Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

QUAN HỆ XÃ HỘI VỚI HÀNH VI TÌM KIẾM CÁC DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI DÂN TẠI BỆNH VIỆN CÔNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 14 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

QUAN HỆ XÃ HỘI VỚI HÀNH VI TÌM KIẾM CÁC DỊCH VỤ CHĂM SĨC SỨC KHỎE CỦA NGUỜI DÂN

<b> TẠI BỆNH VIỆN CÔNG HIỆN NAY </b>

<small>ĐẶNG KIM KHÁNH LY*</small>

<i><b>Tóm tắt: Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe (CSSK) cơng, liệu quan hệ xã hội có </b></i>

<i>mối liên hệ gì với hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của người dân tại bệnh viện hiện nay? Kết quả nghiên cứu tại một bệnh viện công ở Hà Nội cho thấy khoảng 1/4 số bệnh nhân (hoặc người nhà) trong mẫu khảo sát đã sử dụng “quan hệ thân quen” khi tiếp cận dịch vụ tại bệnh viện công để thu được những lợi ích nhất định. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là hành vi sử dụng mối quan hệ này đang tạo ra bất bình đẳng trong quá trình tiếp cận hệ thống CSSK của người dân tại bệnh viện cơng hiện nay. </i>

<i><b>Từ khóa: chăm sóc sức khỏe, hành vi tìm kiếm sức khỏe, quan hệ thân quen, bệnh </b></i>

viện công.

<i>Nhận bài:10/12/2017; Gửi phản biện: 10/1/2018; Duyệt đăng: 14/2/2018 </i>

<b>1. Dẫn nhập </b>

Ở Việt Nam, hệ thống CSSK đang có những bước tiến bộ nhanh chóng, song vẫn tồn tại khoảng cách ngày càng lớn giữa các nhóm xã hội về khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, CSSK. Sự quá tải của các bệnh viện tuyến trung ương trong những năm gần đây đã làm tăng áp lực trong công tác chăm sóc, điều trị, trong khi cơ chế thị trường lại có ảnh hưởng đến đạo đức của đội ngũ y bác sĩ và nhân viên y tế ở một số bệnh viện hiện nay (Đặng Kim Khánh Ly, 2016). Điều này dẫn đến sự khác biệt về hành vi tìm kiếm các dịch vụ CSSK tại bệnh viện của những nhóm xã hội khác nhau. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên hẹ giữa các yếu tố tác động đến sức khỏe con người như điều kiẹ n vật chất, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng như nhận thức và hành vi CSSK của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Nhưng đặc biệt, trong gần một thập kỷ qua, một số nghiên cứu trên thế giới đã phát hiện ra sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội nói chung tới việc giảm tỷ lệ tử vong trong y tế. Có ý kiến cho rằng quan hệ xã hội có thể đóng vai trị trung gian trong mối quan hệ giữa đặc điểm nhân khẩu xã hội của cá nhân với vấn đề sức khỏe và CSSK của các cá

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Ở Việt Nam, dư luận xã hội ngày càng có nhiều ý kiến đa chiều về các bác sĩ và nhân viên y tế trong bệnh viện, đặc biệt là ở các bệnh viện công, cùng với hàng loạt các vấn đề nảy sinh trong ngành y tế như vấn đề giá thuốc, viện phí, trình độ chun môn, đạo đức ngành y, bảo hiểm y tế, tình trạng bệnh tật gia tăng v.v. (Đặng Kim Khánh Ly, 2016). Vậy trong hệ thống CSSK, liệu quan hệ xã hội có mối liên hệ và ảnh hưởng thế nào đến hành vi tìm kiếm dịch vụ CSSK của người dân tại bệnh viện hiện nay.

Trong khn khổ bài viết, các phân tích sẽ tập trung nhận diện tần suất và mô tả các giai đoạn mà người dân có sử dụng mối “quan hệ thân quen” khi khám chữa bệnh tại bệnh viện, từ đó đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của mối quan hệ thân quen tới quá trình tiếp cận các dịch vụ CSSK của người dân trong môi trường bệnh viện công hiện nay.

