Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn: NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT TRONG MỘT SỐ TRẠNG THÁI THẢM THỰC VẬT Ở XÃ THẦN SA, HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 119 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







HOÀNG THỊ THANH THUỶ




NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH ĐA
DẠNG THỰC VẬT TRONG MỘT SỐ TRẠNG THÁI
THẢM THỰC VẬT Ở XÃ THẦN SA, HUYỆN VÕ
NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC











THÁI NGUYÊN – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





HOÀNG THỊ THANH THUỶ




NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH ĐA
DẠNG THỰC VẬT TRONG MỘT SỐ TRẠNG THÁI
THẢM THỰC VẬT Ở XÃ THẦN SA, HUYỆN VÕ
NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
CHUYÊN NGÀNH: SINH THÁI HỌC
MÃ SỐ: 60.42.60



LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ NGỌC CÔNG










THÁI NGUYÊN – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


BẢNG CHỦ THÍCH CÁC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt
Viết đầy đủ
CR
Loài rất nguy cấp
EN
Nguy cấp
EX
Loài tuyệt chủng

IUCN


The International Union for Conservation of nature and
Natural Resources - Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và Tài

nguyên thiên nhiên Quốc tế
KVNC
Khu vực nghiên cứu
Nxb
Nhà xuất bản
ODB
Ô dạng bản
OTC
Ô tiêu chuẩn
TĐT
Tuyến điều tra
VU
Sẽ nguy cấp
XHCN
Xã hội chủ nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Lê Ngọc
Công - người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức và kinh
nghiệm quý báu để tôi có thể hoàn thành được luận văn này. Tôi cũng xin
chân thành cảm ơn tới Th.S. La Quang Độ, giảng viên khoa Lâm nghiệp
Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong thời gian nghiên cứu ngoài thực địa.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo khoa Sinh –
KTNN, Khoa Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã nhiệt
tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại
trường.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tới Uỷ ban nhân dân xã Thần Sa, cán bộ

Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng đã chỉ bảo và cung cấp
những tài liệu quan trọng. Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới
Trường Trung học phổ thông Khánh Hoà, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái
Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong thời gian học Cao
học.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian, kinh phí
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa
học, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2009
Tác giả


Hoàng Thị Thanh Thuỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các
số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Tác giả


Hoàng Thị Thanh Thuỷ

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Đóng góp mới của luận văn 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật và hệ thực vật trên thế giới và Việt
Nam 4
1.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật 4
1.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật 7
1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu trúc

10
1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài 10
1.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 14
1.2.3. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng 18
1.3. Những nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng
21
1.4. Những nghiên cứu về thảm thực vật, đa dạng thực vật ở Thái Nguyên và
khu vực nghiên cứu 23
Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 26
2.1. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu 26
2.2. Điều kiện xã hội vùng nghiên cứu 30
Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
3.1. Đối tượng nghiên cứu 34
3.2. Phương pháp nghiên cứu 34
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4.1. Đa dạng thảm thực vật và hệ thực vật ở KVNC 37
4.1.1. Đa dạng thảm thực vật 37
4.1.2. Đa dạng hệ thực vật 39
4.2. Đa dạng thành phần loài trong các trạng thái thảm thực vật ở KVNC 65
4.3. Các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở KVNC 74
4.4. Đa dạng thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật 75
4.5. Đa dạng về cấu trúc hình thái của các trạng thái thảm thực vật 84
4.6. Đề xuất một số biện pháp nhằm bảo tồn các trạng thái thảm thực vật ở
KVNC 92
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Bảng đánh giá số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới 9
Bảng 1.2: Số loài thực vật ở khu Bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng
Hoàng 24
Bảng 2.1: Số hộ, số khẩu và các dân tộc trên địa bàn xã Thần Sa 31
Bảng 4.1: Sự phân bố của các bậc taxon ở KVNC 40
Bảng 4.2: Số lượng và tỷ lệ (%) các họ, chi trong các trạng thái thảm thực vật
ở KVNC 41
Bảng 4.3: Các chi có từ 2 loài trở lên trong các trạng thái thảm thực vật ở
KVNC 43
Bảng 4.4: Các họ có từ 2 loài trở lên trong các trạng thái thảm thực vật ở
KVNC 48

