Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Luận Văn: "MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.6 KB, 50 trang )


3







Luận Văn
"MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP
VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ"













4

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ 3

I. Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ 3
1/ Khái niệm 3
2/ Hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ 3
3/ Các công cụ của chính sách tiền tệ 5

II. Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở 7
1/ Khái niệm và cơ chế tác động 7
2/ Các loại nghiệp vụ thị trường mở 8
3/ Phương thức giao dịch trên thị trường mở 9
4/ Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở 11

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM 13

5

I. Vài nét về nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam 13
1/ Khái niệm 13
2/ Điều kiện về thị trường tài chính 13
3/ Khuôn khổ pháp lý 16
4/ Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ 16

II. Tình hình hoạt động thời gian qua 18
1/ Những kết quả bước đầu đạt được 18
2/ Một số tồn tại và hạn chế 20


CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA
CÔNG CỤ
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG THỜI GIAN TỚI
24

1/ Tăng thêm số lượng thành viên tham gia vào thị trường 24
2/ Mở rộng hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở
cả về số lượng và chất lượng 25
3/ Đa dạng hoá các phương thức giao dịch 25
4/ Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển
để làm cơ sở cho hoạt động thị trường mở 26
5/ Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng kết hợp với nâng cao

6
trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng 27

KẾT LUẬN 36

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 49




















7



CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ
I-/ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ. Vì
thế nghiên cứu nghiệp vụ thị trường mở trước hết chúng ta phải tìm hiểu về
chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính sách
kinh tế vĩ mô của Nhà nước do Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm khởi
thảo và thực thi, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và
điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền,
tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội.
Trong một khoảng thời gian nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc gia
thường được xác định theo hai hướng:
Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng
Trung ương sẽ hoạch định theo hướng chính sách mở rộng tiền tệ, tức là tăng

lượng tiền cung ứng vào lưu thông, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.

8
Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát gia tăng, Ngân hàng Trung
ương sẽ hoạch định chính sách thắt chặt tiền tệ, tức là thu hẹp lượng tiền cung
ứng trong lưu thông, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá mức của
nền kinh tế.
Sự tăng lên (hay giảm đi) của lượng tiền cung ứng đã chuyền tác động của
nó tới giá cả, sản lượng và do đó là công ăn việc làm. Đến lượt nó những biến
đổi này là nguyên nhân mở rộng hay thu hẹp tiền tệ, lãi suất vì thế cũng tăng
hay giảm trở lại. Bằng cách tạo ra sự biến động về tiền tệ, mở rộng hay thu hẹp,
các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô và
hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. Như vậy, bản chất của chính sách
tiền tệ là việc chủ động tạo ra các biến động về tiền tệ (xét cả về khối lượng tiền
và giá tiền - lãi suất) với một mục tiêu xác định.

2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
a/ Mục tiêu cuối cùng
Ổn định giá cả.
Ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu
dài hạn. Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh
tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi
trường kinh tế vĩ mô. Sự bất ổn định giá cả làm méo mó, sai lệch thông tin và do
đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên không đáng tin cậy và không có hiệu
quả. Nguy hiểm hơn, nó dẫn đến sự phân phối lại không dân chủ các nguồn lực
kinh tế xã hội giữa các nhóm dân cư.

9
Mức lạm phát thấp và ổn định sẽ tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc

đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả.
Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của xã
hội.

Tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Vì một nền
kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ một
chính sách kinh tế vĩ mô nào. Trong đó, chất lượng tăng trưởng được biểu hiện
ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh Quốc tế của hàng hoá trong
nước tăng lên. Đó chính là nền tảng cho mọi sự ổn định. Vì nền kinh tế tăng
trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, là công cụ để ổn định
tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định
vị trí của nền kinh tế trên trường quốc tế.

Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ.
Chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm
áp lực xã hội của thất nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng
bởi:
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng
xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội.
- Thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi cá nhân và gia đình của họ
và là mầm mống của các tệ nạn xã hội.