Số liệu của bài viết được rút ra từ cuộc khảo sát trường hợp của tác giả tại một bệnh viện công ở Hà Nội vào năm 2015. Đây là một nghiên cứu ẩn danh địa bàn nghiên cứu, với dung lượng mẫu khảo sát định lượng bằng bảng hỏi, bao gồm 335 bệnh nhân (BN) và người nhà bệnh nhân (NN) (gọi chung là nhóm sử dụng dịch vụ) (trong đó, nội trú là 215, ngoại trú là 85 và mới đến khám là 35); 325 bác sĩ, điều dưỡng viên và nhân viên y tế (gọi chung là nhóm cung cấp dịch vụ) tại bệnh viện, kết hợp với 20 phỏng vấn sâu (5 bệnh nhân, 5 NN, 5 bác sĩ và 5 điều dưỡng viên) tại bệnh viện công tuyến trung ương. Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống (với nhóm khách thể là bác sỹ, điều dưỡng viên, nhân viên y tế của bệnh viện) và mẫu ngẫu nhiên thuận tiện (với nhóm khách thể là bệnh nhân và người nhà bệnh nhân).

<b>2. Quan hệ thân quen trong tiếp cận các dịch vụ CSSK tại bệnh viện công </b>

<i><b>2.1. Một số khái niệm </b></i>

<i>Quan hệ thân quen </i>

Quan hệ “thân quen” với người có vị thế trong bộ máy quản lý hành chính hoặc dịch vụ công vốn tồn tại trong các xã hội truyền thống vẫn giữ vai trò nhất định trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi ở Việt Nam hiện nay. Quan hệ này từng được dư luận lan truyền trong dân gian dưới dạng nhiều thành ngữ, ngạn ngữ như: “nhất thân, nhì quen, tam quyền, tứ chế” (thời bao cấp). Theo ngơn ngữ xã hội học thì quan hệ này được xem

<i>như một loại vốn xã hội hay mạng lưới xã hội mà người dân có thể vận dụng để trao đổi </i>

trong mọi hoàn cảnh.

Mạng lưới xã hội được hiểu như là một cấu trúc xã hội giữa các cá nhân, là những phương thức mà người ta liên kết với nhau thông qua những tương đồng xã hội đa dạng từ các mối quan hệ xã giao cho đến mối quan hệ thân tộc. Hoàng Bá Thịnh (2009) cho rằng mạng lu ới xã hội có thể được phân chia thành mạng lu ới xã hội vi mô (quan hệ xã hội trong các nhóm nhỏ) và mạng lu ới xã hội vĩ mơ (quan hệ xã hội trong các nhóm lớn, cộng đồng, xã hội).

Trong quá trình tìm kiếm dịch vụ CSSK, một trong những vai trò cơ bản và quan trọng của mạng lưới xã hội chính là vai trò cung cấp vật chất, vốn chịu ảnh hưởng từ các

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

mối quan hệ tình cảm, và phần lớn sự giúp đỡ đến từ các thành viên trong gia đình. Trong trường hợp này, mạng lưới xã hội thường là những mạng sơ cấp, những người thân trong gia đình giúp đỡ về tiền bạc và vật chất. Vai trò thứ hai là sự giúp đỡ về thông tin. Phần lớn những thông tin được chia sẻ và cung cấp là về phương pháp, cách thức và địa điểm chữa trị. Đối với những người bệnh nặng, những quan hệ xã hội thân quen cịn cung cấp thơng tin về dịch vụ y tế, thường thì sự hiểu biết về các loại hình dịch vụ được thiết lập thơng qua quan hệ quen biết được người dân khá tin tưởng.

<i>Trong quá trình khám chữa bệnh, người Việt Nam lại thường nói “có bệnh thì vái tứ </i>

<i>phương”, tức là người ta sẽ tận dụng mọi cơ hội, mọi quan hệ sẵn có trong mạng lưới xã hội </i>

của mình để tìm kiếm các dịch vụ CSSK. Mạng lưới xã hội trong trường hợp này có thể có vai trò cung cấp vật chất, mà trước hết là từ những người thân trong gia đình (giúp đỡ về tiền bạc, vật chất). Thứ hai là trợ giúp về tinh thần và thông tin, động viên thăm hỏi và chia sẻ thông tin về phương pháp, thầy thuốc, địa điểm chữa trị.