Bảng 4.5: Danh lục các loài thực vật điều tra được trong các trạng thái thảm
thực vật ở KVNC 52
Bảng 4.6: Các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở KVNC 74
Bảng 4.7: Thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu 75
Bảng 4.8: Thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật 77
Bảng 4.9: Cấu trúc hình thái của các trạng thái thảm thực vật ở KVNC 84








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 4.1: Phân bố của các bậc taxon ở KVNC 41
Biểu đồ 4.2: Tỷ lệ các họ, chi trong các trạng thái thảm thực vật ở KVNC 42
Biểu đồ 4.3: Thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu 76
Biểu đồ 4.4: Thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật 78

1


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề

Rừng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với con người. Rừng là lá phổi
xanh khổng lồ điều hoà khí hậu, hạn chế thiên tai, bão lũ, là khâu quan trọng
trong chu trình tuần hoàn vật chất của thiên nhiên, là nơi cư trú của nhiều loài
động vật, là nơi cung cấp thức ăn cho động vật nói chung. Đặc biệt thảm thực
vật rừng còn có vai trò rất quan trọng cung cấp nguồn nguyên liệu cho các
hoạt động của con người như lấy gỗ, giấy, xây dựng nhà cửa và các trang thiết
bị nội thất, cho dầu béo, tinh dầu, làm thuốc, làm cảnh và nhiều giá trị sử
dụng khác.
Việt Nam với điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, là nơi gặp gỡ của
hai trung tâm giàu loài nhất thế giới là Trung quốc và Indonexia. Hệ thực
vật nước ta có thành phần loài mang cả yếu tố thực vật nhiệt đới ẩm
Indonexia – Malaysia (yếu tố thực vật nhiệt đới gió mùa) và thực vật vùng
nam Trung hoa và các yếu tố của thực vật Ấn Độ - Trung và nam Tiểu Á.
Theo thống kê, hiện nay nước ta có tới 10.386 loài, thuộc 2.257 chi và 305
họ, chiếm khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của
toàn thế giới [34].
Đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập với quốc tế, quá trình
đô thị hoá diễn ra một cách nhanh chóng, một diện tích đất rừng không nhỏ
đã được sử dụng để xây dựng các công trình nhà cửa, xí nghiệp, đường xá,
khu vui chơi… Bên cạnh đó nạn phá rừng làm rẫy, khai thác gỗ củi và các
nguồn tài nguyên khác vẫn thường xuyên xảy ra, diện tích rừng ngày càng
bị thu hẹp, nhiều loài sinh vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng, lâm tặc
ngày càng lộng hành tàn phá thiên nhiên… Nếu không có các biện pháp
ngăn chặn kịp thời thì trong những năm tới, nguồn tài nguyên rừng sẽ bị
cạn kiệt hoàn toàn.
2


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Xã Thần Sa, Huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên là một trong 7 xã, thị

trấn thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng. Diện tích đất
lâm nghiệp chiếm hơn 80% với thành phần loài thực vật khá phong phú và đa
dạng [3]. Trước khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên (năm 1999) thì hiện
tượng chặt phá rừng, khai thác lâm sản ngoài gỗ diễn ra thường xuyên làm
cho chất lượng rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Từ khi trở thành Khu bảo tồn
thiên nhiên, thảm thực vật ở đây đã được bảo vệ nghiêm ngặt, tình trạng chặt
phá rừng đã giảm nhiều, song việc khai thác nguồn tài nguyên phi lâm sản
(song mây, hoa quả rừng, dược liệu…) vẫn diễn ra hàng ngày, nên đã làm
giảm đáng kể tính đa dạng sinh học.
Với lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “ Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và
tính đa dạng thực vật trong một số trạng thái thảm thực vật ở xã Thần Sa,
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định tính đa dạng về thành phần loài, đa dạng về thành phần dạng
sống và cấu trúc của một số trạng thái thảm thực vật ở khu vực nghiên cứu.
- Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phục hồi thảm thực vật rừng, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện từ năm 2007 đến năm 2009 tại khu vực xã Thần
Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
- Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu, xác định tính đa dạng thành phần loài, đa dạng về thành phần
dạng sống và cấu trúc của một số trạng thái thảm thực vật tại xã Thần Sa.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu đã xác định được thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu trúc
hình thái của 5 trạng thái thảm thực vật ở xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
3


