Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.9 MB, 99 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
PHAM QUANG TIEN
<small>Hà Nội — 2023</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">PHAM QUANG TIEN
Chuyên ngành: Luật Dân sự va Ti 6 tung dan su
<small>Hà Nội - 2023</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tôi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được ai
cơng bố trong bắt kỳ cơng trình nào khác.
<small>Tác gia dé tai</small>
<small>MỤC LỤC</small>
<small>ĐƠNNG... Họ. HH TT TT. HH 1.0091 090000000090904000 4. 06 40</small>
2.1. Khái quát quá trình phát triển và vai trò của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng...--.s- s- s-s° se csscssessessesserserserssrssrssese 40 2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm dân sự liên đới
<small>3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp</small>
<small>Bộ luật Dan su BLDSTrach nhiệm dân sự TNDS</small>
Bồi thường thiệt hại BTTH
Hội đồng Thâm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng | Nghị quyết số dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 03/2006
TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng được xem là một chế định có vị trí quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay. Tầm quan trọng thể
Mặc dù BLDS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung so với pháp luật
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, BLDS năm 2015 cịn ton tại những quy định chưa hồn thiện như thiếu những quy định về tiêu chí cụ thé dé ấn định bồi thường giữa những người cùng gây thiệt hại trong trách nhiệm liên đới
<small>hữu, quan ly ma tai sản đó gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH của những</small>
người đồng chủ sở hữu, những người cùng chiếm hữu, quản lý tài sản đó có liên đới chịu trách nhiệm bồi thường hay không?...
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Từ lý luận, thực trạng pháp luật đến thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này còn tồn tại nhiều vướng mắc. Cùng với đó, dịng chảy của xã hội cũng làm
<small>cho các quy định của pháp luật nói chung và TNDS liên đới BTTH ngồi hợp</small>
đồng nói riêng cần phải luôn thay đồi hoặc được quy định mang tinh tổng quát, mang tinh dự phòng cao dé đảm bảo với thực tiễn tại nước ta thời gian tới. Với
<small>làm phat sinh TNDS do hành vi gây thiệt hai.1.2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu</small>
<small>1.2.1. Mục đích nghiên cứu</small>
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về căn cứ phát
tiễn áp dụng pháp luật nhăm đưa ra các giải pháp toàn diện nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
<small>1.2.2. Nhiệm vụ nghién cứu</small>
Thứ hai, đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng hoàn thiện pháp luật dân sự nhăm sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong BLDS năm 2015 và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng BLDS năm 2015 về trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
<small>1.3.2. Phạm vi nghiên cứu</small>
<small>Một là, phạm vi nội dung nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các</small>
<small>Hai là, phạm vi thời gian nghiên cứu, luận văn nghiên cứu từ khi BLDS</small>
năm 2015 có hiệu lực tính từ năm 2017 đến năm 2022.
TNDS liên đới BTTH là nội dung rất quan trọng trong pháp luật dân sự
<small>các câp độ khác nhau.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">* Dưới hình thức luận án tiễn sỹ, luận văn thạc sỹ luật học, khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật có những cơng trình nghiên cứu sau:
- Luận án tiễn sỹ - Trường Đại học Luật Hà Nội về “TNDS liên đới bôi
<small>thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Phạm Kim</small>
- Luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Mân (năm 2013). Tác giả tập trung nghiên cứu
<small>thực tiễn.</small>
- Luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về
niên gây ra” của tác giả Nguyễn Trung Tín (năm 2014). Luận văn này phân
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
<small>của tác giả Hoàng Lam Thụy Châu (năm 2006). Tác giả tập trung nghiên cứu</small>
các vấn đề như khái niệm, xác định thiệt hại và ấn định mức bồi thường,
<small>Minh vê “Trách nhiệm bồi thường liên đới trong các vụ án đông phạm” của</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">tác giả Diệp Hồng Khơn (năm 2012). Khóa luận này nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến trách nhiệm liên đới BTTH do nhiều
<small>người cùng gây ra nói chung và trách nhiệm liên đới BTTH trong các vụ án</small>
đồng phạm nói riêng.
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “TNDS liên đới bồi thường thiệt hai trong tai nạn giao thông” của tác giả Trương Ngọc Liệu (năm 2013). Tác giả chủ yếu phân tích về lý
* Về sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình, bình luận khoa học có
- Đỗ Văn Đại (2010), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia,
<small>Hà Nội.</small>
- Đỗ Văn Đại (2014), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (tập 1, 2), Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ
<small>Chí Minh.</small>
<small>- Các cơng trình khoa học này bình luận chun sâu các bản án liên quan</small>
<small>phương diện lý luận; chưa có sự phân tích, so sánh giữa những quy định của</small>
pháp luật với thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Nguyễn Xuân Quang- Lê Nét - Nguyễn Hồ Bích Hang (2007), Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Các tác giả phân tích các vấn đề lý luận chung và các trường hợp cụ thê về trách nhiệm BTTH
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">ngoài hợp đồng về phương diện lý luận (chương IV), nhưng chưa đi sâu phân tích các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm liên đới BTTH.
<small>- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam</small>
(tập 2), Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình phân tích các vấn đề lý
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội. Giáo trình đã trình bày các vấn đề cơ bản liên quan đến TNDS liên đới BTTH như: Khái niệm về trách nhiệm liên đới BTTH, điều kiện phát sinh trách nhiệm liên đới, căn cứ xác định TNDS liên đới khi có nhiều
<small>người cùng gây thiệt hại, nội dung của TNDS liên đới (chương V).</small>
<small>- Đỗ Văn Đại - Nguyễn Nhật Thanh (2015), “Trách nhiệm liên đới của</small>
vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình 2014” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân (5). Bài viết phân tích các vấn đề về trách nhiệm liên đới của vợ,
<small>không từ giao dịch dân sự quy định trong pháp luật hiện hành.</small>
ngoài hợp đồng trong các vụ án hình sự” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (6). Tác giả phân tích một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm liên đới BTTH do nhiều người cùng gây thiệt hại (Điều 620 BLDS 1995).
