Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LƯƠNG THỊ THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊN TRONG MỘT SỐ TRẠNG THÁI THẢM
THỰC VẬT THỨ SINH TẠI VÙNG ĐẦU NGUỒN
HỒ THÁC BÀ, TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
THÁI NGUYÊN – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LƯƠNG THỊ THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊNTRONG MỘT SỐ TRẠNG THÁI THẢM
THỰC VẬT THỨ SINHTẠI VÙNG ĐẦU NGUỒN
HỒ THÁC BÀ, TỈNH YÊN BÁI
Chuyên nghành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ NGỌC CÔNG
THÁI NGUYÊN – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa có ai công bố.
TÁC GIẢ
Lƣơng Thị Thanh Huyền
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS. Lê Ngọc Công người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn kĩ sư lâm nghiệp Vương Quốc Đạt – Giám đốc Lâm trường Thác Bà và
các cán bộ, nhân viên phòng kĩ thuật - Lâm trường Thác Bà – Yên Bái đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian tiến hành điều tra, nghiên cứu ngoài thực địa.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên,
Ban chủ nhiệm Khoa Sinh – KTNN và các thầy cô giáo trong khoa đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái; Trường THPT
Thác Bà – Yên Bái đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi yên tâm học tập và công tác.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 10 năm 2009
TÁC GIẢ
Lƣơng Thị Thanh Huyền
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………
1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………
1
2. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………….
2
3. Giới hạn nghiên cứu………………………………………………….
3
Chương 1 - TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU…………
4
1.1 Một số khái niệm có liên quan………………………………………
4
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu………………………………………
6
1.2.1. Trên thế giới……………………………………………………
6
1.2.1.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng…………………………….
6
1.2.1.2. Những nghiên cứu về tái sinh rừng……………………………
8
1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam………………………………….
12
1.2.2.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng
12
1.2.2.2. Những nghiên cứu về tái sinh
15
1.2.2.3. Những nghiên cứu về thảm thực vật rừng ở Yên Bái
18
Chương 2 - NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………
20
2.1. Nội dung nghiên cứu
20
2.1.1. Đặc điểm hệ thực vật và thảm thực vật vùng đầu nguồn hồ Thác Bà
20
2.1.2. Đặc điểm cấu trúc tổ thành và mật độ cây gỗ của hai trạng thái TTV…
20
iv
2.1.3. Một số đặc điểm cấu trúc ngang của hai trạng thái TTV…………
20
2.1.4. Một số đặc điểm cấu trúc đứng của hai trạng thái TTV…………
20
2.1.5. Một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của hai trạng thái TTV………
20
2.1.6. Để xuất một số giải pháp để phục vụ cho công tác bảo tồn tài nguyên
đa dạng sinh học và khả năng phòng hộ đầu nguồn tại khu vực hồ Thác
Bà
20
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
20
2.2.1. Phương pháp luận………………………………………………….
20
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu………………………………………
21
2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu……………………………
24
Chương 3 - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
31
3.1. Điều kiện tự nhiên
31
3.1.1. Vị trí địa lý
31
3.1.2. Địa hình……………………………………………………………
31
3.1.3. Khí hậu - Thuỷ văn ………………………………………………
32
3.1.4. Địa chất và thổ nhưỡng…………………………………………….
32
3.1.5. Thảm thực vật – Cây trồng…………………………………………
33
3.2. Đặc điểm kinh tế xã hội……………………………………………
33
3.2.1. Dân số và lao động………………………………………………
33
3.2.2. Thực trạng phát triển các ngành…………………………………
34
Chương 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU………………………………
40
4.1. Hiện trạng thảm thực vật khu vực hồ Thác Bà………………….
40
4.1.1.Hệ thực vật…………………………………………………………
40
4.1.2. Thảm thực vật……………………………………………………
41
* Trạng thái TTV thứ sinh phục hồi TN sau nương rẫy………………
45
* Trạng thái TTV thứ sinh phục hồi TN sau khai thác kiệt……………
47
4.2. Đặc điểm cấu trúc tổ thành sinh thái và mật độ cây gỗ của hai trạng
thái TTV………………………………………………………….
51
4.2.1. Chỉ số IVI và công thức tổ thành sinh thái trong quần hợp cây gỗ…….
52
4.2.2. Đánh giá sự biến động thành phần loài giữa các nhóm cây……….