Trong phạm vi bài viết, khái niệm “quan hệ thân quen” được thao tác là mạng lưới xã hội của nhóm bệnh nhân, người nhà bệnh nhân được sử dụng dựa trên yếu tố tình cảm của họ hàng, người thân, bạn bè và quen biết xã giao với nhân viên y tế, bác sỹ tại bệnh viện nhằm kết nối với các dịch vụ CSSK tại bệnh viện mà có thể tn theo hoặc khơng tn theo quy trình quy định trong tiếp cận các dịch vụ tại bệnh viện. Tuy nhiên, trong thực tế, có những mối quan hệ thân quen bắt nguồn trên cơ sở lợi ích kinh tế, nhưng tại nghiên cứu này chưa có cơ hội đo lường khái niệm thân quen dựa trên yếu tố đó.

<i>Chăm sóc sức khỏe </i>

Chăm sóc sức khỏe là việc chăm sóc nhằm duy trì, điều chỉnh và phục hồi khả năng hoạt động bình thường của cơ thể, tạo ra trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần cho con người, là một nhiệm vụ không những của ngành y tế mà còn của mọi ngành, mọi cấp, của toàn xã hội và của bản thân mỗi người dân. Thơng thường, chăm sóc sức khỏe có ba cấp độ. Ở cấp độ thứ nhất - CSSK ban đầu, bao gồm những chăm sóc thiết yếu về sức khỏe cho mọi người dân dựa trên các phương pháp và kỹ thuật thực hành đơn giản, có cơ sở khoa học được chấp nhận về mặt xã hội. CSSK ban đầu được thực hiện ở tuyến cơ sở và tại nhà do các thầy thuốc thực hành đa khoa đảm nhiệm. CSSK ở cấp độ thứ hai đòi hỏi những điều kiện kỹ thuật cao hơn, thực hiện ở tuyến quận/huyện. CSSK ở cấp độ ba dành cho trường hợp bệnh phức tạp, khó khăn, địi hỏi trình độ kỹ thuật cao, được thực hiện trong các cơ sở y tế lớn ở tuyến tỉnh, thành phố, vùng liên tỉnh hoặc trung ương.

<i>Nhìn chung, khái niệm chăm sóc sức khỏe là khái niệm có nội hàm rộng hơn so với </i>

khái niệm hành vi sức khỏe. Nó bao gồm các hoạt động phòng ngừa bệnh tật, tăng cường sức khỏe và chữa trị khi đau ốm (Hoàng Bá Thịnh, 2010).

Thao tác khái niệm chăm sóc sức khỏe vận dụng vào bài viết dừng ở tiếp cận CSSK ở cấp độ ba, tương ứng với việc chữa trị khi đau ốm của người dân tại bệnh viện cơng tuyến trung ương.

<i>Hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Hành vi tìm kiếm dịch vụ CSSK là một trong các chuỗi hành vi của con người trong quá trình thực hiện hoạt động CSSK. Những hành vi này đều hướng đến một động cơ chung của con người là có được sức khỏe tốt nhất trong các hồn cảnh. Nó được thực hiện thơng qua các hoạt động phòng ngừa bệnh tật, tăng cường sức khỏe, tìm kiếm sức khỏe và chữa trị khi ốm đau. Như vậy, khái niệm hành vi tìm kiếm dịch vụ CSSK có nội hàm tương tự với khái niệm hành vi CSSK, nhưng khái niệm này nhấn mạnh cụ thể việc tìm kiếm các dịch vụ y tế trong bệnh viện một cách chính xác, thuận lợi và đạt hiệu quả điều trị cao nhất để người dân có thể tiếp cận nhằm nâng cao hay phục hồi sức khỏe của bản thân hay người nhà của họ.

