Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA ANH - CHỊ - EM TRONG GIA ĐÌNH Ê - ĐÊ QUA SỬ THI DƯỚI TIẾP CẬN LIÊN NGÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.24 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>QUA SỬ THI DƯỚI TIẾP CẬN LIÊN NGÀNH</b>

<b> TS. Lê Thị Quỳnh Hảo*<small>1</small>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>

Hiện nay, việc nghiên cứu sử thi để tìm hiểu văn hóa dân tộc đã trở thành xu hướng. Các cơng trình có giá trị như: Văn hóa mẫu hệ M’nông (2007) do Trương Bi

<i>chủ biên; Người Ê - đê một xã hội mẫu quyền, (Anne De Hautecloque - Howe, 1962), NXB Văn hóa Dân tộc, Dịch và xuất bản năm 2004; Cao nguyên miền Thượng (Cửu Long Giang, Toan Ánh, 1974), Sài Gòn; Đại cương về các dân tộc Ê - đê, Mnông ở </i>

Đắk Lắk (Bế Viết Đẳng - Chu Thái Sơn - Vũ Thị Hồng - Vũ Đình Lợi, 1982), NXB

<i>Khoa học Xã hội, Hà Nội; Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên (Nguyễn Tấn Đắc, 2005), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Rừng người Thượng vùng rừng núi cao </i>

<i>nguyên miền Trung Việt Nam (Henri Maitre, 2008), NXB Tri thức, Hà Nội; Người Ba-Na ở Kon Tum (Les Bahnar de Kon Tum) (Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi, </i>

<i>2011), NXB Tri thức, Hà Nội, Văn hóa mẫu hệ Mnơng và tác động của nó đến sự phát </i>

<i>triển kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông hiện nay (Phan Thị Hồng, 2012), Báo cáo khoa </i>

học Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Nơng… Điểm lại một số cơng trình nghiên cứu có thể thấy rằng dù các cơng trình nghiên cứu về Tây Nguyên đều đã chú trọng tìm hiểu về văn hóa các dân tộc ở Tây Nguyên nhưng việc nghiên cứu văn hóa ứng xử trong gia đình trong sử thi vẫn chưa được quan tâm. Đó chính là lý do chúng tơi lựa chọn vấn đề tìm hiểu văn hóa ứng xử của anh - chị - em trong gia đình người Ê - đê qua cứ liệu sử thi cho bài nghiên cứu của mình.

Tây Nguyên là một khu vực có nhiều tộc người theo chế độ mẫu hệ, thể hiện qua vai trò và vị thế của người phụ nữ trong hơn nhân, trong gia đình, dịng tộc..., trong thời đại hiện nay, mặc dù những biểu hiện của chế độ mẫu hệ đã có nhiều thay đổi do giao lưu và tiếp biến văn hố với các cộng đồng dân tộc khác. Tìm hiểu văn hóa ứng xử gia đình truyền thống qua sử thi chúng ta có thể hiểu hơn mối quan hệ giữa anh - chị - em trong gia đình người Ê - đê, một dân tộc theo chế độ mẫu hệ ở khu vực Tây Nguyên. Từ đó rút ra đặc trưng về văn hóa ứng xử giữa anh - chị - em trong gia

<small>* Trường Đại học Đà Lạt.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

đình của một xã hội theo chế độ mẫu hệ thể hiện như thế nào trong truyền thống (qua sử thi) và văn hóa ứng xử ấy có những thay đổi như thế nào trong xã hội ngày nay?.

<i>Về tư liệu sử thi chúng tôi tập trung khảo sát những tác phẩm trong bộ sách Kho </i>

<i>tàng sử thi Tây Nguyên, như: Hbia Mlin, Mdrǒng Dăm, Sum Blum, Xing Nhã, Khing Jú và Đam Săn (1988, Nguyễn Văn Hoàn chủ biên). Đây là những tác phẩm sử thi đề </i>

cập rất rõ nét mối quan hệ ứng xử giữa anh - chị - em trong gia đình người Ê - đê trong xã hội truyền thống.

<b>2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>

Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu khu vực học theo cách tiếp cận liên ngành, trong đó tập trung sử dụng các phương pháp liên ngành dân tộc học, liên ngành văn hóa học, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích định tính - định lượng, phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu, khảo cứu, phân tích, tìm hiểu văn hóa ứng xử giữa anh - chị - em người Ê - đê qua sử thi. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để chỉ ra mối quan hệ ứng xử giữa anh - chị - em trong gia đình Ê - đê trong sử thi, và phương pháp so sánh được sử dụng để thấy được sự giống và khác nhau trong mối quan hệ giữa anh - chị - em trong sử thi Ê - đê với cuộc sống ngày nay.

Ngồi việc khảo sát, tìm hiểu trên các tư liệu Sử thi, Luật tục đã được xuất bản nói trên, người viết thực hiện điền dã thực tế, phỏng vấn sâu, điều tra xã hội học tại 02 xã Nam Ka và Ea R’Bin (huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk) - là 02 địa bàn có đơng người Ê - đê sinh sống (trong khoảng thời gian từ tháng 7/2017 đến tháng 5/2023) để tìm hiểu mối quan hệ giữa anh - chị - em trong gia đình Ê - đê hiện nay.