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Xác định được một số loài thực vật có nguy cơ bị tuyệt chủng theo
Sách đỏ Việt Nam (2007), Danh lục đỏ IUCN (2006) và Nghị định
32/2006/NĐ-CP.
- Đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên
thực vật tại địa phương.






















4



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật và hệ thực vật trên thế giới và
Việt Nam.
1.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
1.1.1.1. Khái niệm về thảm thực vật
Thảm thực vật (vegetation) là khái niệm rất quen thuộc, có nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước đưa ra các định nghĩa khác nhau. Theo
J.Schmithusen (1959) thì thảm thực vật là lớp thực bì của trái đất và các bộ
phận cấu thành khác nhau của nó. Thái Văn Trừng (1978) [50] cho rằng thảm
thực vật là các quần hệ thực vật phủ trên mặt đất như một tấm thảm xanh.
Trần Đình Lý (1998) [33] cho rằng thảm thực vật là toàn bộ lớp phủ thực vật
ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật trên toàn bộ bề mặt trái
đất. Thảm thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ thể nào.
Nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định nghĩa kèm theo như: thảm thực
vật cây bụi, thảm thực vật rừng ngập mặn…
1.1.1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện
đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á nhiệt
đới, ôn đới và núi cao.
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ
và loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ
rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh; loạt quần hệ miền núi;
loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm [35].
Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm
thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và
vùng trung gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [60].
5



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.1.1.3. Những nghiên cứu về thảm thực vật Việt Nam
Những công trình nghiên cứu về thảm thực vật Việt Nam đến nay còn ít.
Chevalier (1918) là người đầu tiên đã đưa ra một bảng phân loại thảm thực
vật rừng Bắc bộ Việt Nam (đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật
rừng nhiệt đới Châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo bảng phân loại này rừng ở
Miền bắc Việt Nam được chia thành 10 kiểu [57].
Năm 1953 ở Miền nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại thảm thực vật
rừng Miền nam của Maurand khi ông tổng kết về các công trình nghiên cứu
các quần thể rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil.
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng ở Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng
(1960). Theo bảng phân loại này rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được chia
làm 4 loại hình lớn:
Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần
phải trồng rừng.
Loại II: gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc
tỉa thưa.
Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo
kiệt tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái
sinh, tu bổ, cải tạo.
Loại IV: gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa
bị phá hoại, cần khai thác hợp lý.
Thomasius (1965) đưa ra bảng phân loại các kiểu lập quần vùng Quảng
Ninh dựa trên các điều kiện địa hình, đất đai, đá mẹ, khí hậu và các loài cây
ưu thế.
Phan Nguyên Hồng (1970) [23], phân chia kiểu thảm thực vật ven bờ biển
Miền bắc Việt Nam thành rừng ngập mặn, rừng gỗ ven biển và thực vật bãi cát trống.
6