60
v
4.2.3. Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học ở hai TTV……………………
62
4.2.4. Đặc điểm dạng sống thực vật……………………………………
63
4.3. Một số đặc điểm cấu trúc ngang của hai trạng thái TTV……….
65
4.3.1. Phân bố loài theo các nhóm tần số xuất hiện …………………….
65
4.3.2. Sự phân bố số loài cây theo cấp đường kính……………………
68
4.3.3. Sự phân bố số cây theo cấp đường kính ………………………….
70
4.4. Một số đặc điểm cấu trúc đứng của hai trạng thái TTV
72
4.4.1. Phân bố số cây theo cấp chiều cao…………………………………
72
4.4.2. Phân bố loài theo cấp chiều cao ………………………………….
74
4.5. Đặc điểm tái sinh tự nhiên trong hai trạng thái TTV……………
76
4.5.1. Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học tầng cây tái sinh………………
77
4.5.2. Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh………………….
78
4.5.3. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao ………………………….
80
4.5.4. Phân bố cây tái sinh theo mặt phẳng nằm ngang………………….
81
4.5.5. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh…………………………….
82
Chương 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………….
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………
88
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
H
vn
Chiều cao vút ngọn
D
1,3
Đường kính thân cây tại vị trí 1,3 m
H
VN
Chiều cao vút ngọn trung bình
D
1,3
Đường kính trung bình
OTC
Ô tiêu chuẩn
ODB
Ô dạng bản
N/ha
Mật độ cây/ha
N%
Tỷ lệ mật độ
G/ha
Tiết diện ngang/ha
G%
% tiết diện ngang
IVI
Chỉ số tổ thành sinh thái tầng cây gỗ
SI
Chỉ số tương đồng về thành phần loài cây
Shannon
Chỉ số đa dạng sinh học
TTV
Thảm thực vật
TN
Tự nhiên
NR
Nương rẫy
KTK
Khai thác kiệt
[…]
Trích dẫn tài liệu
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Nội dung
Trang
3.1
Ký hiệu độ nhiều (độ dầy rậm) thảm tươi
28
4.1
Số lượng và sự phân bố các taxon thực vật tại KVNC
40
4.2
Tổng số loài và loài ưu thế sinh thái ở hai TTV
52
4.3
Kết quả các loài cây gỗ có chỉ số IVI > 5% ở hai TTV
53
4.4
Tổ thành, mật độ tầng cây cao TTV sau NR
54
4.5
Tổ thành, mật độ tầng cây nhỡ TTV sau NR
55
4.6
Tổ thành, mật độ tầng cây cao TTV sau KTK
57
4.7
Tổ thành, mật độ tầng cây nhỡ TTV sau KTK
59
4.8
Chỉ số tương đồng về thành phần loài ở hai TTV
61
4.9
Chỉ số tương đồng về thành phần loài của TTV sau NR
61
4.10
Chỉ số tương đồng về thành phần loài của TTV sau KTK
61
4.11
Kết quả chỉ số đa dạng sinh học ở hai TTV
63
4.12
Dạng sống của thực vật tại khu vựu hồ Thác Bà
64
4.13
Phân bố số loài theo cấp đường kính ở hai TTV
69
4.14
Phân bố số cây theo cấp đường kính ở hai TTV
70
4.15
Phân bố số cây theo cấp chiều cao ở hai TTV
73
4.16
Phân bố số loài theo cấp chiều cao ở hai TTV
75
4.17
Chỉ số đa dạng sinh học tầng cây tái sinh ở hai TTV
77
4.18
Cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh ở hai TTV
78
4.19
Mật độ cây tái sinh theo cấp chiều cao ở hai TTV
80
4.20
Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh ở hai TTV
82
4.21
Phân bố cây theo mặt phẳng nằm ngang ở hai TTV
83
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình
Nội dung
Trang
3.1
Sơ đồ ô tiêu chuẩn cấp I với các ô cấp II và cấp III
23
4.1
Đồ thị đường tổng góp loài trên diện tích của TTV sau NR
45
4.2
Ảnh TTV sau NR đã phục hồi tự nhiên được 20 năm
46
4.3
Đồ thị đường tổng góp loài trên diện tích của TTV sau KTK
48
4.4
Ảnh TTV sau KTK đã phục hồi tự nhiên được 20 năm
49
4.5
Phổ dạng sống của hai kiểu TTV tại khu vực nghiên cứu
65
4.6
Phân bố số loài theo nhóm tần số ở TTV sau NR
66
4.7
Phân bố số loài theo nhóm tần số ở TTV sau KTK
67
4.8
Đồ thị phân bố số loài theo cấp đường kính ở hai TTV
69
4.9
Đồ thị phân bố số cây theo cấp đường kính của hai TTV
71
4.10
Đồ thị phân bố số cây theo cấp chiều cao ở hai TTV
73
4.11
Đồ thị phân bố số loài theo cấp chiều cao ở hai TTV
75
4.12
Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao ở hai TTV
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng có ý nghĩa đặc biệt lớn, không chỉ cung cấp của cải cho nền kinh tế của
đất nước mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ,
cải thiện môi trường và cân bằng sinh thái. Vai trò của rừng là rất to lớn, thế nhưng
trong những năm vừa qua diện tích rừng tự nhiên của chúng ta ngày càng giảm sút
cả về số lượng và chất lượng.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế giời có 11 triệu ha
rừng bị phá huỷ, riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương hàng năm có 1,8 triệu ha
rừng bị phá huỷ, tương đương mỗi ngày mất đi 5000 ha rừng nhiệt đới. Ở Việt
Nam, trong vòng 50 năm qua, diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Năm 1943
độ che phủ của rừng là 43%, đến năm 1993 chỉ còn 26%. Nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến mất rừng là do chiến tranh, khai thác bừa bãi, đốt nương làm rẫy [18].