<b>3. VÀI NÉT VỀ TỘC NGƯỜI Ê - ĐÊ VÀ SỬ THI Ê - ĐÊ</b>

Ê - đê (Ra đê, Rhađê, Anăk Êđê, Đê, Êđê Êgar, Mọi, Thượng hay Rơđê...) là tên gọi của một cộng đồng tộc người khá thống nhất. Ê - đê là một trong năm tộc người thuộc nhóm Malayo-Polynesian (ngữ hệ Nam Đảo), sinh sống chủ yếu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Phú Yên, Khánh Hòa. Ê - đê là tộc người có khuynh hướng ngày càng thống nhất hơn về ý thức tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Tuy vậy, vẫn có những mặt khác biệt về thổ âm, những khác biệt về sinh hoạt văn hóa theo từng vùng cư trú, hình thành nên những nhóm địa phương khác nhau như: Ađham, Arul, Blô, Bih, Kpă, Kdrao, K’rung, Dliê, Dong Măk, Dong Hay, Êpan, Hwing… (Chu Thái Sơn, 1993,

<i>tr. 179). Theo Niên giám thống kê năm 2009, người Ê - đê ở Việt Nam có dân số </i>

331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố, trong đó cư trú tập trung nhiều nhất tại tỉnh Đắk Lắk (chiếm 90,1% dân số toàn dân tộc Ê - đê), xếp thứ 11 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Theo nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật thì “tộc danh này được giải thích là thuật ngữ chỉ những người sống trong rừng tre (Ête hay Ê - đê) (Phan Đăng Nhật, 2001, tr. 94). Tuy vậy, cũng có cách giải thích khác khi cho rằng tộc danh đó bắt nguồn từ tên vị thần tối cao của người Ê - đê là Aê Điê. Sự xuất hiện và cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc Ê - đê tại Tây Nguyên cùng với những nét sinh hoạt độc đáo đã tạo nên nền văn hóa đặc trưng ở khu vực này. Văn hóa Ê - đê được xem là một trong những nền văn hóa tiêu biểu cho văn hóa vùng Tây Nguyên.

<i>Sử thi Ê - đê (khan) có thể coi là đỉnh cao của văn học dân gian Ê - đê và là nét đặc </i>

thù về di sản văn hóa dân tộc, chứa đựng nhiều tri thức, kinh nghiệm mà đồng bào truyền lại cho thế hệ sau. Đó chính là những câu chuyện dài về thuở hồng hoang của con người, về chiến công của các anh hùng dân tộc trong việc khai sáng ra trời đất và mn lồi, trong việc đấu tranh chống lại và chiến thắng cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đúng, cái tốt, bảo vệ dân làng. Qua sử thi, con cháu tộc người Ê - đê biết phân biệt đúng sai, biết quan hệ ứng xử như thế nào cho phù hợp với văn hóa dân tộc trong gia đình và trong cộng

<i>đồng… Một số sử thi tiêu biểu của người Ê - đê là Đăm San, Xing Nhã Khing Jú… Sử </i>

thi Ê - đê là hình thức văn nghệ tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật dân gian khác nhau, được thể hiện và trình diễn bằng cách thức đặc biệt. Sử thi vừa là văn học (truyền thuyết, cổ tích, anh hùng ca), vừa là nghệ thuật biểu diễn (kể chuyện biểu cảm, diễn xướng, dân ca và dân vũ). Cũng như luật tục, sử thi là giá trị văn hoá đặc thù của người Ê - đê, thể hiện rõ nét cuộc sống tộc người qua văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa ứng xử…

<b>4. VĂN HĨA ỨNG XỬ CỦA ANH - CHỊ - EM TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI Ê - ĐÊ QUA SỬ THI VÀ ĐỜI SỐNG HIỆN NAY </b>

Trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ anh - chị - em chiếm một vị trí khá đặc biệt. Mối quan hệ này vừa thể hiện quan hệ tôn ti, trên dưới (anh - chị - em), vừa thể hiện quan hệ bình đẳng (vì đều là con cái trong gia đình) nên mối quan hệ này phong phú và nhiều màu sắc hơn các mối quan hệ khác...

Nói đến quan hệ ứng xử giữa anh - chị - em trong gia đình là nói đến cách giao tiếp giữa những người cùng thế hệ trong gia đình. Đây là mối quan hệ quan trọng trong gia đình các dân tộc Việt Nam nói chung, dân tộc Ê - đê nói riêng. Giữa anh - chị - em phải có cách ứng xử đúng mực, phải phép, đúng tôn ti trật tự, phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Trong xã hội mẫu hệ nói chung, mối quan hệ giữa anh em trai và chị em gái là mối quan hệ vô cùng quan trọng thể hiện sự tin tưởng, mật thiết, gắn bó. Nói đến sự khăng

<i>khít, gắn bó giữa anh - chị - em, người Ê - đê có câu ayǒng adei sa tian (anh em một </i>

bụng) (dẫn theo ông Y N. K., dân tộc Ê - đê, sinh năm 1962, Phó Bí thư Đảng ủy xã Nam Ka, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk). Đối với tộc người theo chế độ mẫu hệ, mối quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

hệ này không những được xác lập trên cơ sở tình cảm ruột thịt mà cịn được xác lập trên cơ sở về vị trí, vai trị khác nhau của họ trong quan hệ dòng họ và trong quan hệ gia đình bên mẹ. Theo đó, nếu một người đàn ơng có chị em gái thì anh ta mới có tiếng nói đặc biệt quan trọng của một ơng cậu trong gia đình (dẫn theo ông Y N. K., dân tộc Ê - đê, sinh năm 1962, Phó Bí thư Đảng ủy xã Nam Ka, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk).