Một cách khái quát, hành vi tìm kiếm các dịch vụ CSSK là hành vi CSSK bao gồm toàn bộ các cách ứng xử của con người trong q trình tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế nhằm tăng cường, phòng chống và điều trị bệnh tật. Các hành vi tìm kiếm sức khỏe phản ánh sự nhận thức về các giá trị, chuẩn mực về sức khỏe. Tùy thuộc vào quan niệm của con người về sức khỏe, bệnh tật như thế nào thì sẽ có hành vi tìm kiếm các dịch vụ y tế tương ứng

<i><b>(Hoàng Bá Thịnh, 2010; Nguyễn Quý Thanh và cộng sự, 2016: 210). </b></i>

<i><b>2.2. Tần suất người bệnh sử dụng quan hệ thân quen trong tìm kiếm dịch vụ CSSK tại bệnh viện công </b></i>

Theo kết quả khảo sát, trong số 335 BN/NN được hỏi, có 25,4% cho biết họ có những mối quan hệ quen biết với các bác sĩ, điều dưỡng viên hoặc nhân viên y tế trong bệnh viện. Nhóm BN/NN này sẽ có cơ hội sử dụng sự quen biết đó trong quy trình tiếp cận các dịch vụ CSSK. Còn lại 74,6% BN/NN sẽ tiếp cận dịch vụ mà khơng có các cơ hội này. Vậy các BN/NN sử dụng các quan hệ quen biết này như thế nào trong quá trình tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh ở bệnh viện?

<b><small>Bảng 1. Tỷ lệ BN/NN có người quen khác có thể giới thiệu/nhờ gửi tới bác sĩ khám/điều trị </small></b>

<i><small>Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2015. </small></i>

Theo Bảng 1, hơn một nửa (56,1%) bệnh nhân khơng có người quen trung gian để nhờ giới thiệu và cũng khơng có ý định tìm hoặc cho rằng “cứ có tiền là ổn hết”. Chỉ có khoảng 20% BN trong mẫu khảo sát “có và đã nhờ vả rồi” hoặc “có và sẽ nhờ khi cần thiết”. Hơn nữa, tỷ lệ BN/NN cho rằng hiện tại họ chưa có “quan hệ thân quen” nhưng cũng sẽ tìm kiếm nếu việc đó cần thiết và mang lại hiệu quả cao đối với quá trình khám chữa bệnh tại bệnh viện (chiếm tỷ lệ gần 1/5 BN/NN trong mẫu khảo sát). Trong bối cảnh khám chữa bệnh tại bệnh viện công hiện nay, một tỷ lệ rất nhỏ BN/NN có quan hệ quen

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

biết nhưng cho rằng không cần thiết và không nên sử dụng quan hệ thân quen trong tiếp cận dịch vụ tại bệnh viện. Khi phỏng vấn sâu trường hợp nhóm BN tuân thủ quy trình khám chữa bệnh mặc dù có quan hệ thân quen thì một số được xếp vào nhóm bệnh nhân mới đến khám.

<i>Tôi bị đau đầu vừa đến khám chờ từ sáng nay, tơi nghĩ mình cứ xếp hàng đúng theo lượt, ai cũng có người thân chen ngang thì những người khác chờ đến bao giờ. Bản thân tôi cũng có người thân quen bác sĩ ở đây, nhưng tơi cũng khơng thích phiền hà nên khơng nhờ vả và tôi nghĩ cũng không nên. </i>

<i> (Nữ, BN, 39 tuổi) </i>

Theo tuyến điều trị, bệnh nhân ngoại trú là nhóm có mối quan hệ quen biết trong bệnh viện nhiều nhất, với tỷ lệ 28,4%, tiếp đến là nhóm bệnh nhân mới đến đang trong quá trình chờ kết quả khám hoặc vừa tới cấp cứu (17,9%). Nhóm nội trú là nhóm có tỷ lệ mối quan hệ quen biết trong bệnh viện thấp nhất (15,1%) (theo số liệu khảo sát của tác giá năm 2015).