Từ khi Chính phủ có chỉ thị 286/TTg (02/05/1997) về tăng cường các biện
pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng, cấm khai thác rừng tự nhiên, tốc độ
phục hồi rừng đã trở nên khả quan hơn. Năm 2003 tổng diện tích rừng nước đã là 12
triệu ha, tương đương với và độ che phủ là 36,1%, trong đó rừng tự nhiên có 10
triệu ha và rừng trồng có 2 triệu ha.
Để đạt được kết quả như trên, Chính phủ đã giao quyền sử dụng đất rừng cho
các tổ chức, các cá nhân và hộ gia đình trồng, chăm sóc và quản lý bảo vệ. Những
chính sách này đã góp phần tích cực trong việc làm tăng diện tích rừng, giảm diện
tích đất trống đồi trọc và rừng đã dần phục hồi trở lại. Có được kết quả đó là do
những cơ chế chính sách trên của Chính phủ đã bước đầu tạo được sự chuyển biến
theo hướng xã hội hoá nghề rừng, làm cho rừng có chủ và người dân đã chủ động
tham gia quản lý bảo vệ phát triển rừng.
Việc nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học cho công tác quản lý, bảo vệ, phục
hồi và sử dụng hợp lý rừng tự nhiên là rất cần thiết trong đó nghiên cứu cấu trúc và
tái sinh tự nhiên thảm thực vật rừng là một khâu cơ bản không thể thiếu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Hồ Thác Bà là hồ nước nhân tạo do ngăn dòng sông Chảy năm 1970 để làm
Nhà máy thuỷ điện Thác Bà, nhà máy thuỷ điện đầu tiên ở nước ta. Hồ nằm ở địa
giới hai huyện Yên Bình và Lục Yên của tỉnh Yên Bái, có diện tích mặt nước
khoảng 23.400 ha, có 1.331 đồi đảo lớn nhỏ với thảm thực vật và cảnh quan đa
dạng. Nhưng do tình trạng khai thác và sử dụng bừa bãi rừng phòng hộ đầu nguồn
nên thảm thực vật ở khu vực này đã bị suy thoái nghiêm trọng. Từ đó gây ra hậu
quả làm đất bị xói mòn rửa trôi, gây bồi lắng lòng hồ, hạn chế khả năng chứa
nước Mặt khác, rừng sau khai thác hầu như bị đảo lộn toàn bộ về cấu trúc, quá
trình tái sinh diễn thế theo chiều hướng thoái bộ so với ở tình trạng nguyên sinh
hoặc trước khi khai thác, nhất là ở các lâm phần không được quản lý tốt.
Trước thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu đặc
điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên trong một số trạng thái thảm thực vật thứ sinh
tại vùng đầu nguồn Hồ Thác Bà, tỉnh Yên Bái ” làm cơ sở khoa học cho việc
nghiên cứu về diễn thế và đa dạng sinh học. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
phục hồi rừng phục vụ cho công tác phòng hộ đầu nguồn và bảo tồn tài nguyên đa
dạng sinh học ở địa phương.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Về lý luận
Bổ sung những hiểu biết về đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên của thảm
thực vật thứ sinh phục hồi tự nhiên tại vùng đầu nguồn Hồ Thác Bà, tỉnh Yên Bái
làm góp phần vào việc nghiên cứu về diễn thế và đa dạng sinh học. Từ đó đề xuất
các biện pháp tác động thích hợp nhằm từng bước đưa rừng về trạng thái có cấu trúc
hợp lý, ổn định hơn.
2.2. Về thực tiễn
Trên cơ sở các quy luật cấu trúc và tái sinh tự nhiên đã phát hiện, đề xuất
một số giải pháp nhằm phục hồi rừng phục vụ cho công tác phòng hộ và bảo tồn tài
nguyên đa dạng sinh học tại vùng đầu nguồn Hồ Thác Bà.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
3. Giới hạn nghiên cứu
3.1. Giới hạn về khu vực nghiên cứu
Là xã Xuân Long, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, đây là vùng rừng đầu
nguồn của Hồ Thác Bà.