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trần Ngũ Phương (1970) [37] đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền bắc
Việt Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai
rừng á nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao.
Thái Văn Trừng (1970) [50] đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn (quần lạc thân
gỗ kín tán; quần lạc thân gỗ thưa; quần lạc thân cỏ kín rậm; quần lạc thân cỏ
thưa và những kiểu hoang mạc) và nguyên tắc đặt tên cho các thảm thực vật.
Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại
hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat), ông đưa ra bảng phân
loại thảm thực vật rừng Việt Nam theo quan điểm sinh thái, đây được xem là
bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt Nam phù hợp nhất theo quan điểm
sinh thái cho đến nay [49].
Phan Kế Lộc (1985) [32] dựa trên bảng phân loại của UNESCO 1973,
cũng đã xây dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp
quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau. Nguyễn
Nghĩa Thìn (1994-1996) cũng đã áp dụng cách phân loại này trong những
nghiên cứu của ông.
Nguyễn Hải Tuất (1991) [53] nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về
sinh thái của các quần thể thực vật tại vùng núi cao Ba Vì đã chia ra 3 kiểu
rừng cơ bản: kiểu rừng hỗn giao ẩm á nhiệt đới; kiểu rừng kín hỗn giao ẩm á
nhiệt đới núi cao; kiểu rừng kín hỗn giao cây hạt kín và hạt trần.
Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) [27] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự
hình thành và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào
mối quan hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác
nhau: kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm
thường xanh; kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô
nhiệt đới gió mùa khô rụng lá; kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa
van nhiệt đới khô; kiểu truông nhiệt đới khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá

7


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vôi; kiểu rừng nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng nhiệt đới trên đất phèn; kiểu
rừng rậm á nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm
hỗn giao; kiểu rừng thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu rừng rêu á nhiệt đới
mưa mùa; kiểu rừng lùn đỉnh cao.
Thái Văn Trừng (1998) [51] khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới
Việt Nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm
cấu trúc ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thực vật dựa trên yếu
tố hệ thực vật làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5
kiểu thảm (5 nhóm quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (14 quần hệ). Bảng phân loại
này của ông từ bậc quần hệ trở lên gần phù hợp với hệ thống phân loại của
UNESCO (1973).
Nguyễn Thế Hưng (2003) [26] cũng dựa trên nguyên tắc phân loại
UNESCO (1973) đã xây dựng được 8 trạng thái thảm thực vật khác nhau đặc
trưng cho loại hình thảm cây bụi ở huyện Hoành Bồ, thị xã Cẩm Phả (Quảng
Ninh).
Lê Ngọc Công (2004) [15] cũng dựa theo khung phân loại của
UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành
4 lớp quần hệ: rừng rậm; rừng thưa; trảng cây bụi và trảng cỏ. Ở đây,
những trạng thái thứ sinh (được hình thành do tác động của con người
như: khai thác gỗ, củi, chặt đốt rừng làm nương rẫy…) bao gồm: trảng cỏ;
trảng cây bụi và rừng thưa.
Ngô Tiến Dũng (2004) [18] dựa theo phương pháp phân loại thảm
thực vật của UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật Vườn quốc gia
Yok Don thành: kiểu rừng kín thường xanh; kiểu rừng thưa nửa rụng lá và
kiểu rừng thưa cây lá rộng rụng lá gồm 6 quần xã khác nhau.
1.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật

1.1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới
8


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tổng số loài thực vật hiện nay trên thế giới có nhiều biến động và chưa
cụ thể, tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nhà
thực vật học dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng
500.000 – 600.000 loài.
Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên thế giới có khoảng: 300.000
loài thực vật hạt kín; 5.000 – 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 – 10.000 loài
quyết thực vật; 14.000 – 18.000 loài rêu; 19.000 – 40.000 loài tảo; 15.000 –
20.000 loài địa y; 85.000 – 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp
khác.
Năm 1962, G. N. Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt kín
phân bố ở các châu lục như sau:
Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài trong đó: Hoa Kỳ + Canada: 25.000
loài; Mehico + Trung Mỹ: 17.000 loài; Nam Mỹ: 56.000 loài; Đất lửa + Nam
cực: 1.000 loài.
Châu Âu có khoảng 15.000 loài trong đó: Trung và Bắc Âu: 5.000 loài;
Nam Âu, vùng Ban căng và Capcasơ: 10.000 loài.
Châu Phi có khoảng 40.500 loài trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm: 15.500
loài; Madagasca: 7.000 loài; Nam Phi: 6.500 loài; Bắc Phi, Angieri, Ma Rốc
và các vùng phụ cận khác: 4.500 loài; Abitxini: 4.000 loài; Tuynidi và Ai cập:
2.000 loài; Xomali và Eritrea: 1.000 loài.
Châu Á có khoảng 125.000 loài trong đó: Đông Nam Á: 80.000 loài; các
khu vực nhiệt đới Ấn Độ: 26.000 loài; Tiểu Á: 8.000 loài; Viễn đông thuộc
Liên bang Nga, Triều Tiên, Đông bắc Trung Quốc: 6.000 loài; Xibêria thuộc
Liên bang Nga, Mông Cổ và Trung Á: 5.000 loài.
Châu Úc có khoảng 21.000 loài trong đó: Đông Bắc Úc: 6.000 loài; Tây