Trong xã hội mẫu hệ, người đàn ông Ê - đê là người đại diện cho dòng họ của mẹ, tham gia giải quyết tất cả những vấn đề quan trọng trong gia đình của mẹ, của chị em gái như: làm nhà, cưới hỏi, sinh con, tang ma, mua bán tài sản đất đai, chuyển đến nơi ở mới... Vì thế những người anh em trai có vị trí đặc biệt quan trọng, được thành viên trong gia đình kính trọng và ý kiến của họ nhiều khi mang tính quyết định vì họ là

<i>đại diện cho cả một gia đình lớn, chứ khơng phải là đại diện cho cá nhân họ: “Người </i>

<i>đàn ông Ê - đê tuy lấy vợ, làm rể ở nhà vợ nhưng lại đóng vai trị trụ cột của nhà mẹ đẻ ra mình (săh kpeh kmeh klan). Trách nhiệm của người đàn ông là lo bảo vệ giống nòi, tức lo lấy chồng cho chị em gái của mình. Khi chị em gái của anh ta đã có chồng thì trách nhiệm của anh ta là phải lo dàn xếp không cho anh em rể làm tàn lụi dòng giống của nhà mẹ đẻ ra mình” (Nguyễn Duy Thiệu, 1994, tr. 24). Vì thế, anh em trai </i>

thường đóng vai trị là người thay mặt gia đình bên gái đi hỏi chồng cho các cháu gái con của chị em gái của họ. Điều này cũng thể hiện rõ nét trong sử thi Ê - đê, người anh

<i>Suh Sah đã mang lễ vật tới nhà trai để hỏi chồng cho em gái: “Cây chà gạc đến để hỏi </i>

<i>em trai của em, trẻ nhỏ đến để hỏi thử Mdrǒng Dăm xem chàng có lấy em gái chúng tơi là Hbia Sun không?” (Mdrǒng Dăm, 2006, tr. 728). Hay nàng Hbia Ling Pang xinh </i>

<i>đẹp trong sử thi Sum Blum khi phải lòng Sum Blum, nàng đã thưa chuyện với cha mẹ </i>

và anh trai là Prông Mưng H’Dâng để nhờ họ đến hỏi cưới Sum Blum cho nàng. Thay mặt đại gia đình, anh trai nàng đã đến nhà trai tìm hiểu, đặt vấn đề hỏi cưới Sum Blum

<i>cho em gái của mình. Điều này thể hiện trách nhiệm to lớn của một dam dei (anh em </i>

trai) trong việc hệ trọng của cuộc đời một người con gái.

Qua sử thi cho thấy, việc Hbia Ling Pang cậy nhờ anh trai đến hỏi chồng cho mình thể hiện một sự tin tưởng, gắn bó khăng khít giữa anh trai và em gái trong gia

<i>đình: “Em muốn như thế này thưa anh! Chiếc vòng đen em nhờ anh đi hỏi, dây mây </i>

<i>em nhờ anh đi buộc, đi dặm hỏi trao vòng trao nhẫn, em nhờ anh đi tìm người coi rẫy giùm cho, anh Prơng Mưng H’Dâng ạ!” (Sum Blum, 2007, tr. 705). Vai trò của anh, </i>

<i>em trai đối với hôn nhân chị, em gái cũng thể hiện rõ nét qua sử thi Hbia Mlin: “Em để </i>

<i>cho anh mang vòng đồng như qua sơng thì có đị ngang, để anh đi dạm hỏi, để chàng thành chồng của em” (Hbia Mlin, 2007, tr. 574).</i>

Sự tin tưởng đối với anh em trai và vai trò của người anh em trai thể hiện ngay ở

<i>đoạn mở đầu tác phẩm Đam Săn, Hơ Nhị đã nhờ anh trai đi hỏi chồng cho mình, vai </i>

trị quan trọng của người anh thể hiện qua câu nói: “Anh em cứ ưng đâu là chúng tôi sẽ

<i>thuận đấy... Chúng tôi nào dám cãi lời anh em” (Đam Săn, 1988, tr. 137). Hơ Âng đã </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

có lời khun nhủ, dặn dị rất chu đáo đối với em trai (Đam Săn) khi gả chàng cho Hơ Nhị, Hơ Bhị: “Ơ em, ơ em, em hãy lo nuôi vợ em cho được vui sướng, lo nuôi con em cho được nên người. Em chớ có lêu lổng, nay đơng mai tây. Sáng em phải lên rẫy, trưa ở bẫy, sương mai vừa ráo đã phải đi đó đi đơm. Em hãy ở với vợ em cho đến răng long đầu bạc. Đã cầm cần rượu thì cầm cho đến rượu nhạt ché phai. Đã chơi chiêng thì chơi

<i>cho đến khi tay dùi bị chặn lại mới thôi, em nhé!” (Đam Săn, 1988, tr. 155 - 156)... </i>

Khi tức giận vợ, Đam Săn cũng tìm về với chị em của chàng: “Chàng nhảy phóc lên

<i>nhà, với tay lấy các cây chà gạc của chàng, rồi bỏ ra về nhà chị em của chàng” (Đam </i>

<i>Săn, 1988, tr. 157). Ở sử thi Đam Săn, chúng ta thấy vai trò quan trọng của người chị, </i>

em gái trong gia đình. Rõ ràng quyền uy nữ giới đã đóng một vai trị chủ đạo, lời nói của họ đơi khi thành mệnh lệnh đối với các thành viên trong gia đình.