3.2. Giới hạn về đối tƣợng nghiên cứu
Là hai trạng thái thảm thực vật thứ sinh phục hồi tự nhiên sau nương rẫy và
sau khai thác kiệt tại xã Xuân Long, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Các thảm cây
bụi, cây trồng nông nghiệp, công nghiệp, trang trại, vườn cây ăn quả và rừng trồng
đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.3. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về một số đặc điểm cấu trúc tổ thành sinh thái (tần số xuất hiện,
độ phong phú, độ ưu thế của các loài cây gỗ) để đánh giá vai trò sinh thái của từng
loài cây gỗ trong quần xã cây gỗ rừng; quy luật phân bố số loài, số cây theo cấp
đường kính và cấp chiều cao; xác định tính đa dạng của quần hợp cây gỗ và đặc
điểm tái sinh tự nhiên trong hai trạng thái thảm thực vật rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
1.1.1. Thảm thực vật
Thảm thực vật (Vegetation) là toàn bộ lớp phủ thảm thực vật ở một vùng cụ
thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật trên toàn bộ bề mặt trái đất. Như vậy thảm
thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa
và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm theo như: thảm thực vật cây bụi, thảm thực vật
trên đất cát ven biển, thảm thực vật rừng ngập mặn, thảm thực vật tỉnh Thái
Nguyên, [24]
1.1.2. Tái sinh rừng
Tái sinh (Regeneration) là một thuật ngữ dùng để chỉ khả năng tự tái tạo, hay
tự hồi sinh từ mức độ tế bào đến mức độ mô, cơ quan, cá thể và thậm chí cả một
quần lạc sinh vật trong tự nhiên. Cùng với thuật ngữ này, còn có nhiều thuật ngữ
khác đang được sử dụng rộng rãi hiện nay. Jordan, Peter và Allan (1998) sử dụng
thuật ngữ “ Restoration” để diễn tả sự hoàn trả, sự lặp lại của toàn bộ quần xã sinh
vật giống như nó đã xuất hiện trong tự nhiên. Schereckenbeg, Hadley và Dyer
(1990) sử dụng thuật ngữ: “Rehabitilation” để chỉ sự phục hồi lại bằng biện pháp
quản lý, điều chế rừng đã bị suy thoái
Tái sinh rừng (forestry regeneration) là một thuật ngữ được nhiều nhà khoa
học sử dụng để mô tả sự tái tạo (phục hồi) của lớp cây con dưới tán rừng. Căn cứ
vào nguồn giống, người ta phân chia 3 mức độ tái sinh như sau:
- Tái sinh nhân tạo: nguồn giống do con người tạo ra bằng cách gieo giống
trực tiếp.
- Tái sinh bán nhân tạo nguồn giống được con người tạo ra bằng cách trồng
bổ sung các cây giống, sau đó chính cây giống sẽ là tạo ra nguồn hạt cho quá trình
tái sinh.
- Tái sinh tự nhiên: nguồn hạt (nguồn giống) hoàn toàn tự nhiên. Theo Phùng
Ngọc Lan (1986) [20], tái sinh được coi là một quá trình sinh học mang tính đặc thù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
của hệ sinh thái rừng. Biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế
hệ cây con của những loài cây gỗ ở nơi còn hoàn cảnh rừng. Theo ông vai trò lịch
sử của thế hệ cây con là thay thế thế hệ cây gỗ già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng hiểu
theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng
cây gỗ. Ông cũng khằng định tái sinh rừng có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh
của một hệ sinh thái rừng.
Bàn về vai trò của lớp cây tái sinh, Trần Xuân Thiệp (1995) [38]cho rằng nếu
thành phần loài cây tái sinh giống với thành phần cây đứng thì đó là quá trình thay
thế một thế hệ cây này bằng thế hệ cây khác. Ngược lại, nếu thành phần loài cây tái
sinh khác với thành phần cây đứng thì quá trình diễn thế xảy ra.
Như vậy, tái sinh rừng là một khái niệm chỉ khả năng và quá trình thiết lập
lớp cây con dưới tán rừng. Đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây conđều có
nguồn gốc từ hạt và chồi có sẵn, kể cả trong trường hợp tái sinh nhân tạo thì cây con
cũng phải mọc từ nguồn hạt do con người gieo trước đó. Nó được phân biệt với các
khái niệm khác (như trồng rừng) là sự thiết lập lớp cây con bằng việc trồng cây
giống đã được chuẩn bị trong vườn ươm.Vì đặc trưng đó nên tái sinh là một quá
trình sinh học mang tính đặc thù của các hệ sinh thái rừng.