Nam Úc: 5.500 loài; Lục địa Úc: 5.000 loài; Taxman và Tây tây lan: 4.500
loài [17], [34].
9


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lecointre và Guyader (2001) [20] đã đưa ra bảng đánh giá số loài thực
vật bậc cao được mô tả trên toàn thế giới như sau:
Bảng 1.1. Bảng đánh giá số loài thực vật đƣợc mô tả trên toàn thế giới
Bậc phân loại
Tên thƣờng gọi
Số loài mô tả
% số loài đã đƣợc mô tả
Fungi
Nấm
100.800
5,80
Bryophyta
Ngành Rêu
15.000
0,90
Lycopodiophyta
Ngành Thông đất
1.275
0,07
Polypodiophyta
Ngành Dương xỉ
9.500
0,50
Pinophyta

Ngành Thông
601
0,03
Magnoliophyta
Ngành Ngọc lan
233.885
13,40
1.1.2.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam
Ở nước ta, trong thực vật chí Đại cương Đông Dương và các tập bổ sung
tiếp theo đã mô tả và ghi nhận có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực
vật bậc cao có mạch [59]. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán
con số đó có thể lên tới 10.000 đến 12.000 loài. Trên cơ sở những thông tin
mới nhất và những căn cứ chắc chắn, năm 1997, Nguyễn Tiến Bân đã giới
thiệu khái quát những đặc điểm cơ bản của 265 họ và khoảng 2.300 chi thuộc
ngành hạt kín ở nước ta [5]. Gần đây, Phan Kế Lộc (1998) đã kiểm kê và ghi
nhận đến nay trong hệ thực vật Việt Nam đã biết được 9.653 loài thực vật bậc
cao có mạch mọc tự nhiên, thuộc 2.011 chi và 291 họ. Nếu kể cả khoảng 733
loài cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài thực vật bậc cao có mạch biết
được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc 2.257 chi và 305 họ, chiếm
khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn thế giới.
Cũng do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù nên hệ thực vật nước
ta có thành phần loài khá phong phú mang cả yếu tố của thực vật nhiệt đới ẩm
Indonesia – Malaisia, yếu tố của thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn đới
nam Trung Hoa và các yếu tố của thực vật Ấn Độ - Trung và Nam Tiểu Á [34].
10


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
* Nhận xét chung
Nhìn chung, những nghiên cứu về thảm thực vật của các tác giả hầu hết

chỉ tập trung nghiên cứu ở một vùng cụ thể và phần lớn các tác giả đều dựa
vào khung phân loại của UNESCO (1973) trong nghiên cứu của mình.
Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới và ở Việt Nam: hầu hết
các tác giả đều mới chỉ đưa ra con số dự đoán về hệ thực vật ở một châu lục,
một quốc gia, hoặc một khu vực cụ thể. Những số liệu này chưa được nghiên
cứu và điều tra đầy đủ. Vì vậy, số loài thực vật hiện có chắc chắn còn dao
động và cao hơn nhiều.
1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu
trúc .
1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu
được tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên
cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),
Creepva (1978)…Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác
biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của
nó. Vì vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu
quan trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật [35].
Ramakrishman (1981 – 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
vùng Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá.
Longchun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy
tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm
thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi và 167 loài [45].
11