<i>Trong sử thi Sum Blum, nàng Băng Mla sau khi gặp chàng Kje Hril ở rừng, đã </i>

cùng nhau tình tự và chung sống ba ngày đêm, có thai về tự thú với cha mẹ, với anh trai Suh Sah, xin cha mẹ và anh trai trừng phạt. Đây là lời tự thú chuyện mình trót có thai của Băng Mla với anh trai, thể hiện sự thân thiết, gắn kết, tin tưởng, có thể tâm sự những chuyện thầm kín nhất của nàng, đồng thời thấy rõ uy quyền của một người anh

<i>trai đối với cuộc đời một cô gái: “Ơ anh Suh Sah, ngọn lửa biết lơi kéo, người khéo nói </i>

<i>làm rung động tấm lịng kẻ giàu ơi!... Em đây cái điên lôi đi, cái dại đã nhập làm hại cả thân thể của chính mình... Chúng em đã ở bên nhau ba ngày, ba đêm trong rừng... Vì thế em cái bụng đã to, cái vú đã đen, con để bế để bồng sắp có rồi. Anh hãy thắt em bằng lát, anh hãy xiết cổ em bằng khăn, anh hãy ném em vào ngôi mộ cổ đi” (Sum Blum, 2007, tr. 664 - 665). Và đáp lại lời em gái, Suh Sah đã trả lời bằng một tấm lòng </i>

<i>thương yêu, bao dung, che chở của anh trai: “Này, em gái Băng Mla ơi! Làm sao ta nỡ </i>

<i>thắt cổ em bằng lát, thắt cổ em bằng khăn được, làm sao ta nỡ ném em vào ngôi mộ cổ được ơ em gái!” (Sum Blum, 2007, tr. 665).</i>

Trong truyền thống gia đình người Ê - đê, khi chị em gái sinh nở thì người anh trai

<i>cũng có trách nhiệm đi tìm bà đỡ, trong sử thi Mdrǒng Dăm, khi Hbia Knhí cảm thấy mình </i>

sắp đến lúc sinh con, người cơ cậy nhờ đi tìm bà đỡ khơng phải ai khác mà chính là anh

<i>trai của mình: “Anh Prong Mưng Hdăng ơi, em có chuyện động trời, thần linh ám, em bị </i>

<i>đau cả người nên em cho người đi mời, đi gọi anh đêm hôm, anh ạ!... Em muốn nhờ anh </i>

<i><b>đi gọi người đỡ đẻ, đi mời thầy bói cho em” (Mdrǒng Dăm, 2006, tr. 628). Cũng vậy, trong </b></i>

<i>khan Khing Jú, khi kỳ sinh nở đến, mẹ H’Ing đã nhờ anh trai cơ đi tìm người đỡ đẻ cho cô: “Mẹ nhờ con đi gọi bà đỡ ở bn xa, ơng thấy bói lá cây êpang đến để xem em con đang </i>

<i>nặng bụng đau đầu. Đau khắp cả da thịt, đau trong ruột trong gan” (Khing Jú, 2006, tr. </i>

<i>865). Tương tự, trong sử thi Sum Blum, khi Băng Mla trở dạ đẻ, quằn quại đau đớn, anh </i>

trai của nàng đã cấp tốc 3 lần phi ngựa đi hỏi 3 thầy bói, 3 bà đỡ khác nhau, Băng Mla

<i>mới an toàn hạ sinh con trai: “Ta đến để mời bà đỡ, để gọi bà bói, ta đến để xem bói cho </i>

<i>em gái ta Băng Mla đang đau trong thịt, đang đau trong bụng, đau kiểu lạ lùng giống như </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>đàn bà muốn sinh con...” (Sum Blum, 2007, tr. 665). Và với trách nhiệm của mình, người </i>

anh trong cả ba sử thi đã vất vả chạy khắp nơi để tìm cho được bà đỡ mát tay giúp em gái mình sinh con được thuận lợi. Bên cạnh đó, người anh trai cịn có trách nhiệm tìm và đặt

<i>tên thích hợp cho cháu của mình, thể hiện qua lời nói của Prong Mưng Hdăng: “Hỡi cháu </i>

<i>gái của ta ơi! Cháu thích đặt tên cháu là gì? Cháu có thích cái tên Hbia Abao khơng? Sắc đẹp của Hbia Abao khắp vùng này không ai sánh bằng...” (Khing Jú, 2006, tr. 906). Trong </i>

<i>sử thi Sum Blum, nhiệm vụ này của người anh trai cũng thể hiện rõ: “Ơ đứa cháu trai nhỏ </i>