1.1.3. Phục hồi rừng
Phục hồi rừng được hiểu là quá trình tái tạo lại rừng trên những diện tích đã
bị mất rừng. Theo quan điểm sinh thái học thì phục hồi rừng là một quá trình tái
tạo lại một hệ sinh thái mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu. Đó là một
quá trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một
thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán (Trần Đình Lý; 1995), [22]
Để tái tạo lại rừng người ta có thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ theo
mức độ tác động của con người là: phục hồi nhân tạo (trồng rừng) phục hồi tự nhiên
và phục hồi tự nhiên có tác động của con người (xúc tiến tái sinh).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
1.2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Trên thế giới
Đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng tự nhiên đã được nhiều nhà khoa học trên
thế giới tiến hành nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở khoa học và lí luận phục vụ cho
công tác kinh doanh rừng.
1.2.1.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật trong
hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có thể cùng
sinh sống trong một khoảng không gian nhất định trong một giai đoạn phát triển của
rừng. Cấu trúc rừng vừa là kết quả vừa là sự thể hiện các mối quan hệ đấu tranh
sinh tồn và thích ứng lẫn nhau giữa các thành phần trong hệ sinh thái với nhau và
với môi trường. Cấu trúc rừng bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu
trúc tuổi.
* Cơ sở sinh thái về cấu trúc rừng
Quy luật về cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh thái học, sinh
thái rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh cho hiệu quả sản xuất
cao. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng người ta chia ra làm 3 dạng cấu trúc là: cấu
trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian. Cấu trúc của thảm thực vật
là kết quả của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa thực
vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là hình
thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng, thực tế cấu trúc
rừng nó có tính quy luật và theo trật tự của quần xã.
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng mưa nhiệt đới đã được P. W.
Richards (1952), G. N. Baur (1964), E. P. Odum (1971)… tiến hành. Những nghiên
cứu này đã nêu lên quan điểm, các khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, dạng
sống và tầng phiến của rừng.
G. N. Baur (1964) [64] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái nói chung
và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng nói riêng, trong đó đi sâu nghiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
cứu cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên.
Từ đó tác giả đưa ra các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh cải thiện rừng. [47]
P. Odum (1971) [48] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật
ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley (1935). Khái niệm sinh thái được làm
sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh thái học.
Công trình nghiên cứu của R. Catinot (1965) [4], J. Plaudy (1987) [29] đã biểu
diễn cấu trúc hình thái rừng bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các cấu trúc sinh
thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến.
* Mô tả về hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành phần
sinh vật rừng trên cả mặt bằng và theo chiều thẳng đứng. Phương pháp vẽ biểu đồ
mặt cắt đứng của rừng do P.W. Richards (1952) [49] đề xướng và sử dụng lần đầu
tiên ở Guam đến nay vẫn là phương pháp có hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng
thứ của rừng. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là chỉ minh họa được
cách sắp xếp theo chiều thẳng đứng của các loài cây gỗ trong diện tích có hạn.
Cusen (1953) đã khắc phục bằng cách vẽ một số giải kề bên nhau và đưa lại một
hình tượng về không gian ba chiều.
P. W. Richards (1959, 1968, 1970) [50] đã phân biệt tổ thành rừng mưa nhiệt
đới làm hai loại là rừng mưa hỗn hợp và rừng mưa đơn ưu có tổ thành loài cây đơn
giản. Cũng theo tác giả thì rừng mưa thường có nhiều tầng (thường có 3 tầng, trừ
tầng cây bụi và tầng cây cỏ). Trong rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi
và các loài thân thảo còn có nhiều loại dây leo cùng nhiều loài thực vật phụ sinh
trên thân hoặc cành cây.
Hiện nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các đặc
trưng như cấu trúc và dạng sống, độ ưu thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng suất thảm
thực vật. Ngay từ đầu thế kỷ 19, Humboldt và Grinsebach đã sử dụng dạng sinh
trưởng của các loài cây ưu thế và kiểu môi trường sống của chúng để biểu thị cho
các nhóm thực vật. Phương pháp của Humboldt và Grinsebach được các nhà sinh
thái học Đan Mạch (Warming, 1094; Raunkiaer, 1934) tiếp tục phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Raunkiaer (1934) đã phân chia các loài cây hình thành thảm thực vật thành các
dạng sống và các phổ sinh học (phổ sinh học là tỉ lệ phần trăm các loài cây trong
quần xã có các dạng sống khác nhau). Tuy nhiên, nhiều nhà sinh thái học cho rằng
phân loại hình thái, các phổ dạng sống của Raunkiaer kém ý nghĩa hơn các dạng
sinh trưởng của Humboldt và Grinsebach. Trong các loại rừng dựa theo cấu trúc và
dạng sống của thảm thực vật, phương pháp dựa vào hình thái bên ngoài của thảm
thực vật được sử dụng nhiều nhất.