<i>Tôi được bác sĩ chỉ định vào viện nằm trước một ngày trước mổ, nhưng nhờ có quen nên họ cho thuốc về dùng trước, sáng hôm sau vào sớm phẫu thuật. </i>

(Nam, BN, 57 tuổi)

<i>Mình ở xa nên xin nằm viện ln, chứ nhiều bệnh nhân giống mình, họ gần đây họ xin về nhà điều trị, vả lại thấy họ có quen biết điều dưỡng, nên có khi họ nhờ điều dưỡng về điều trị tại nhà cho họ ln thì phải. </i>

(Nữ, BN, 48 tuổi)

<b><small>Biểu đồ 1. BN/NN đánh giá về mức độ thực hiện các hình thức KCB </small></b>

<i><small>Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2015. </small></i>

Bên cạnh đó, khoảng 35,3% số BN/NN được hỏi đã có sự “vận dụng” thường xuyên và thỉnh thoảng những mạng lưới xã hội khi thực hiện quy trình KCB tại bệnh viện. Nó

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

được thể hiện ở việc BN/NN nhờ cậy người thân quen là bác sĩ hay cán bộ quản lý của bệnh viện để tác động (giới thiệu, gửi gắm) tới bác sĩ và điều dưỡng viên đang điều trị cho mình (Biểu đồ 1). Trong khi hầu hết BN/NN thường xuyên tuân thủ đúng quy trình khám chữa bệnh (83%) thì cũng có tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân thường xuyên hay thỉnh thoảng nhờ cậy mối quan hệ quen biết trong khám chữa bệnh tại bệnh viện.

Hiện tượng này vẫn thường xảy ra ở các bệnh viện cơng, nơi thường xun bị q tải, cịn BN và NN thì ln có tâm lý muốn “được việc” và cố gắng tìm đến những sự hỗ trợ thông qua quan hệ quen biết. Hiện tượng này đã trở thành một “văn hóa” khơng chính thức trong tiếp cận dịch vụ KCB hiện nay ở các bệnh viện, cả công và tư. Thơng tin định tính dưới đây cũng minh họa phần nào cho số liệu định lượng nêu trên.

<i>Ở đâu mà quen biết chả hơn hả cơ, có người quen trong bệnh viện mình cũng yên tâm hơn, các khâu khám xét, chụp chiếu nếu có người quen cũng dễ dàng và nhanh hơn, chưa nói nếu có vấn đề gì mình có một chỗ dựa để hỏi thơng tin. </i>

(Nam, BN, 37 tuổi, công chức, đô thị tỉnh khác)

<i>Có người quen biết để nhờ vả trong viện thì bệnh nhân sẽ nhàn hơn, được bác sĩ quan tâm hơn, bác sĩ nắm bắt rõ bệnh tình của bệnh nhân hơn thì sẽ rất tốt chứ. </i>

(Nam, BN, 54 tuổi, nông nghiệp, nông thôn) Như vậy, tỷ lệ người bệnh có sử dụng mối quan hệ quen biết không cao trên tổng số bệnh nhân và người nhà bệnh nhân được khảo sát, và chiếm tỷ lệ cao ở nhóm bệnh nhân ngoại trú. Nhưng dường như khi người bệnh đã có mối quan hệ quen biết thì họ gần như sẽ sử dụng triệt để mối quan hệ này để tiếp cận dịch vụ CSSK tại bệnh viện.

<i><b>2.3. Các giai đoạn người bệnh sử dụng quan hệ thân quen trong tìm kiếm dịch vụ CSSK tại bệnh viện cơng </b></i>

Khi tìm hiểu bệnh nhân thường sử dụng những mối quan hệ quen biết ở bước nào trong quy trình khám chữa bệnh, nghiên cứu thu được kết quả trình bày trong Bảng 2.

<b><small>Bảng 2. Nhận định của bác sĩ, điều dưỡng viên, nhân viên y tế và BN/NN về các giai đoạn người bệnh thường sử dụng mối quan hệ quen biết trong KCB </small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Có thể thấy nhóm BN/NN cùng chung nhận định với bác sĩ, điều dưỡng viên và nhân viên y tế khi cho rằng giai đoạn làm thủ tục khám, nhập viện có tỷ lệ cao nhất (27,5%) và tỷ lệ thấp nhất là giai đoạn mua thuốc (5,1%) (ở nhóm bác sĩ tỷ lệ này cũng cao nhất 47,1% và thấp nhất là 0,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ cao thứ hai theo quan điểm của bệnh nhân là giai đoạn lựa chọn bác sĩ điều trị, phẫu thuật. Thứ ba, 19,1% người bệnh cho rằng còn phụ thuộc nhu cầu của người bệnh và 19,1% cảm thấy khó trả lời và khơng biết. Cịn với nhóm bác sĩ thì giai đoạn xét nghiệm, chụp chiếu (28,9%), thứ tư là giai đoạn lựa chọn bác sĩ khám (21,5%). Lý do là các khâu làm thủ tục khám và xét nghiệm là tốn