<i>bé, tên của cháu là Sum Blum nhé! Nếu đúng cái tên cháu là Sum Blum thì cháu hãy liếm ăn sương này phải no, cháu hãy cắn cái xiên cho đứt, để sau này cháu đủ sức cầm khiên đao của các bậc cậu, bác để lại và cháu hãy nín khóc đi” (Sum Blum, 2007, tr. 687 - 688).</i>

Anh, em trai còn là đại diện cho gia đình, dịng họ của mẹ để thương lượng, hịa giải nếu có sự tranh chấp, kiện tụng, liên quan đến mẹ và chị em gái của họ. Điều này cũng thể

<i>hiện khá rõ trong sử thi Ê - đê: “Nếu Hbia Mlin em gái tôi, biếng nấu cơm canh, lười dệt áo </i>

<i>khố cho chàng, chúng tôi hứa đền bằng con heo nâng. Tốn rượu ché tuk, ché bô anh cứ để </i>

<i><b>chúng tôi đền...” (Hbia Mlin, 2007, tr. 576). Đây là lời nói đầy trách nhiệm và tình thương </b></i>

<i>của anh trai Hbia Sun với em gái mình: “Ơ em Hbia Sun, nếu em chặt đuôi voi nhà người </i>

<i>ta, em mượn của cải của ai, em dan díu với chồng nhà giàu, chuyện của em dù là chuyện động trời thì cứ để các anh lo liệu cho dù khơng cịn một cái cuốc, một cây chà gạc cầm tay cũng được em gái ạ!” (Mdrǒng Dăm, 2006, tr. 724). Người anh trai cũng là người thay </i>

<i>mặt gia đình khuyên răn em gái khi họ lấy chồng: “Em ở lại nhà chồng, nhớ mang củi cho </i>

<i>hết một cây, nếu chồng bảo em đi gùi nước thì em gùi hết cả suối, để nhà chồng em được nhờ. Đừng để họ cười cha mẹ không dạy bảo” (Mdrǒng Dăm, 2006, tr. 743). Với vai trò, </i>

trách nhiệm của một người anh trai, Prông Mưng H’Dâng đã luôn lo lắng cho tương lai của em gái, đã góp ý, khuyên răn em gái nên suy nghĩ kỹ và phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng vì

<i>lập gia đình là chuyện hệ trọng trong cuộc đời một con người: “Ơ em gái Hbia Ling Pang </i>

<i>ơi! Tại sao em vội tìm người coi rẫy sớm vậy? Em hãy còn như tre non, măng già mới lột vỏ, cây chuối cây mía vẫn chưa tróc vỏ. Em cịn bé đang được bế trong tay cha, đang được bế trên đùi mẹ đấy, ơ em gái của ta. Em chưa biết hái bông, chưa biết xe chỉ, chưa biết lo cơm, nấu canh cho chồng em đâu” (Sum Blum, 2007, tr. 706). Nhưng khi em gái đã quyết </i>

thì chàng đã rất trách nhiệm gọi mời tất cả anh chị em, cậu bác dòng họ đông đủ để bàn bạc việc dạm hỏi chồng cho Hbia Ling Pang. Khi được sự thống nhất của dịng họ, chàng

<i>đã đến gia đình Sum Blum để tìm hiểu, hỏi cưới Sum Blum cho em gái của mình: “Hỡi </i>

<i>hai bác cha mẹ Sum Blum ơi! Cháu xin hỏi các bác có cho con trai của các bác là Sum Blum lấy Hbia Ling Pang làm vợ khơng?” (Sum Blum, 2007, tr. 717). Chính vì vậy, người </i>

Ê - đê quan niệm rằng anh em trai có vai trị rất quan trọng, hướng dẫn, chỉ bảo mọi điều trong cuộc sống của một người phụ nữ. Mối quan hệ của người đàn ông với mẹ và chị em gái vẫn rất khăng khít, gắn bó kể cả khi họ đã kết hơn và sống tại nhà vợ (Dẫn theo ông Y L. K., dân tộc Ê - đê, sinh năm 1966, Chủ tịch HĐND xã Nam Ka, huyện Lắk, tỉnh Đắk

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Lắk). Mỗi lần về thăm gia đình của mẹ, người đàn ơng ln được đón tiếp thân tình và tiếp đãi như một vị khách quý: Khi tức giận vợ, Đam Săn cũng tìm về với chị em của chàng:

<i>“Chàng nhảy phóc lên nhà, với tay lấy các cây chà gạc của chàng, rồi bỏ ra về nhà chị em </i>

<i>của chàng” (Đam Săn, 1988, tr. 157). </i>

Và ngược lại, để tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của các anh em trai của mình, theo tục lệ, người phụ nữ Ê - đê thường cố gắng tổ chức lễ cúng sức khỏe lần lượt cho các anh, em trai của mình. Tuy có vị trí quan trọng như vậy, nhưng người đàn ơng Ê - đê sẽ khơng