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ở Việt Nam, Phan Kế Lộc (1970) đã xác định hệ thực vật miền bắc Việt

Nam có 5609 loài thuộc 1660 chi và 240 họ [31].
Khi nghiên cứu về thành phần loài, Hoàng Hữu Hiếu (1970) đã đề nghị
áp dụng công thức đánh giá tổ thành loài rừng nhiệt đới.

a
N
X 
(
X
: Trị số trung bình cá thể của một loài
N: Số cây điều tra
a: Số loài điều tra)
Một số loài được gọi là thành phần chính của loại hình phải có số lượng
cá thể bằng hoặc lớn hơn
X
[35].
Nguyễn Đăng Khôi (1971) đã bổ sung thêm 26 loài không được F.
Gagnepain ghi nhận ở Miền bắc Việt Nam trong “Thực vật chí đại cương
Đông Dương” [59].
Nguyễn Đăng Khôi và Nguyễn Văn Phú (1975) đã thống kê 39 loài cây
bộ Đậu thân bò và thân leo làm thức ăn giàu protein cho gia súc Miền Bắc
Việt Nam. Thái Văn Trừng (1970) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004
loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ [50].
Phan Kế Lộc (1978) điều tra phát hiện 20 loài cây có tannin thuộc họ
Trinh nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc ở Việt Nam có tannin
[31].
Hoàng Chung (1980) [10] khi nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt
Nam đã công bố thành phần loài thu được gồm 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ.
Trong công trình tổng kết các kết quả nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt
Nam, Dương Hữu Thời (1981) đã công bố thành phần loài thuộc 5 vùng Bắc

Việt Nam gồm 213 loài [28].
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983) khi nghiên cứu hệ thực vật Tây Nguyên đã
thống kê được 3210 loài, chiếm gần 1/2 số loài đã biết của toàn Đông Dương [4].
12


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993) trong “Cây cỏ Việt Nam” đã thống kê số
loài hiện có của hệ thực vật là 10.500 loài [22].
Phan Nguyên Hồng (1991) lập danh mục cùng với một số chỉ tiêu khác
(dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 loài thuộc 2 nhóm loài cây ngập
mặn điển hình và cây gia nhập vào rừng ngập mặn [24].
Lê Mộng Chân (1994) điều tra tổ thành vùng núi cao Vườn quốc gia Ba
Vì đã phát hiện được 483 loài thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch
trong đó gặp 7 loài được mô tả lần đầu tiên [7].
Đỗ Tất Lợi (1995) khi nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 798 loài
thuộc 164 họ có ở hầu hết các tỉnh nước ta [30].
Trần Đình Đại (2001) căn cứ vào kết quả điều tra thực địa, mẫu vật lưu
giữ tại các phòng tiêu bản đã thống kê danh lục các loài thực vật tại vùng Tây
bắc bộ (Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) gồm 226 họ, 1050 chi và 3074 loài thuộc
6 ngành thực vật bậc cao có mạch [19].
Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995) nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123
loài thuộc 47 họ khác nhau [13].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) khi nghiên cứu một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của sa van Quảng Ninh và các mô hình sử dụng
đã phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài [25].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã thống kê thành phần loài của Vườn quốc
gia Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc
478 chi, 213 họ thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Các loài này

được xếp thành 8 nhóm có giá trị khác nhau. Năm 1998, khi nghiên cứu về họ
Thầu Dầu (Euphorbiaceae) ở Việt Nam, ông thu được 156 loài trong tổng số
425 loài của họ Thầu dầu ở Việt Nam chia làm 7 nhóm theo cách sử dụng
[42].
13