<i>nhiều thời gian nhất trong quy trình KCB. </i>

<i>Quen biết để nhờ vả thường là các đối tượng như bệnh nhân đã điều trị nhiều lần. Bệnh của họ thường là mãn tính nên phải thường xuyên liên hệ với bác sĩ điều trị để tư vấn sự tiến triển của bệnh tật. Tuy nhiên, số đông vẫn là người nhà của cán bộ y tế vẫn được ưu ái hơn. Các trường hợp quen biết được ưu tiên trong trong hợp chờ khám bệnh có bệnh nặng cần phải cấp cứu sớm để tránh nguy cơ tử vong và các biến chứng nặng nề sau cấp cứu. Ngồi ra cịn một số đối tượng ưu tiên như trẻ em,... Ngoài các đối tượng trên cịn có người nhà của cán bộ y tế. Họ chiếm số đông, họ được ưu tiên ở các lĩnh vực khám sức khỏe ban đầu, điều trị nội và ngoại trú bệnh viện. Mặc dù thuốc thang hay phác đồ điều trị đều là tối ưu và phù hợp với tất cả các bệnh nhân. </i>

(Nữ, điều dưỡng viên, 29 tuổi)

<i>Về mặt ưu điểm bệnh nhân sẽ được khám bệnh với tâm lý thoải mái hơn các bệnh nhân khác, được ưu tiên vào phòng dịch vụ mặc dù vẫn phải bỏ tiền ra. </i>

(Nữ, điều dưỡng viên, 29 tuổi)

<i>Bệnh nhân quen biết được ưu tiên xếp hàng lấy số và làm thủ tục ban đầu, và chọn bác sĩ khám chữa. </i>

(Nam, điều dưỡng viên, 32 tuổi)

<i>Bệnh nhân có người quen thường được ưu tiên ở các xét nghiệm lâm sàng. </i>

(Nữ, điều dưỡng viên, 33 tuổi) Theo thuyết trao đổi xã hội, mối quan hệ của con người được hình thành bằng cách sử dụng một phân tích chi phí - lợi ích chủ quan và so sánh các lựa chọn thay thế. Cụ thể, lý thuyết trao đổi nhấn mạnh đến việc phân tích hành vi xã hội là kết quả của một quá trình trao đổi lợi ích (Lê Ngọc Hùng, 2011). Vậy những người sử dụng quan hệ xã hội (BN/NN) để tiếp cận dịch vụ, họ chỉ có một mong muốn là được tiếp cận dịch vụ nhanh nhất, tốt nhất. Còn những người hỗ trợ người bệnh tiếp cận dịch vụ (bác sỹ, nhân viên y tế hay bên thứ 3 là người thân quen của BN) chỉ có một hoạt động trao đi đổi lại trong phạm vi họ được có những chi phí ngầm, hoặc họ được cảm giác tôn trọng, hoặc được cảm thấy sự trách nhiệm của mình với những giá trị văn hóa mà xã hội kỳ vọng cho họ. Do đó, trong trường hợp này, phân tích từ phía BN/NN, họ sẽ quyết định sử dụng việc có người quen, điển hình là trong q trình làm thủ tục vì tính khả thi, được chấp nhận sẽ cao hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

mà chi phí, thời gian và cơng sức sẽ ít hơn. Giai đoạn mua thuốc hay lựa chọn phòng bệnh đã đơn giản hơn sau khi xác định đúng bệnh nhờ các bác sĩ có chun mơn. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng các thủ tục hành chính trong bệnh viện công chiếm quá nhiều thời gian, nên tất yếu dẫn đến hiện tượng lạm dụng mối quan hệ thân quen này. Đây cũng là một điều đáng suy nghĩ trong công tác cải cách thủ tục hành chính trong các bệnh viện cơng hiện nay.