<i>có cơ hội thực thi vai trị quan trọng của mình (dam dei) nếu họ khơng có chị em gái ruột và chị em gái họ, bởi vì vai trị quan trọng của một dam dei là vai trò được đặt trong mối </i>

quan hệ với chị em gái và vị trí của họ chỉ được xác lập khi có chị em gái (Dẫn theo ông Y L. K., dân tộc Ê - đê, sinh năm 1966, Chủ tịch HĐND xã Nam Ka, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk). Do đó, có thể nhận thấy rằng, người phụ nữ đã đóng một vai trị quan trọng đối với việc xác định thân phận, vị trí của các anh em trai của mình trong gia đình cũng như trong cộng đồng. Đồng thời, người phụ nữ lại giữ vai trò là người chủ, là người giữ tay hịm chìa khóa của gia đình và dịng họ. Ngồi ta, người phụ nữ cịn được hưởng

<i>tài sản của anh, em trai nếu chẳng may họ chết đi mà khơng có người nối nịi: “Của hồi </i>

<i>môn (wăng kgã) khi anh ta mang về nhà vợ như khố, áo, chà gạc, nỏ, bát đĩa quý… đều được nhà vợ ghi lại để nhỡ khi anh ta chết sớm họ mẹ anh ta khơng cịn người đàn ông nào thay anh ta, làm chồng của vợ anh ta, thì họ nhà vợ phải trả lại các thứ đó cho mẹ hoặc chị em gái của anh ta” (Nguyễn Duy Thiệu, 1994, tr. 24).</i>

Việc chế độ mẫu hệ chi phối vai trò người phụ nữ trong các buôn làng ở Tây Nguyên là nguyên nhân chính của việc xây dựng nên những nữ nhân vật có khả năng trợ lực cho người anh hùng. Những nhân vật đó khơng chỉ là người u, là vợ mà con là những cô em gái. Những nhân vật này xuất hiện khơng nhiều, nhưng có vai trị quan

<i>trọng. Khi Đam Săn khơng chịu lấy Hơ Nhị, Hơ Bhị, cô em gái của chàng đã “tức thì </i>

<i>xắn váy đến đầu gối, xắn tay áo đến cùi chỏ... rồi đi thộc vào chỗ Đam Săn nằm, véo tai trái Đam Săn cho đến đỏ tía lên, véo tai phải Đam Săn cho đến đỏ tía lên, phát cho Đam Săn một phát vào lưng làm chàng phát khóc” (Đam Săn, 1988, tr. 146). Đó </i>

là những cơ em tình nghĩa, sáng suốt, nhìn nhận được mọi mặt của vấn đề và có lời khuyên tốt nhất dành cho anh. Hơ Âng đã có lời khuyên nhủ, dặn dò rất chu đáo đối

<i>với em trai (Đam Săn) khi gả chàng cho Hơ Nhị, Hơ Bhị: “Ơ em, ơ em, em hãy lo nuôi </i>

<i>vợ em cho được vui sướng, lo nuôi con em cho được nên người. Em chớ có lêu lổng, nay đơng mai tây. Sáng em phải lên rẫy, trưa ở bẫy, sương mai vừa ráo đã phải đi đó đi đơm. Em hãy ở với vợ em cho đến răng long đầu bạc” (Đam Săn, 1988, tr. 155 - </i>

<i>156)... Ở sử thi Đam Săn, chúng ta thấy vai trò quan trọng của người chị, em gái trong </i>

việc định hướng cho cuộc sống của người anh, em trai.

<i>Trong truyền thống, mối quan hệ giữa các anh em trai (dam dei) và chị em gái trong </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

gia đình người Ê - đê cũng rất đặc biệt. Người Ê - đê cho rằng mọi hành vi sai trái của người đàn ông xuất phát từ việc anh ta khơng được quan tâm, giáo dục chu đáo bởi dịng họ của anh ta nên dòng họ của anh ta, chị em anh ta phải chịu trách nhiệm, phải nộp phạt, cịn gia đình bên vợ hồn tồn không liên quan và không chịu trách nhiệm về các hành vi sai trái của chàng rể. Chính vì thế, người phụ nữ Ê - đê có trách nhiệm khá nặng nề về hành vi, thái độ đối với anh em trai của mình, khi họ cịn độc thân cũng như khi họ đã có gia đình. Chẳng hạn như nếu người đàn ông phạm các tội như ngoại tình, đánh nhau, cãi lộn với cha mẹ vợ hay với hàng xóm thì chị em gái của anh ta phải nộp phạt, bởi vì theo quan niệm của người Ê - đê thì những hành vi sai trái trên là do sự giáo dục không nghiêm khắc của gia đình, dịng họ anh ta (Dẫn theo ông Y W. N., sinh năm 1947, Già làng buôn M’Liêng 1, xã Đắk Liêng, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk). Ngồi ra, khi người đàn ơng về già và vợ của họ không may chết trước thì họ chỉ cịn một cách là quay về sống dựa vào gia đình của chị em gái của mình. Cuộc sống ngày nay đã khác, nếu người đàn ông phạm lỗi thì vợ chồng anh ta phải tự nộp phạt chứ khơng cịn là trách nhiệm của chị em anh ta. Tuy vậy, những

<i>chị em gái vẫn phải có trách nhiệm ni dưỡng và chăm sóc dam dei khi về già, góa vợ và </i>

thậm chí khi họ mất thì con gái của họ phải tiếp tục đảm nhiệm công việc này thay cho mẹ của mình. Điều này thể hiện rõ nét sự đùm bọc, yêu thương chăm sóc lẫn nhau của những

