực cho vay cụ thể:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
- Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
- Trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng vay trên địa bàn nông thôn.
- Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với thành viên.

Ngoài ra, nghị quyết còn quy định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
huy động vốn là 0,35%/tháng.
Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0,35% thực chất là vừa
quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi suất. Từ 1/ 1/ 96 NHNN đã quy định
trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo
lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó .


18

Từ 21/1/1998 đến nay, Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35
% / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay của thành thị
và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần
lãi suất và không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
- Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
+ Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi suất cho
vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh , thực hiện chính
sách khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng
bước tự do hoá lãi suất.
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận,
vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định.
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ được lợi ích người vay, TCTD và người gửi
tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nước của NHNN về lãi suất trong giai đoạn
đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.
II.Cơ chế lãi suất ở Việt Nam hiện nay

Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay theo quy định của NHNN kể từ khi
xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực đến nay.
Thời điểm thực hiện mức trần
lãi suất cho vay các loại
1/7/1997

21/1/199
8
1/2/1999 1/6/1999

1. Ngắn hạn 1,0% 1,2% 1,1% 1,15%
2. Trung dài hạn 1,1% 1,25% 1,15% 1,15%
3.Vùng nông thôn 1,2% 1,25% 1,25% 1,15%


19

4. QTDND & HTXTD 1,5% 1,5% 1,5% 1,5%
5. Lãi suất tái cấp vốn 1,1% 1,1% 1,0% 0,85%

Chỉ số tiết kiệm, lãi suất danh nghĩa trung bình, lãi suất thực

Năm Tiết kiệm
(%GDP)
LS danh
nghĩa(%năm)

LS thực
(% năm)
CPI

(% năm)
1991 10,10 42,0 25,6 17,5
1992 13,77 35,5 17,9 5,1
1993 14,54 21,6 16,4 14,5
1994 17,08 16,8 2,4 14,3
1995 18,99 16,8 4,1 13,5
1996 15,96 13,5 9,0 4,5
1997 16,50 12,6 8,9 3,7
Nguồn: IMF
Thực tế cho thấy có nhiều tồn tại xoay quanh chính sách lãi suất hiện hành.
Dù cho việc kiểm soát lãi suất trong những điều kiện nhất định vì mục tiêu của
chính sách tiền tệ thì vẫn không thể tránh khỏi những thiệt hại xét trên tổng thể nền
kinh tế. Điều này từng khuyến khích sự vay mượn chiếm dụng lòng vòng, trốn
tránh kiểm soát của NHNN, làm méo mó chế độ lãi suất quy định. Mức độ toàn
dụng vốn trong nền kinh tế thấp, tính đầu cơ thực lợi và cạnh tranh bất tương xứng
về lãi suất còn phổ biến, vốn bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Chuyển sang lãi
suất trần là một bước tiến bộ, song lãi suất vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung-
cầu về vốn của nền kinh tế. Một biểu hiện rõ nhất là lãi suất chung của nền kinh tế
chủ yếu được áp đặt bởi NHNN chứ chưa phải được hình thành theo đúng tín hiệu
thị trường, thông qua một số tham số chủ chốt: lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc,
lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất giao dịch hợp đồng mua đứt, bán đoạn


20

hay mua bán có kì hạn, lãi suất chiết khấu, cầm cố, thế chấp tài sản Nhìn chung,
lãi suất chưa phản ánh được rủi ro tín dụng, thiếu quan hệ khăng khít với diễn biến
tỉ giá hối đoái, trong lúc thường xuyên bị trói buộc hết sức cứng nhắc bởi “vòng
kim cô” chỉ số giá CPI
Đôi lúc trần lãi suất chỉ có ý nghĩa tượng trưng, bên cạnh đó còn tồn tại

nhiều mức lãi suất khác nhau trên thực tế, lại có hiện tượng lạm dụng lãi suất ưu
đãi tràn lan trong vòng 2 năm nay. Do đó xu hướng hạn chế, dỡ bỏ mọi áp đặt, can
thiệp, kiểm soát hành chính về lãi suất là một tất yếu khách quan. Mục tiêu là cuối
cùng thì phải để thị trường tự quyết định lãi suất phù hợp cho nó(cũng là cho nền
kinh tế). Dựa vào đó sự can thiệp một cách gián tiếp của NHNN vào thị trường tiền
tệ mới thực hiện được linh hoạt, đúng hướng và có hiệu quả. Hai vấn đề bức xúc
hiện nay là:
+ Trong điều kiện hiện tại của Việt Nam thì nên hoàn chỉnh chính sách lãi
suất theo định hướng nào.
+ Phải có những điều kiện cần và đủ nào cho việc hoạch định và điều hành
chính sách lãi suất tốt hơn.
 Quan điểm định hướng về chính sách lãi suất mới.
Do một số điều kiện đặc thù, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn ở trong giai
đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một tài liệu của đoàn IMF,
thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam (giai đoạn 2) qua mấy năm đổi mới,
chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn
thấp. Chỉ số M2/ GDP mới chỉ là 25,1% so với mức bình quân trên 60% của nhiều
nước đang phát triển, riêng Trung Quốc đạt mức cao là 82,3%; Chỉ số Mo/ tiền gửi
ngân hàng vẫn còn cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ
khoảng12%, riêng Trung Quốc là 20,4%. Có nghĩa trong lúc mức độ tiền tệ hoá
nền kinh tế còn rất thấp thì chủng loại “hàng hoá ”cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ
còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ


21

còn lớn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ
hình thành một cách hết sức khó khăn, diễn ra không bình thường. Sự ấn định giá
cả (hình thành lãi suất thị trường) không tránh khỏi bị áp đặt bởi số ít lực lượng
tham gia thị trường đóng vai trò độc quyền. Sự nôn nóng theo đuổi các mục tiêu,

chính sách đôi lúc khiến NHNN cũng bị cuốn hút vào đó, mặc dù không phải lúc
nào việc áp đặt các mức trần lãi suất cũng suôn sẻ và dễ dàng được thị trường chấp
nhận
Xét về năng lực thể chế yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam, khuôn khổ
pháp lí và quy chế dự phòng rủi ro chưa hoàn bị cũng cho thấy trong thời điểm hiện
nay để cho thị trường tự định đoạt lãi suất cho nó là rất khó thực hiện. Dựa trên nền
tảng này không thể có ngay chính sách lãi suất thích hợp. Cũng phải thấy là việc
duy trì trần lãi suất cho vay là để hạn chế các ngân hàng yếu về tài chính chấp nhận
mức rủi ro quá mức. Trong chừng mực nhất định trần lãi suất chỉ bảo đảm cân bằng
tương đối về tiền tệ ở góc độ vĩ mô, nhưng ở góc độ vi mô cũng còn vướng mắc.
Nội dung chính sách lãi suất hiện nay là không chỉ kiểm soát lãi suất cho vay(kiểm
soát về giá), theo đó là kiểm soát lãi suất sàn huy động vốn hay chênh lệch lãi suất
đầu vào-đầu ra(đã bỏ), mà còn khống chế về tổng lượng tín dụng của nền kinh tế
bằng hạn mức tín dụng, hạn mức vay nợ nước ngoài, mức cung ứng tiền tăng thêm
hàng năm và một số chỉ tiêu khống chế tài sản khác Riêng về số dư tiền dự trữ
(RM) được coi là một trong 3 nội dung quản lí căn bản(bên cạnh lãi suất, mức cung
ứng tiền) của chính sách tiền tệ chưa được quan tâm đúng mức.
Trong hơn 10 năm đổi mới, cơ chế điều hành lãi suất đã ngày càng trở nên linh
hoạt hơn, nới lỏng từng bước theo hướng tự do hoá, bám sát cung cầu vốn trên thị
trường, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD được mở rộng,
nên làm tăng khả năng canh tranh nhưng vẫn kiểm soát được lãi suất trên thị trường
tiền tệ, góp phát triển thị trường tài chính trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Để thúc đẩy phát triển kinh


22

tế và hội nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, từng
bước áp dụng lãi suất cơ bản thay dần cho việc ấn định trần lãi suất đi đôi với sử
dụng công cụ điều tiết lưu thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường.

III.Các cách hiểu về lãi suất cơ bản.
Theo luật NHNN Việt Nam , lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm
cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.Lãi suất cơ bản được
hình thành trên nguyên tắc thị trường chứ không phải tự hình thành ttrên thị trường
tiền tệ với bước đi thích hợp, thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị
trường tiền tệ, từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính
trong nước; đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao
năng lực tài chính và năng lực điều hành của các TCTD; xử lý lãi suất VND trong
mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá , quản lý ngoại hối .
Trên cơ sở có nhiều cách hiểu và nhận thức về lãi suất cơ bản, ta cùng phân tích
một số loại lãi suất cơ bản:
1. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
Hiện nay ở Việt Nam chưa hình thành lãi suất tái chiết khấu, do chưa tổ chức
được nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương, vì vậy chưa có cơ sở để
xác định lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
2. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Nước ta chưa hình thành lãi suất tái chiết khấu, nhưng lại có lãi suất tái cấp
vốn, nhưng lãi suất này cũng mang nặng tính chất để điều hành chính sách tiền tệ là
chính, nên nó chủ yếu căn cứ vào lãi suất cho vay, lãi suất huy động vốn trên thị
trường (cũng do NHNN công bố) để quy định. Vì vậy, cũng không thể dùng lãi
suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản được.
3.Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.