<i><b>2.4. Đánh giá của các nhóm xã hội về tác động của quan hệ thân quen với hành vi tìm kiếm dịch vụ CSSK của người bệnh </b></i>

Để thêm phần khách quan và đa chiều hơn trong nhìn nhận về quan điểm của việc sử dụng mối quan hệ thân quen khi KCB, bài viết sẽ phân tích một số đặc điểm mà quan hệ thân quen tác động đến BN thơng qua đánh giá từ hai nhóm người cung cấp dịch vụ và nhóm người sử dụng dịch vụ. Trước hết, từ góc nhìn của những người cung cấp dịch vụ, gần một nửa (43,5%) các bác sĩ và điều dưỡng cho rằng đây là điều bình thường, vì ai cũng có người thân và có lúc cần nhờ cậy. Tiếp đến, 30,6% cho rằng việc này chấp nhận được nhưng chỉ nhờ khi thực sự quan trọng và 20,4% cho rằng đây là điều bình thường vì khơng thường xun và cũng khơng ảnh hưởng đến ai. Chỉ có 2,4% cho rằng không nên và 0,9% cho rằng cần nghiêm cấm. Có thể thấy, các bác sĩ, điều dưỡng dường như đã quá quen thuộc với việc bệnh nhân sử dụng quan hệ quen biết trong môi trường bệnh viện (Bảng 3).

<b><small>Bảng 3. Quan điểm của bác sĩ, điều dưỡng viên và nhân viên y tế về gửi BN quen biết, theo vị trí cơng tác </small></b>

<small>Bình thường vì điều này khơng thường xun và khơng ảnh hưởng </small>

<small>Chấp nhận được, nhưng chỉ nên nhờ khi thật sự quan trọng 19,3 36,3 30,6 </small>

<i><small>Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2015. </small></i>

Rõ ràng là từ góc nhìn của các bác sĩ và điều dưỡng viên, có nhiều quan điểm khác nhau về việc sử dụng quan hệ thân quen để tiếp cận dịch vụ CSSK, nhưng hầu hết đều

<i>cho rằng việc nhờ cậy thông qua quen biết là bình thường và có thể chấp nhận được. Có </i>

63,3% các bác sĩ cho rằng việc nhờ vả mối quan hệ quen biết là chuyện bình thường; 19,1% chấp nhận nhưng “chỉ nên nhờ khi thật sự quan trọng”; 11,0% bác sĩ coi những mối quan hệ như vậy bình thường và khơng có ảnh hưởng. Chỉ có 4,6% cho rằng khơng nên và chỉ có 1,8% cho là nên nghiêm cấm. Giống các bác sĩ, nhiều điều dưỡng viên và

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nhân viên y tế cũng cho đó là chuyện bình thường, nhưng với tỷ lệ thấp hơn. Nhiều nhất, 36,3% cho rằng chấp nhận được, nhưng chỉ nên nhờ khi thực sự quan trọng, tiếp đến là 33,5% coi đó là bình thường vì ai cũng có người thân quen. Thứ ba là 25,1% cho rằng đây là điều bình thường vì khơng thường xuyên và không ảnh hưởng đến bệnh nhân khác. Và chỉ có 1,4% điều dưỡng và kỹ thuật viên cho rằng điều này là không nên và 0,5% cho rằng nên nghiêm cấm.

<b><small>Biểu đồ 2. Thái độ của BN/NN khi một số bệnh nhân khác sử dụng quan hệ quen biết trong khi khám chữa bệnh </small></b>

<i><small>Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2015. </small></i>

Bên cạnh những lợi ích cá nhân mà quan hệ thân quen mang lại, việc sử dụng các quan hệ quen biết này cũng tạo nên những hạn chế trong tiếp cận dịch vụ CSSK đối với các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân khác. Theo đánh giá từ phía nhóm sử dụng dịch vụ, trong số 335 người bệnh và người nhà bệnh nhân tham gia khảo sát, tỷ lệ lớn nhất (41%) cho rằng việc sử dụng các quan hệ quen biết để khám chữa bệnh là điều bình thường và phổ biến ở khắp mọi nơi. Tiếp đến là 30% khơng quan tâm vì khơng thấy có ảnh hưởng gì đến mình. Chỉ có 12% cảm thấy rất khó chịu vì như vậy là khơng cơng bằng với các bệnh nhân khác và chỉ có 7% cảm thấy khó chịu vì ảnh hưởng đến bản thân và nhiều người khác. Có 9% cho rằng chỉ nên nhờ khi bệnh tật thật sự cần kíp. Có vẻ như là phản ứng của đa số BN và NN không thực sự mạnh mẽ. Họ có sự sẻ chia, thơng cảm khi một số bệnh nhân sử dụng mối quan hệ quen biết để gửi gắm bác sĩ khi khám chữa bệnh. Khoảng 1/5 số BN khác có thái độ khơng đồng tình và cho rằng mọi BN cần được tiếp cận dịch vụ bình đẳng như nhau (Biểu đồ 2).