Kraft (1884) lần đầu tiên đưa ra hệ thống phân cấp cây rừng, ông phân chia
cây rừng thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng, kích thước và chất lượng cây
rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh được tình hình phân hoá cây rừng, tiêu chuẩn
phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loài
đều tuổi. Việc phân cấp cây rừng cho rừng tự nhiên hỗn loài nhiệt đới là một vấn đề
phức tạp, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra phương án phân cấp cây rừng
cho rừng nhiệt đới tự nhiên được chấp nhận rộng rãi.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra những
nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao mang tính cơ
giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng của rừng tự nhiên nhiệt đới.
Tóm lại, trên thế giới các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng nói
chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, có nhiều công trình nghiên cứu
công phu đã đem lại hiệu quả cao trong bảo vệ rừng.
1.2.1.2. Những nghiên cứu về tái sinh rừng
Như chúng ta đã biết tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù
của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của
những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng như: Dưới tán rừng, lỗ trống
trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp
cây tái sinh là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng được hiểu theo nghĩa
hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng chủ yếu là tầng cây gỗ [19],
[20], [49].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được xác
định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân
bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây con và tầng cây gỗ đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930 ; Richards, 1952 ; Baur G.N, 1964 ;
Rollet, 1969). Do tính phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài cây
có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất
định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng tự nhiên vô cùng phức tạp và còn ít được
quan tâm nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng
mưa chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng ít nhiều
đã bị biến đổi. J.Van Steenis (1956) [51] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ
biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng
và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu qủa các cách
xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng. Từ
đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương thức chặt tái sinh.
Công trình của Walton, A. B. Bernard, R. C - Wyatt Smith (1950) [76] với phương
thức rừng đồng tuổi ở Mã Lai ; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt
dần tái sinh dưới tán rừng ở Nijêria và Gana. Nội dung hiệu quả của từng phương
thức đối với tái sinh đã được G. N. Baur (1976) [2] tổng kết trong tác phẩm cơ sở
sinh thái học trong kinh doanh rừng.
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy
mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927) với diện tích ô đo đếm thông
thường từ 1 đến 4 m
2
. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi trong điều tra nhưng số
lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng. Để giảm sai số
trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1950) đã đề nghị một phương pháp “
điều tra chẩn đoán ” mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai
đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đáng
chú ý là công trình nghiên cứu của P.W. Richards (1952), Bernard Rollet (1974)
tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét:
trong các ô có kích thước nhỏ (1 m x 1 m; 1 m x 1,5 m) cây tái sinh tự nhiên có
dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Ở Châu Phi trên cơ sở các số liệu
thu thập Taylor (1954), Barnard (1955) xác định số lượng cây tái sinh trong rừng
nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các
tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu á như Bava (1954),
Budowski (1956), Atinot (1965) lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung
có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra
cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn
Duy Chuyên, 1995) [12].
Tác giả H. Lamprecht (1969) [67] căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài
cây trong suốt quá trình sinh sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành các nhóm
cây ưa sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng.
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng (thông
qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi là
những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Tác giả G. N. Baur (1976) [2]
cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn đối với sự
nảy mầm và phát triển của cây mầm ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm
cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín
tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái
sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn
nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn,
còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với
tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây bụi qua
thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thụ kín tán, đất
khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh trưởng kém nên
ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm
phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong
điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov,
1967; Vipper, 1973) (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [37].
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả nghiên
cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và Venezuela
nhận xét: Sau khi bỏ hoá, số lượng loài thực vật tăng dần từ ban đầu đến rừng thành
thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào tỷ lệ các loài nguyên
thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá trình tái sinh, thời gian phục hồi
khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác của khu vực đó (dẫn theo Phạm
Hồng Ban, 2000) [1].
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy từ 1 -
20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981-1992) đã cho biết chỉ số đa
dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn
thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự (1993) đã nghiên cứu
đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung
Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21
loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài. (dẫn theo Phạm Hồng
Ban, 2000) [1].
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế
giới cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự
nhiên ở một số nơi. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái sinh để xây
dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý tài nguyên rừng một
cách bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng
Đã có nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả tập trung vào các đặc điểm
cấu trúc của các kiểu rừng tự nhiên, rừng trồng nhằm phục vụ cho việc kinh doanh
rừng lâu dài và ổn định, nhiều tác giả đã đi sâu vào mô phỏng các cấu trúc rừng từ
đơn giản đến phức tạp bằng các mô hình.