<i>người trong dòng họ Ê - đê. Cuộc sống thay đổi, mặc dù vai trò của dam dei vẫn rất quan </i>

trọng mang tính quyết định trong những vấn đề liên quan đến tài sản, đất đai, quyền lợi trong dịng họ nhưng ở gia đình riêng của mình, chị em gái của anh ta cũng không nhất

<i>thiết phải hỏi ý kiến dam dei khi mua bán tài sản trong gia đình (Dẫn theo ơng Y W. N., </i>

sinh năm 1947, Già làng buôn M’Liêng 1, xã Đắk Liêng, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk). Sống trong xã hội mẫu hệ nên vấn đề thừa kế tài sản được luật tục Ê - đê nêu rõ,

<i>điều này khẳng định vị trí quan trọng của người chị cả trong gia đình: “Dù là cái chén </i>

<i>sứ con, cái bát đồng nhỏ hay những đồ lặt vặt, cũng không được cả gan đem bán đi để ăn mà phải mãi mãi cất giữ. Từ những cái gùi Gia Rai (có nắp đậy) đến những cái sọt, cái túi, cái nải và những đồ lặt vặt, người chị cả đại diện cho người mẹ là người có nhiệm vụ chăm nom, giữ gìn. Tất cả những cái bát vỏ bầu, cái thúng đựng tro, cái hòn để mài, các cái trã để luộc rau, người chị cả là người phải bảo quản. Các ché túk đỏ, các ché êbak M’nơng, các vịng đeo tay, các chén bát đẹp bằng bạc bằng vàng là những của cải quý giá do tổ tiên xưa kia giàu có để lại, chính người chị cả là người phải giữ gìn” (Ngơ Đức Thịnh et al. 1996, tr. 187 - 188). </i>

Theo chế độ mẫu hệ nên dịng mẹ chi phối cuộc sống của người đàn ơng Ê - đê, thậm chí khi anh ta chết đi thì những vật dụng hàng ngày của anh ta cũng phải đem trả cho mẹ hoặc chị em gái của anh ta - những người có quyền đại diện gia đình quản lý tài sản:

<i>“Người đã chết thì cái niết, cái chà gạc được tự do, cùng với vòng đeo tay, chuỗi hạt cườm </i>

<i>đeo cổ, cùng với các chén bát để ăn cơm, cái dùi, cái búa, cái rìu, con dao găm, cái hái và </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>đôi dép da, một cái niết nhỏ, một cái chà gạc nhỏ, một cái ná nhỏ với ống đựng tên, phải được đem trả đầy đủ cho mẹ người chết hoặc người thừa kế gái của bà ta” (Luật tục Ê - đê, Điều 182)... ; “Các vật lớn hay nhỏ, quý hay không quý, các nồi hoặc chén bát... đều do người chị cả trông coi và giao lại” (Luật tục Ê - đê, Điều 181). Theo quy định của luật </i>

tục, vấn đề kế thừa, quản lý tài sản trong dịng họ và gia đình là thuộc quyền của những người chị em gái trong gia đình. Trong một gia đình có nhiều anh - chị - em thì người chị cả sẽ quản lý toàn bộ tài sản. Khi các chị em gái lập gia đình thì được chia một phần, được chia ít hay nhiều là do cơng lao của người con gái đó khi cịn ở với gia đình. Quyền quản lý tài sản thuộc về người chị cả nhưng quyền thừa kế tài sản lại là người con gái út bởi đó là người lập gia đình sau cùng và có cơng chăm sóc bố mẹ già (Dẫn theo bà H B. K., dân tộc Ê - đê, sinh năm 1976, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Ear’Bin, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk). Vũ Đình Lợi trong bài nghiên cứu của mình đã nhận định về vị thế của người con gái

<i>út trong gia đình: “Trong đại gia đình ở các tộc người mẫu hệ địa vị của phụ nữ hơn hẳn </i>

<i>nam giới, phụ nữ giữ vai trò chủ gia đình (pơpang hay khoa sang theo cách gọi của người Ê - đê), và chức vụ chủ gia đình sẽ chỉ truyền lại cho cô con gái út (minorat) khi pôsang qua đời hay đã quá già yếu không thể qn xuyến nổi các cơng việc của đại gia đình” (Vũ </i>

Đình Lợi, 1994, tr. 29). Người con trai trong gia đình khơng được thừa hưởng tài sản của cha mẹ. Khi cịn độc thân, nếu họ có tài sản gì cũng phải giao cho mẹ và chị em gái của mình cất giữ, chứ khơng được cất làm của riêng. Luật tục Ê - đê cũng đề cập đến vấn đề

<i>này: “Nếu anh ta có dù chỉ một cái nhẫn, dù chỉ một cắc bạc, một chuỗi cườm, một vòng </i>

<i>đồng đeo tay, anh ta cũng phải đưa cho mẹ cha, đưa cho chị/em. Không đưa là anh ta có tội” (Ngơ Đức Thịnh et al. 2012, tr. 375). </i>