Trong tình hình như vậy, hiện tượng sử dụng quan hệ thân quen trong tiếp cận dịch vụ CSSK tại bệnh viện có ảnh hưởng như thế nào tới các bệnh nhân khác, chúng ta thử xem xét các dữ liệu định tính và định lượng dưới đây từ góc nhìn của nhóm người cung cấp dịch vụ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Trong ngành y của chúng tôi, nên phân biệt rõ việc gửi gắm bệnh nhân vì điều này được chấp nhận trong y khoa, các bác sĩ có thể nhờ đồng nghiệp khám, chẩn đốn thêm cho bệnh nhân của mình khi họ thấy cần thiết vì mục tiêu cải thiện tình trạng của người bệnh, cịn việc nhờ vả quen biết để chen ngang khi không cần thiết lại là hai việc tách bạch nhau. </i>

(Nữ, bác sĩ, 34 tuổi)

<i>Ở môi trường nào mà chả có nhờ vả quen biết, mơi trường này cũng khơng tránh khỏi, nhưng nói thật lịng, dù người bệnh có quen hay khơng quen thì chúng tôi cũng làm hết khả năng chuyên môn để cứu chữa cho người bệnh. </i>

(Nam, bác sĩ, 53 tuổi)

<i>Nếu có mối quan hệ quen biết thì chỉ có lợi thơi. Tại vì như thế này, khi một người bệnh đang có bệnh lý mà có người bác sĩ thân quen để nhờ tư vấn hỏi han mọi vấn đề về sức khỏe của mình thì tốt cho bệnh nhân. Thế cịn về phía bác sĩ thì mình nắm bắt được tình hình của bệnh nhân một cách tốt nhất thì có thể đưa ra được những phác đồ điều trị tốt nhất. </i>

(Nữ, bác sĩ, 48 tuổi)

<i>Thì theo tơi đối với bác sĩ thì việc nhờ vả này khiến họ cảm thấy khó chịu, có tâm lý khơng tốt. Cịn người bệnh được nhờ thì sẽ có thái độ ỷ lại, ln có tư tưởng nhờ cậy, sẽ được ưu ái nhanh hơn người khác mà không nghĩ cảm giác bị chen ngang của bệnh nhân khác. </i>

<i>(Nữ, bác sĩ, 33 tuổi) </i>

<b><small>Bảng 4. Bác sĩ, điều dưỡng viên và nhân viên y tế nhận định về ảnh hưởng của hiện tượng gửi bệnh nhân quen biết </small></b>

<small>Gây tâm lý bức xúc cho BN vì có người chen ngang do quen biết 119 36,6 </small>

<small>Khơng ảnh hưởng gì, vẫn tiến hành khám chữa bình thường 101 31,1 </small>

<i><small>Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2015. </small></i>

Số liệu định lượng và định tính nêu trên đều có kết quả phản ánh tương đồng nhau, hơn 50% bác sĩ, điều dưỡng viên và nhân viên y tế nhận thấy hiện tượng gửi gắm có ảnh hưởng tiêu cực đến những bệnh nhân khơng có quen biết. Trong đó, 36,6% cho rằng hiện tượng này gây tâm lý bức xúc vì có người chen ngang do quen biết. 13,5% cho rằng hiện tượng đó khiến bệnh nhân thấy khơng có bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ và 7,1% cho rằng làm mất thời gian chờ đợi của bệnh nhân khác. Bên cạnh đó, 31,1% ý kiến lại

</div>

×