10
- Các khoản trợ cấp tăng lên có thể làm cho thay đổi cơ cấu chỉ tiêu ngân
sách và làm căng thẳng tình trạng ngân sách.
Để thực hiện được mục tiêu này, mỗi quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên một cách chính xác. Do đó, cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên cũng được coi là một mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài các mục tiêu trên, tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế mà mỗi

nước có thể tập trung vào các mục tiêu cụ thể của riêng mình.
b/ Mục tiêu trung gian
Đây là những mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương thông qua đó ảnh hưởng
đến tổng cầu, từ đó tác động vào mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian phải đáp ứng được 3 tiêu chuẩn chính là: có thể đo
lường được hay đảm bảo tiêu chuẩn định lượng; Ngân hàng Trung ương có thể
kiểm soát và chi phối được và quan trọng hơn cả là nó phải có mối liên hệ chặt
chẽ với mục tiêu cuối cùng, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối
cùng của chính sách tiền tệ.
Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ bao gồm: mức cung tiền tệ
(có thể là M
1
, M
2
, M
3
), lãi suất thị trường trung và dài hạn (có thể là một mức lãi
suất cụ thể), tỷ giá, khối lượng tín dụng. Hiện nay các nước thường sử dụng
mức cung tiền tệ hay lãi suất thị trường.
c/ Mục tiêu hoạt động
Để chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên, Ngân hàng Trung ương
phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động. Đây là chỉ tiêu được Ngân hàng Trung

11
ương lựa chọn để sao cho khi Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ điều
tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian.
Tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động là: phải mang tính định lượng, có
thể đo lường được; phải hết sức nhạy cảm với sự biến động của chính sách tiền
tệ và phải tác động đến mục tiêu trung gian.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm: Dự trữ của các ngân hàng thương mại và

lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Trong đó, dự trữ của các
ngân hàng thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, còn lãi suất
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất
thị trường, từ đó tác động vào lượng tiền cung ứng.

3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các bộ phận mà NHTW can sử
dụng nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu
thông và lãi suất, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ có thể chia thành hai loại chính
là: công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
a/ Công cụ trực tiếp
Đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông.
Được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều
tiết chặt chẽ là hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín
dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.

12
Hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và
đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng, do đó đẩy
lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM.
b/ Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính
sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các
mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bao gồm:
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài
khoản không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất
định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó.

Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung
ứng là sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất
cả các ngân hàng. Đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng
tiền cung ứng. Nhưng chính điều này cũng làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở
nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định cho
hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho sự điều chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay đổi dự trữ bắt buộc (đặc biệt
trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực tiếp đến lượng vốn
khả dụng của hệ thống ngân hàng. Do đó, nó thường được sử dụng kết hợp với
các công cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng của các ngân hàng khi
cần thiết.


13
Chính sách tái chiết khấu
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quyết định và điều kiện cho vay của
NHTM. Đó là hạn mức chiết khấu, lãi suất chiết khấu và các điều kiện tái chiết
khấu. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn
hạn, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Các NHTM đi vay NHTW
nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả dụng và hình thành nên bộ phận dự
trữ đi vay.
Chính sách tái chiết khấu có khả năng điều tiết một cách linh loạt các mục
tiêu trung gian. Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của nó lại căn cứ vào mức
độ phụ thuộc về vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế nó là công cụ kém chủ
động. Để khắc phục nhược điểm này, người ta sử dụng kết hợp với công cụ dự
trữ bắt buộc.

Nghiệp vụ thị trường mở
Vì phạm vi của bài viết này chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về nghiệp vụ thị
trường mở. Do đó, công cụ này sẽ được đề cập rõ ràng và đầy đủ hơn ở phần

sau.
c/ Công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Tháng 12-1997, Bộ luật Ngân hàng bao gồm Luật Ngân hàng Nhà nước và
Luật các tổ chức tín dụng ra đời thì hệ thống ngân hàng được tiếp tục đổi mới và
bước vào thời kỳ đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó
chính sách tiền tệ mới bắt đầu được xây dựng và từng bước được thực hiện, đi
dần từ thấp đến cao phù hợp với điều kiện thực tế.

14
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các công cụ của chính sách
tiền tệ bao gồm:
- Dự trữ bắt buộc
- Lãi suất
- Tái cấp vốn
- Nghiệp vụ thị trường mở
- Tỷ giá

15

II. KHÁI QUÁT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

1. Khái niệm và cơ chế tác động
Khái niệm: Để xem xét khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở, trước hết ta
cần phải hiểu thị trường mở là gì? Hiểu theo nghĩa rộng, thị trường mở (open
market) là một khái niệm chỉ 5 phạm trù: Thị trường cấp một (sơ cấp), thị
trường cấp hai (thứ cấp), thị trường vốn, thị trường tiền tệ và các thị trường tài
chính khác. Còn hiểu theo nghĩa hẹp, thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó
người ta thực hiện việc mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Vậy nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán các chứng từ có giá
ngắn hạn hoặc trung-dài hạn nhưng thời hạn còn lại là ngắn hạn của NHTW trên

thị trường mở.