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lê Ngọc Công (1998) khi nghiên cứu tác dụng cải tạo môi trường của
một số mô hình rừng trồng ở một số tỉnh miền núi đã công bố thành phần loài
gồm 211 loài thuộc 64 họ [14].
Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có
nhận xét về tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi như sau: trong các trạng
thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của tầng cây
bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria, Prismatomeris, Pavetta
(họ Cà phê – Rubiaceae); chi Tabermontana (họ Trúc đào – Apocynaceae);
chi Ardisia, Maesa (họ Đơn nem – Myrsinaceae) [51].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về
khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2393 loài thực vật bậc thấp và
1373 loài thực vật bậc cao thuộc 2524 chi, 378 họ [43],[44].
Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành
phần loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét
rằng: do ảnh hưởng của canh tác nương rẫy nên thành phần loài và số lượng
cây gỗ trên một đơn vị diện tích có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn
định [16].
Lê Đồng Tấn (2000) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng tự nhiên sau
nương rẫy ở Sơn La đã kết luận: mật độ cây giảm khi độ dốc tăng, mật độ cây
giảm từ chân lên đỉnh đồi, mức độ thoái hoá đất ảnh hưởng đến mật độ, số
lượng loài cây và tổ thành loài cây. Kết quả cho thấy ở tuổi 4 có 41 loài; tuổi
10 có 56 loài; tuổi 14 có 53 loài [41].

Đặng Kim Vui (2002) [54] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy để làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã kết luận: giai đoạn phục hồi 1 – 2 tuổi,
thành phần loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ, trong đó họ Hoà thảo có số
lượng lớn nhất là 10 loài, tiếp đến là họ Thầu dầu (6 loài)…; giai đoạn 3 – 5
14


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai đoạn 5 – 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai
đoạn 11 – 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ.
Nguyễn Thế Hưng (2003) đã thống kê trong các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu ở Huyện Hoành Bồ, Thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh) có 324 loài
thuộc 251 chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch [26].
Phạm Ngọc Thường (2003) khi nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh tự
nhiên sau nương rẫy ở Bắc Kạn kết luận: quá trình phục hồi sau nương rẫy
chịu tác động tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái như nguồn giống, địa
hình, thoái hoá đất, con người. Mật độ cây giảm dần theo thời gian phục hồi
của thảm thực vật cây gỗ, trên đất tốt nhiều nhất 11 – 25 loài, trên đất xấu 8 –
12 loài [47].
Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống
kê các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi,
654 loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý
như: Lim, Dẻ, Trai, Nghiến…[15]
Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La
đã thu được 452 loài thuộc 326 chi, 153 họ [29].
Thái Văn Thụy, Nguyễn Phúc Nguyên (2005) nghiên cứu về thảm thực
vật Vườn quốc gia Ba Vì đã xác định ở đây có 11 kiểu quần xã thực vật khác
nhau. Trong quần xã cây bụi thứ sinh thường xanh, lá rộng thành phần chủ
yếu là cây gỗ dạng bụi cao từ 2 – 5m [46].

1.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường
xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên
15


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có
thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát
triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp
cây nhiều năm và lớp cây hàng năm [35].
Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [1].
Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất là
hệ thực vật của các vùng ôn đới, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer
(1934) [11] để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các
dạng sống đó. Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả
năng thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các
dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở
đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm

Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau
trên trái đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm
bảo tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên
những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu
16


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tố môi trường tạo nên. Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của
thực vật, đặc điểm qua đông, sinh sản…
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất sinh
thái học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu
hình thái sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều
lần hay một lần trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ.
Trong bảng phân loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng
phân loại này ông còn chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm, nhóm phụ, tổ và
các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi
Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm
phần dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu
thị mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm
của cây. Vì thế việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng
sống sẽ giúp cho ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng
của môi trường [11].
Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Doãn Ngọc
Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ Hoà
thảo. Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng

cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu
đồng cỏ sa van, thảo nguyên [10].
Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi phân
chia dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [50].
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn tỉnh Hoà Bình
cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp
của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số
dạng sống (a: ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo). Tác

×