23

Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống
chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền gửi vay cụ thể phù hợp
với cung cầu về vốn.
Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHNN chỉ công bố và kiểm soát lãi

suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi
suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp
của chính sách tiền tệ. Lãi suất tiền gửi tối đa có thể xác định theo công thức:
Lãi suất tiền gửi = Lạm phát dự + Lãi thực của
tối đa kiến người gửi.
Lãi suất cơ bản theo cách này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong
chính sách lãi suất, tiến sát đến sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do hoá lãi suất
cho vay và lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo quan
hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng
cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng
mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ
chức tín dụng huy động với bất cứ laĩ suất nào, chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy
động mới bù đắp nợ cũ, bảo đảm an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của
người gửi tiền. Đồng thời, lãi suất cơ bản loại này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều
khu vực lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như:
lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ
chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh
lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
Muốn điều hành lãi suất cho vay một cách có hiệu lực thông qua việc khống
chế lãi suất tiền gửi tối đa thì NHNN sẽ phải kết hợp cả 2 phương pháp điều hành
trực tiếp và gián tiếp:


24

+ Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi
tối đa tương ứng: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối đa và ngược
lại( điều hành bằng mệnh lệnh hành chính)
+ Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền

tệ tác động vào khối lượng vốn trên thị trường như: NHNN mua bán các loại giấy
tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng( nghiệp vụ thị trường mở), NHNN tái
chiết khấu các loại chứng từ có giá(cửa sổ chiết khấu), thị trường liên ngân hàng
hoạt động có hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ là người cho vay cuối cùng. Muốn
điều hành khối lượng tiền bằng các công cụ gián tiếp có hiệu quả thì việc mở và sử
dụng tài khoản cá nhân ở mức độ khá phổ biến nhằm làm cho NHNN kiểm soát
được tổng phương tiện thanh toán ở mức độ cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện
trên ở nước ta chưa hội đủ, vì vậy khả năng kiểm soát và quản lí lãi suất cho vay sẽ
rất hạn chế do chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp mà NHNN có thể thực hiện được
là nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa để theo nó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay.
Tuy nhiên, xét theo quan hệ cung cầu về vốn, thì việc nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi
tối đa trong điều kiện chưa có các công cụ gián tiếp phối hợp có thể tác động theo
chiều ngịch, hạ lãi suất tiền gửi cũng có thể làm cho vốn tín dụng huy động được ít,
trở nên khan hiếm và lãi suất cho vay sẽ “đắt lên” và ngược lại.
Vì vậy, trong điều kiện hiện tại của nước ta, khi chưa hội đủ các điều kiện
như trên, nếu thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì có thể dẫn đến
tình trạng:
+ Các tổ chức tín dụng sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt được lợi nhuận
cao, vì bản chất của cơ chế thị trường là lợi nhuận tối đa. Dự kiến mức lãi suất cho
vay có thể lên đến 2,5 % / tháng hoặc cao hơn, khi đó muốn điều chỉnh giảm lãi
suất cho vay, NHNN chỉ còn một công cụlà giảm lãi suất tiền gửi tối đa nhưng
hiệu lực sẽ rất kém, và lãi suất cho vay có thể không thể hạ xuống được. Khi lãi
suất cho vay quá cao, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, dư luận và các đại biểu quốc


25

hội có thể phản ứng, khi đó điều hành qua lãi suất tiền gửi tối đa có thể kém hiệu
lực và lãi suất cho vay có thể vẫn không hạ được theo ý muốn và lại phải quay trở
lại với cơ chế lãi suất cho vay tối đa.

+ Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và hộ sản xuất vẫn phải vay vì thiếu
vốn sản xuất và vay để bù đắp các khoản nợ cũ đến hạn do cung về vốn ở nước ta
luôn nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp hơn chi phí phải trả ngân hàng sẽ dẫn đến nguy cơ
cả doanh nghiệp và ngân hàng đều khó khăn và dẫn đến chỗ cả hai đều mất khả
năng thanh toán.
+ Đồng thời, nếu thực hiện lãi suất này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu
vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu
vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng
cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn như các
ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài. Và như vậy, sẽ giảm bớt tính lành mạnh của cạnh tranh và trong sự
cạnh tranh này chắc chắn các tổ chức tín dụng lớn, có nguồn vốn lớn là các ngân
hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài có ưu thế hơn, các tổ chức tín dụng nhỏ như ngân hàng thương mại cổ
phần, quỹ tín dụng nhân dân sẽ gặp không ít khó khăn.
+ Việc thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay ở khu vực núi cao, hải đảo
sẽ khó có cơ sở để thực hiện, trong khi các đối tượng vay vốn thuộc các khu vực
này chưa được tách bạch là đối tượng chính sách được vay theo chính sách riêng
của Nhà nước. Vì hiện tại việc giảm lãi suất miền núi cao(khu vực 3 ở vùng miền
núi) được quy định giảm 30% trần lãi suất cùng loại do NHNN công bố.
Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, chuyển từ điều
hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang kết hợp điều hành bằng công cụ
trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua
bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu

×