Cơ chế tác động: Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác
động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
Về mặt lượng: là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của
NHTM. Khi NHTW mua (hoặc bán) các chứng từ có giá trên thị trường mở, nó
sẽ làm tăng giảm (hoặc tăng) ngay lập tức dự trữ của các NHTM dù người bán
là NHTM hay khách hàng của nó. Vì thế làm ảnh hưởng đến khối lượng tín
dụng, dẫn đến khả năng tạo tiền gửi thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống
ngân hàng giảm xuống (hoặc tăng lên). Từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng.

16
Về mặt giá: Khi vốn khả dụng của từng ngân hàng cá nhân giảm (tăng) do
tác động của hoạt động thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng giảm (tăng), trong điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi
suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng tăng lên (giảm xuống). Thông qua các hoạt
động arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất của
các công cụ thị trường mở, và lãi suất thị trường trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ
hội với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt vốn tăng
lên (giảm xuống), làm giảm (tăng) nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của xã hội, và do
đó tác động vào cung cầu vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng.

2. Các loại nghiệp vụ thị trường mở
a/ Giao dịch các giấy tờ có giá
Giao dịch mua bán hẳn: Là việc mà NHTW mua bán chứng khoán với
người giao dịch (mua bán một lần) và chuyển hẳn quyền sở hữu hoặc quyền đòi
nợ cho người giao dịch và ngược lại.
Nghiệp vụ này được áp dụng khi NHTW cần can thiệp vào cung cầu của thị

trường. Mỗi lần NHTW mua, nó làm giá chứng khoán lên cơn sốt và lãi suất hạ
rất nhanh. Ngược lại, mỗi lần NHTW bán ra, giá chứng khoán lại tụt dốc, lãi
suất lại vọt lên.
Giao dịch mua bán hẳn thường diễn ra dài hạn.


17
Giao dịch mua bán có kỳ hạn: Là việc thực hiện mua bán các giấy tờ có
giá theo kỳ hạn. Khi đó NHTW phải ký hai hợp đồng: Hợp đồng mua và hợp
đồng bán có kỳ hạn hoặc hợp đồng bán và hợp đồng mua có kỳ hạn.
Nếu mua bán theo thoả thuận RPs (hoặc theo hợp đồng mua lại): NHTW
ký một hợp đồng mua chứng khoán với người giao dịch và người giao dịch sẽ
đồng ý mua lạ chứng khoán đó vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là
những hợp đồng mua bán có thời hạn rất ngắn. Do đó lượng tiền xuất ra hầu như
không ảnh hưởng lớn đến lượng tiền cung ứng. Có thể nói, một cách gián tiếp
hoạt động này làm cho chu chuyển hàng hoá trên thị trường tài chính tiền tệ trở
nên linh hoạt và thuận lợi hơn.
Nếu mua bán theo thoả thuận chuyển dịch tương đương hoặc mua bán lại
dự trữ (còn gọi là theo hợp đồng mua lại đảo ngược): NHTW bán chứng khoán
cho người giao dịch và người giao dịch đồng ý bán lại chứng khoán cho NHTW
vào thời điểm xác định trong tương lai. Nói cách khác, đây là một hợp đồng vay
tiền. Các ngân hàng trung gian hoặc công ty kinh doanh chứng khoán cho
NHTW vay ngắn hạn chính dự trữ của họ tại tài khoản ở NHTW. Điều này sẽ
tác động đến dự trữ của họ và do đó làm tăng, giảm khối lượng tín dụng cấp
phát vào nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
b/ Giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này, khi tham gia giao dịch, NHTW đồng thời ký hai hợp
đồng:
- Ký một hợp đồng mua hoặc bán ngoại tệ với tỷ giá giao ngay.
- Ký một hợp đồng bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá có kỳ hạn.