Những thành viên nam cùng họ trong đại gia đình mẫu hệ tuy khơng phải là thành viên cố định nhưng địa vị và uy tín của họ lại rất lớn, kể cả khi họ đã về nhà vợ ở dịng họ khác. Tiếng nói của họ đóng vai trị quan trọng trong mọi quyết định trọng đại của gia đình. Khi có việc gì hệ trọng, người phụ nữ đều hỏi ý kiến của người chồng hoặc anh, em trai của họ. Tuy vậy, sống trong chế độ mẫu hệ, nên người nam giới trong gia đình lại khơng có quyền sở hữu và thừa kế tài sản. Người chị cả và người em gái út sẽ quản lý và thừa kế tài sản trong gia đình Ê - đê khi bố mẹ mất đi. Tuy vậy việc phân chia vẫn dựa trên tinh thần nhường nhịn, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chị em gái, kể cả sau này giúp đỡ nhau trong việc xây dựng gia đình. Mối quan hệ giữa các chị, em gái trong gia đình thường rất thân thiết. Các chị em gái ngay từ khi còn nhỏ đã biểu lộ sự tôn trọng cô em gái út bởi người con gái út là người duy nhất, là người thừa kế chức vị chủ gia đình trong tương lai. Khi bà mẹ mất hoặc quá già, không quán xuyến được nổi cơng việc sản xuất, gia đình thì chức vị chủ nhà được truyền lại cho cô em út. Nếu cơ con gái út cịn nhỏ dại thì người chị cả sẽ thay em quản lý gia đình. Khi cô em gái út lớn lên, người chị cả sẽ trao lại quyền chủ gia đình cho em (Theo ông Y T. P. T (SN 1942) - Già làng Buôn K’Te 1, xã Đắk Nuê, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk).

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Có thể nói, mối quan hệ giữa anh em trai, chị em gái trong gia đình Ê - đê rất

<i>thân thiết, gắn bó, tin tưởng. Vai trò của dam dei (anh, em trai của vợ) rất quan trọng. </i>

Những vấn đề nào hai vợ chồng cảm thấy không thể giải quyết với nhau thì quyền quyết định thuộc về ơng cậu. Mặc dù trên thực tế thành viên nam này không phải là chủ nhà nhưng những ý kiến, những quyết định của họ luôn được đề cao. Người đàn ông Ê - đê là người đại diện cho dòng họ mẹ, tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng trong gia đình của mẹ, của chị em gái mình. Tuy sống trong gia đình bên vợ, nhưng tiếng nói, ý kiến của họ nhiều khi lại mang tính quyết định trong những cơng việc quan trọng của gia đình mẹ mình. Tiếng nói của họ quan trọng, thậm chí quyết định việc hỏi cưới chồng cho chị em gái, con gái của chị em gái họ. Họ còn là người đại diện cho gia đình, dịng họ của mẹ để thương lượng, hịa giải nếu có xảy ra tranh chấp, kiện tụng liên quan đến mẹ hay chị em gái.

Đối với người Ê - đê, mối quan hệ anh - chị - em cùng mẹ mang một tính chất đặc biệt. Nếu một người khơng có anh - chị - em ruột, người này sẽ coi các con của chị hoặc em của mẹ sống chung một nhà là anh em ruột. Trong gia đình Ê - đê, con gái là người có trách nhiệm sống với cha mẹ suốt đời và có bổn phận chính chăm sóc cho họ khi về già. Còn con trai chỉ sống với cha mẹ trong một khoảng thời gian nhất định khi còn độc thân, đến lúc trưởng thành, kết hơn thì lại sống với gia đình vợ và cuộc sống của họ gắn liền với gia đình vợ nhiều hơn với gia đình mình. Có thể thấy rằng, trong xã hội mẫu hệ truyền thống của người Ê - đê mối quan hệ giữa chị em gái và anh em trai trong gia đình được coi là một trong số các mối quan hệ quan trọng, mà qua mối quan hệ này có thể thấy được đầy đủ vai trò, trách nhiệm khác nhau của người phụ nữ và người đàn ơng trong gia đình, dòng họ, xã hội Ê - đê ở Tây Nguyên nói chung, ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk nói riêng.

Cuộc sống hiện nay đã biến đổi sâu sắc, trong thời đại hội nhập, đời sống văn hóa, tinh thần qua giao lưu, tiếp xúc cũng có nhiều thay đổi. Quy mơ gia đình cũng khác trước rất nhiều. Đại gia đình đã dần được thay thế bằng gia đình hạt nhân. Gia đình Ê - đê hiện nay cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Mỗi gia đình có số lượng anh chị em ruột ít hơn. Cuộc sống thay đổi, khiến các mối quan hệ giữa các thành viên cũng có nhiều thay đổi. Tuy vậy, dù là anh chị em ruột hay anh chị em ni, thì người Ê - đê đều giáo dục con cái cách ứng xử đoàn kết, thân ái, hòa thuận, thương yêu, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chia sẻ trách nhiệm chung trong việc phụng dưỡng, chăm sóc ơng, bà, cha, mẹ, việc chăm lo cho đại gia đình, dịng tộc. Người con trong gia đình Ê - đê ln có thái độ tơn trọng đối với anh, chị, bao dung đối với các em, giữ gìn sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, bảo ban nhau trong học tập, trong cuộc sống, chia sẻ những điều hay lẽ phải, hỗ trợ nhau lúc khó khăn, đồn kết, đùm bọc lẫn nhau để gia đình cùng phát triển.

</div>

×