Trần Ngũ Phương (1970) [25] đã đề cập tới một hệ thống phân loại, trong đó rất chú
ý tới việc nghiên cứu quy luật diễn thế rừng.
Thái Văn Trừng (1978) [43] khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới nước ta đã đưa ra mô hình cấu trúc tầng vượt tán, tầng ưu thế sinh thái,
tầng dưới tán, tầng cây bụi và tầng cỏ quyết.
Vũ Đình Phương (1987) [27] đã đưa ra phương pháp phân chia rừng phục vụ
cho công tác điều chế với phân chia theo lô và dựa vào 5 nhân tố: Nhóm sinh thái tự
nhiên, các giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo rừng bằng con
đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm về địa hình, thổ nhưỡng với một bảng mã hiệu
dùng để tra trong qúa trình phân chia.
Đối với hệ sinh thái rừng nhiệt đới ở Việt Nam, Thái Văn Trừng (2000) [44]
dựa vào sự ghép nối của 2 hệ thống phân loại: hệ thống phân loại đặc điểm cấu trúc
ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thảm thực vật dựa trên yếu tố hệ
thực vật làm tiêu chuẩn đã phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5 nhóm kiểu
thảm (gọi là 5 nhóm quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (gọi là 14 quần hệ). Mặc dù còn
một số điểm cần bàn luận và chỉnh lý bổ sung thêm nhưng bảng phân loại thảm thực
vật Việt Nam của Thái Văn Trừng từ bậc quần hệ trở lên gần phù hợp với hệ thống
phân loại của UNESCO (1973).
Khi nghiên cứu cấu trúc, việc mô hình hoá quy luật phân bố số cây theo đường
kính và theo chiều cao được chú ý nhiều hơn. Đây là quy luật cơ bản nhất trong các
quy luật kết cấu lâm phần. Biết được quy luật phân bố, có thể xác định được số cây
tương ứng từng cỡ kính hay từng cỡ chiều cao, làm cơ sở xác định trữ lượng lâm
phần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Nguyễn Văn Trương (1983) [45] khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài đã xem
xét sự phân tầng theo hướng định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ
giới. Từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Vũ Đình Phương (1987)
[27] đã nhận định, việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng thường xanh là hoàn toàn
hợp lý và cần thiết, nhưng chỉ trong trường hợp rừng có sự phân tầng rõ rệt có nghĩa
là khi rừng đã phát triển ổn định mới sử dụng phương pháp định lượng để xác định
giới hạn của các tầng cây.
Đào Công Khanh (1996) [17] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu
trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn, Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất một số biện
pháp lâm sinh phục vụ khai thác và nuôi dưỡng rừng.
Nguyễn Anh Dũng (2000) [13] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu
trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng là IIA và IIIA
1
ở lâm trường Sông Đà - Hoà
Bình.
Bùi Thế Đồi (2001) [14] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại ba địa phương ở miền Bắc Việt Nam.
Các tác giả Vũ Đình Phương, Đào Công Khanh (2001) [28] thử nghiệm
phương pháp nghiên cứu một số quy luật cấu trúc, sinh trưởng phục vụ điều chế
rừng lá rộng, hỗn loại thường xanh ở Kon Hà Nừng - Gia Lai cho rằng đa số loài
cây có cấu trúc đường kính và chiều cao giống với cấu trúc tương ứng của lâm
phần, đồng thời cấu trúc của loài cũng có những biến động.
Về nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng thì việc mô hình hoá cấu trúc đường
kính (D
1.3
) được nhiều người quan tâm nghiên cứu và biểu diễn chúng theo các dạng
hàm phân bố xác suất khác nhau, nổi bật là các công trình của các tác giả như Đồng
Sĩ Hiền (1974) [15] dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson để nắn phân bố
thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên làm cơ sở cho việc lập
biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam. Nguyễn Hải Tuất (1982, 1986) [35, 36] đã sử
dụng hàm phân bố giảm, phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh
và áp dụng quá trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng. Trần Văn Con
(1991) [5] đã áp dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính cho rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
khộp ở Đăklăk. Lê Sáu (1995) [36] đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng các quy
luật phân bố đường kính, chiều cao tại khu vực Kon Hà Nừng, Tây Nguyên.