18
Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + điểm Swap
c/ Giao dịch hoán đổi các chứng khoán khi đến hạn
Loại hình này chủ yếu áp dụng ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Người
nắm giữ các chứng khoán, khi đến hạn thì có thể thực hiện nghiệp vụ chuyển
đổi chứng khoán cũ thành chứng khoán mới trên thị trường mở. Khi chuyển đổi,
mệnh giá chứng khoán có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn chứng khoán mới.
Nếu giá chứng khoán cũ nhỏ hơn chứng khoán mới thì tức là NHTW thực
hiện tăng lượng tiền cung ứng. Ngược lại nếu giá chứng khoán cũ lớn hơn
chứng khoán mới thì tức là NHTW muốn hấp thụ khả năng thanh toán.
Ngoài các loại hình nghiệp vụ trên, NHTW còn có thể thực hiện một số
nghiệp vụ khác như: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW hoặc huy động tiền gửi
với lãi suất cố định.

3. Phương thức giao dịch trên thị trường mở
a/ Giao dịch song phương: NHTW giao dịch trực tiếp với người mua bán thực
hiện mua bán hẳn chứng từ có giá.
b/ Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng khoán,
qua các đại lý chứng khoán mà NHTW tiếp cận với người mua hoặc người bán
để tiến hành mua hoặc bán.
c/ Giao dịch qua đấu thầu: Có hai loại đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu
thầu lãi suất.

19
Đấu thầu khối lượng: Theo phương thức này, NHTW sẽ đưa ra khối
lượng, lãi suất, loại giấy tờ có giá và thời hạn của nó. Người giao dịch sẽ thực
hiện đặt thầu về khối lượng với mức lãi suất mà NHTW đã công bố.
Trường hợp khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW
can thiệp thì không cần phân bổ thầu. Ngược lại, nếu khối lượng đặt thầu lớn

hơn tổng khối lượng mà NHTW can thiệp thì phải tiến hành phân bổ thầu.
Tỉ lệ phân bổ thầu là tỉ lệ giữa tổng khối lượng mà NHTW can thiệp với
tổng khối lượng đặt thầu của các ngân hàng tham gia. Sau đó tính khối lượng
trúng thầu của từng ngân hàng thành viên bằng tích của tỷ lệ phân bổ thầu với
số lượng đặt thầu của từng ngân hàng.

Đấu thầu lãi suất: Theo phương thức này, các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi
suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. NHTW sẽ quan
tâm đến lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất cao đến lãi suất thấp đến khi nào
đạt được lượng tiền mà NHTW cần cung ứng vào lưu thông.
Có hai phương thức đấu thầu lãi suất: đầu thầu lãi suất thống nhất (kiểu Hà
Lan) là tất cả khối lượng trúng thầu tính thống nhất theo mức lãi suất trúng thầu
và đấu thầu lãi suất riêng lẻ (kiểu Mỹ) là từng mức khối lượng trúng thầu sẽ
tương ứng với mức lãi suất dự thầu.
Nguyên tắc xét thầu là: Các đơn vị dự thầu được sắp xếp theo thứ tự lãi
suất dự thầu giảm dần trong trường hợp NHTW mua chứng khoán (cung ứng
tiền) và lãi suất dự thầu tăng dần trong trường hợp NHTW bán chứng khoán
(hấp thụ khả năng thanh toán).

20
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất nếu NHTW mua các giấy tờ
có giá hoặc lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTW bán các giấy tờ có giá mà tại
mức lãi suất đó, NHTW đạt được khối lượng tiền cần can thiệp.
Trường hợp khối lượng đặt mua lớn hơn mức cần can thiệp thì phải tiến
hành phân bổ thầu. Sau khi xác định được lượng trúng thầu của từng ngân hàng
thì sẽ xác định giá mua và bán giữa NHTW và đối tác theo công thức:







Trong đó: Gd là giá bán các chứng từ có giá
Gt là giá trị của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh
toán.
T là thời hạn còn lại của giấy tờ có giá
L là lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (tính theo
%/năm)
Nếu thực hiện mua bán có kỳ hạn thì giá mua bán lại giữa NHTW với các
tổ chức tín dụng được xác định theo công thức:


100365
1
x
LxT
Gt
Gd


)
100
365
1(
x
LxTb
GdxGv 

21
Trong đó: Gv là giá mua lại

Tb là thời hạn mua bán

4. Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu điểm. Với các nước phát
triển đã từng sử dụng các công cụ để điều chỉnh cơ cấu tiền tệ và tạo ra những
biến động trong cung ứng tiền thì nghiệp vụ thị trường mở luôn là công cụ tuyệt
vời nhất, có vai trò quyết định quan trọng nhất trong số các công cụ được sử
dụng.
Trước hết, nghiệp vụ thị trường mở tự nó có thể kiểm soát được toàn bộ
khối lượng mà nó thực hiện. Trong khi đó, hành vi kiểm soát này không thể có
được với các công cụ khác. Chẳng hạn công cụ dự trữ bắt buộc, tự nó không
phản ánh được toàn bộ dự trữ thực của hệ thống ngân hàng và do đó, khó kiểm
soát được lượng tiền cung ứng. Hay như với nghiệp vụ chiết khấu, NHTW có
thể sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết hoặc khuyến khích các NHTM vay
vốn nhưng trên thực tế, nó không thể trực tiếp kiểm soát được khối lượng chiết
khấu.
Thứ hai: khi sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể chủ
động can thiệp về khối lượng nhiều hay ít tuỳ ý, thời gian tuỳ thuộc vào thời
gian mà NHTW muốn điều chỉnh lượng tiền cung ứng. NHTW có thể quyết
định mua bán chủng loại giấy tờ có giá nào nhằm đạt được mục tiêu của chính
sách tiền tệ. Đồng thời cũng có thể điều chỉnh cơ số tiền tệ tuỳ theo mức độ
mong muốn thông qua việc mua bán một khối lượng giấy tờ có giá lớn hay nhỏ.

22
Thứ ba: công cụ nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao, bất kỳ lúc
nào sự can thiệp của NHTW đều tác động đến lượng tiền Trung ương sau đó
ảnh hưởng đến lãi suất. Với công cụ này, khi có một sai lầm xảy ra trong lúc
tiến hành nghiệp vụ, NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ
đó. Nếu NHTW thấy việc cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị
trường mở quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành

nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.
Thứ tư: nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ đầy quyền lực. Một khi,
NHTW quyết định mua hoặc bán thì nó tìm mọi cách định giá và đặt ra các điều
kiện để thu hút các NHTM tham gia tích cực đáp ứng được yêu cầu của NHTW.
Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không
gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.
Với những lợi thế hơn hẳn các công cụ khác nên sau khi ra đời, nghiệp vụ
thị trường mở đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước phát triển. Tuy
nhiên, nghiệp vụ thị trường mở còn có một số hạn chế. Nhược điểm lớn nhất
của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có
một thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá
ngắn hạn phải phong phú và đa dạng. Không những thế, NHTW còn phải có khả
năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua bán, có như
vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung
ứng. Ngoài ra, khi NHTW mua bán làm tác động đến lượng tiền Trung ương, từ
đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Vì vậy, để
tránh ảnh hưởng này, NHTW phải có các giải pháp xử lý phù hợp. Điều này đòi

23
hỏi NHTW phải rất nhạy cảm và linh hoạt trong việc phối hợp các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ.

24
CHƯƠNG II:

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM


I-/ VÀI NÉT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM


1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations, viết tắt là OMO) được
NHTW các quốc gia sử dụng như một công cụ gián tiếp trong việc điều hành
chính sách tiền tệ, thông qua việc làm thay đổi vốn khả dụng (hay nói cách khác
là dự trữ) của hệ thống ngân hàng. Từ đó gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cơ
bản theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở đã ra đời từ
những năm đầu của thế kỷ hai mươi ở Mỹ và một số nước Châu Âu. Ngày nay,
nó được NHTW ở hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ
chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở mới bắt đầu được vận hành vào ngày
12-7-2000. Đây là một bước chuyển khá quan trọng trong việc đổi mới quá trình
điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam. Mặc dù mới được đưa vào
hoạt động nhưng thực tế ngay trong Luật NHNN Việt Nam ra đời tháng 12/1997
đã có khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở như sau: "Nghiệp vụ thị trường mở
là nghiệp vụ mà NHNN thực hiện việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ

25
tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị
trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia".

2. Điều kiện về thị trường tài chính
Thị trường tài chính của nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về
chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật.
a/ Thị trường tín phiếu kho bạc
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 6/1995, thị trường đấu thầu tín phiếu kho
bạc chính thức được khai trương và đi vào hoạt động. Từ đó đến cuối tháng
9/2000, Ban đấu thầu liên bộ NHNN - Bộ Tài chính đã tổ chức 39 đợt đấu thầu
tín phiếu kho bạc (thời hạn < 1 năm). Tổng khối lượng tín phiếu là 4156,1 tỷ
đồng.