Bùi Văn Chúc (1996) [10] đã nghiên cứu cấu trúc rừng phòng hộ đầu nguồn
Lâm trường sông Đà ở các trạng thái rừng IIA, IIIA
1
và rừng trồng làm cơ sở cho
việc lựa chọn loài cây.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [39], thống kê thành phần loài của Vườn Quốc gia
Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 loài cây có ích ở Tam Đảo
thuộc 478 chi, 213 họ của 3 ngành Dương xỉ, ngành Hạt trần và ngành Hạt kín. Các
loài này được xếp thành 8 nhóm có giá trị khác nhau. Trong các loài trên có 42 loài
đặc hữu và 64 loài quý hiếm cần được bảo tồn như: Hoàng thảo Tam đảo
(Dendrobium daoensis), Trà hoa dài (Camellia longicaudata), Trà hoa vàng tam
đảo (Camellia petelotii), Hoa tiên (Asarum petelotii), Trọng lâu kim tiền (Paris
delavayi)…
Đặng Kim Vui (2002) [46], nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau
nương rẫy để làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở huyện
Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, đã kết luận đối với giai đoạn phục hồi từ 1 -2 tuổi (hiện
trạng là thảm cây bụi) thành phần thực vật 72 loài thuộc 36 họ và họ Hoà thảo
(Poaceae) có số lượng lớn nhất (10 loài), sau đó đến họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) 6
loài, họ Trinh nữ (Mimosaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae) mỗi họ có 4 loài. Bốn họ
có 3 loài là họ Long não (Lauraceae), họ Cam (Rutaceae), họ Khúc khắc
(Smilacaceae) và họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Ngoài ra, cấu trúc trạng thái thảm
thực vật cây bụi này có số cá thể trong ô tiêu chuẩn cao nhất nhưng lại có cấu trúc
hình thái đơn giản, độ che phủ thấp nhất 75 - 80%, chủ yếu tập trung vào các loài
cây bụi.
Như vậy, có nhiều tác giả trong nước cũng như nước ngoài đều cho rằng việc
phân chia loại hình rừng ở Việt Nam là rất cần thiết đối với nghiên cứu cũng như
trong sản xuất. Nhưng tùy từng mục tiêu đề ra mà xây dựng các phương pháp phân
chia khác nhau nhưng đều nhằm mục đích làm rõ thêm các đặc điểm của đối tượng
cần quan tâm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
1.2.2.2. Những nghiên cứu về tái sinh rừng
Vấn đề tái sinh đã được Viện điều tra quy hoạch rừng tiến hành nghiên cứu từ
những năm 60 (thế kỷ XX) tại địa bàn một số tỉnh Quảng Ninh, Yên Bái, Nghệ An,
Hà Tĩnh (Hương Sơn, Hương Khê), Quảng Bình các kết quả nghiên cứu bước đầu
đã được Nguyễn Vạn Thường (1991) [40] tổng kết và kết luận về tình hình tái sinh
tựnhiên của một số khu rừng miền Bắc Việt Nam. Hiện tượng tái sinh dưới tán rừng
của các loài cây gỗ đã tiếp diễn liên tục, không mang tính chất chu kỳ. Sự phân bố
số cây tái sinh không đồng đều, số cây mạ có h < 20 cm chiếm ưu thế rõ rệt so với
lớp cây ở các cấp kích thước khác. Những loài cây gỗ mềm, ưa sáng, mọc nhanh có
khuynh hướng phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong lớp cây tái sinh. Những loài
cây gỗ cứng sinh trưởng chậm chiếm tỷ lệ thấp và phân bố tản mạn, thậm chí còn
vắng bóng trong thế hệ sau trong rừng tự nhiên.
Trần Ngũ Phương (1970) [25] khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới mưa mùa
lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “Rừng tự nhiên dưới tác động của con người
khai thác hoặc làm nương rẫy lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết quả cuối cùng là sự
hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm thực vật hoang dã tự nó
phát triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, trảng cỏ sẽ chuyển dần lên
những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình tái sinh tự nhiên và cuối cùng rừng
khí hậu sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần giống rừng khí hậu ban đầu”.
Nguyễn Văn Trương (1983) [45] đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lớp cây tái
sinh với tầng cây gỗ và quy luật đào thải tự nhiên dưới tán rừng.
Phùng Ngọc Lan (1984) [19] khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai
thác rừng đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở lâm trường Hữu
Lũng, Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm, bọ xít là nhân tố gây ảnh hưởng đáng
kể đến tỷ lệ nảy mầm.
Phạm Đình Tam (1987) [30] đã làm sáng tỏ hiện tượng tái sinh lỗ trống ở rừng
thứ sinh Hương Sơn, Hà Tĩnh. Theo tác giả, số lượng cây tái sinh xuất hiện khá
nhiều dưới các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn, cây tái sinh càng nhiều và