Số lượng thành viên tham gia vào thị trường ngày càng phát triển. Tính đến
nay, tổng số thành viên đã tăng lên gần 50 thành viên: trong đó có 5 NHTM
quốc doanh, 20 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, một số chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng Trung ương… Việc các loại
hình tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính tham gia vào thị trường đấu thầu tín
phiếu kho bạc qua NHNN ngày một đông đảo chứng tỏ các nhà đầu tư và phát
hành đã dần dần tìm được điểm cân bằng về lợi ích và thị trường này ngày càng
trở nên hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu kho bạc vẫn còn những hạn chế. Thị
trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã được thành lập và hoạt động
tương đối ổn định nhưng nội dung của nó còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, cải

26
tiến. Số thành viên tham gia vào thị trường đấu thầu vẫn chỉ là các NHTM quốc
doanh và các công ty bảo hiểm Nhà nước quen thuộc. Các thành viên khác đã có
đăng ký nhưng rất ít tham gia. Trong từng phiên đấu thầu còn quy định một loại
kỳ hạn (364 ngày) và áp dụng cơ chế lãi suất trần. Cơ chế này, một mặt chưa
được phát huy đầy đủ hiệu lực của pháp luật hiện hành (Luật NHNN Việt Nam
cho phép tổ chức đấu thầu các loại tín phiếu và tín phiếu kho bạc), mặt khác
chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn của các công trình đầu tư bằng nguồn
vốn của Ngân sách Nhà nước nhưng tạm thời Ngân sách Nhà nước chưa bố trí
được.
b/ Thị trường trái phiếu Chính phủ
Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Chính phủ (không thông qua kênh phát hành tiền của NHTW nữa). Đến 1994,
khi trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát
hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu Chính phủ mới tương đối được mở rộng.
Trước năm 1995, trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại
các chi nhánh kho bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ: 17 tỷ đồng (trong cả giai
đoạn 1991-1995). Từ tháng 6/1995, bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái

phiếu đã dồi dào hơn. Theo Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ được ban
hành kèm theo NĐ 01/2000/NĐ - CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ thì trái
phiếu Chính phủ được ban hành qua các kênh như: đấu thầu qua NHNN; phát
hành thông qua thị trường chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước,
đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành (đối với trái phiếu kho bạc và tín phiếu
đầu tư).

27
Như vậy, trong nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường, trái phiếu
Chính phủ đã mở ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh tế với số lượng
huy động hàng năm khá lớn, thời gian phát hành tương đối liên tục, đối tượng
huy động chủ yếu là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đã góp phần tích cực vào
việc giảm bớt sức ép của tiền mặt trong lưu thông, hạn chế những tác động tiêu
cực của lạm phát. Trái phiếu Chính phủ ngày càng khẳng định được ưu thế của
nó trong thị trường tài chính. Với hình thức đa dạng, phương thức phát hành
phong phú và không ngừng được cải tiến, độ an toàn cao, phạm vi và đối tượng
huy động rộng, cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, nó đã đảm bảo được quyền
lợi và thị hiếu của nhà đầu tư cũng như nhu cầu sử dụng vốn của Ngân sách Nhà
nước, đồng thời có khả năng đáp ứng được các nhu cầu giao dịch, tín dụng trên
thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc phát hành trái phiếu Chính phủ
còn bộc lộ một số hạn chế. Khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành hàng
năm nhìn chung còn nhỏ bé (chỉ ở mức trên dưới 2,0%/GDP), chưa khai thác
thoả đáng nguồn vốn nhàn rỗi còn khá tiềm tàng trong nền kinh tế. Thời hạn trái
phiếu còn ngắn. Trái phiếu Chính phủ được nắm giữ chủ yếu bởi các NHTM
quốc doanh và một số ít NHTM cổ phần chủ yếu là để giải quyết lượng vốn tồn
đọng. Do đó, khả năng phát triển thị trường thứ cấp là rất yếu. Hiện nay, khối
lượng trái phiếu Chính phủ đang còn giá trị lưu hành chỉ đạt khoảng 4000 tỷ
đồng.
c/ Thị trường liên Ngân hàng

×