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">- Đỗ Văn Đại - Nguyễn Nhật Thanh (2015), “Trách nhiệm liên đới của
vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình 2014” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân (5). Bài viết phân tích các vấn đề về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự và nghĩa vụ phát sinh
<small>không từ giao dịch dân sự quy định trong pháp luật hiện hành.</small>
- Phạm Văn Thiệu (2001), “Trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án hình sự” đăng trên Tạp chí Nhà nước và
- Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong TNDS ngồi hợp đồng” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số (7). Tác giả phân tích về khái niệm lỗi, các yếu tô của lỗi được quy định trong pháp luật nước ngoài và
<small>pháp luật Việt Nam.</small>
Những cơng trình khoa học, các bài viết nêu trên là nguồn tài liệu rất
<small>hiện luận văn, nhưng các cơng trình trên khơng nghiên cứu một cách có hệ</small>
<small>đới BTTH do hành vi cua con người gây ra và do tài sản gây ra theo quy định</small>
của BLDS 2015. Các cơng trình nghiên cứu trên đây hoặc thể hiện nội dung ở bình diện rộng về TNDS liên đới BTTH ngoai hợp đồng, hoặc nghiên cứu về một mảng BTTH do tài sản gây ra có đề cập đến vấn đề trách nhiệm liên
<small>nghiên cứu nêu trên cịn bỏ ngỏ vân đê cùng phân tích vê chủ thê, căn cứ phát</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">sinh trách nhiệm liên đới BTTH ngoài hợp đồng, cách thức thực hiện trách nhiệm liên đới trong BTTH ngoài hợp đồng do hành vi của con người gây ra
và do tài sản gây ra, có sự so sánh dé chỉ ra được những đặc điểm chung và riêng của các vấn đề nêu trên liên quan đến hai trường hợp TNDS liên đới
<small>BTTH do hành vi con người gây ra và TNDS liên đới BTTH do tài sản gay</small>
ra, nhằm giúp các cơ quan thực thi pháp luật áp dụng đúng đắn hơn các chế định nêu trên khi giải quyết các vụ việc bồi thường có liên quan đến liên đới
<small>chịu trách nhiệm BTTH.</small>
<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>
<small>Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật</small>
lich sử của chủ nghĩa Mác - Lénin, tư tưởng H6 Chi Minh và đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
- Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: những phương pháp
<small>- Phương pháp đánh gia, phương pháp so sánh: những phương pháp</small>
<small>so với quy định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác... Đặc biệt,</small>
phương pháp này được sử dụng dé phân tích các van dé về lý luận chung liên quan đến van đề TNDS liên đới BTTH, nhằm tổng hợp đưa ra khái niệm về TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng.
dung của kiến nghị đó...
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">- Phương pháp bình luận các vẫn đề giữa quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật còn bat cập, trên cơ sở đó kiến nghị hồn thiện pháp luật.
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thê:
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và giải pháp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>CHƯƠNG 1</small>
<small>1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự va trách nhiệm dan sự liên đới</small>
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
<small>1.1.1. Khai niệm trách nhiệm dân sự</small>
<small>Bên cạnh nghĩa vụ, “trách nhiệm” cũng là một nội dung thuộc quan hệ</small>
<small>pháp luật dân sự, tuy vậy, khác với nghĩa vụ dân sự được quy định một cách</small>
khá chi tiết, thì TNDS lại chưa có được một khái niệm pháp lý hoàn chỉnh.
Theo từ điển tiếng Việt, trách nhiệm nghĩa là “phu rách, gánh vác công việc và nhận mọi hậu quả của công việc ay” [39, tr.1068]. Tu dinh nghia trén, TNDS có thé hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý, là hậu quả bat lợi mà bên vi phạm nghĩa vụ dân sự phải gánh chịu. Trong trường hợp chủ thể trong giao
<small>dịch dân sự không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ do các bên</small>
phải chịu những hậu quả bat lợi về vật chất, tinh thần do không thực hiện
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ phải chịu sự cưỡng</small>
chế đối với hành vi trái pháp luật. Chính sự cưỡng chế này đã tạo điều kiện cho quan hệ pháp luật dân sự ngày càng phát triển, góp phần ngăn chặn những hậu quả xấu có thé xảy ra, nhằm bao đảm 6n định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự. Quyền của chủ thé trong TNDS sẽ phat sinh khi việc nghĩa vụ không thực hiện đúng như thoả
nhưng người có nghĩa vụ khơng phát sinh TNDS. Về mặt bản chất, TNDS là
<small>một loại trách nhiệm pháp lý nên mang những đặc trưng chung của trách</small>
nhiệm pháp lý, bao gồm: (i) là hình thức cưỡng chế của Nhà nước, áp dụng đối với những chủ thé có vi phạm pháp luật; (ii) được thực hiện bởi co quan
người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bat lợi.
Mặc dù là một van đề pháp lý chưa được pháp luật định nghĩa, TNDS
<small>nhân thân cho người bị vi phạm ` [1, tr. 15].</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Quan điểm 2: “TNDS là biện pháp cưỡng chế được áp dung đối với người đã có hành vi xâm phạm đến các quyên và lợi ích hợp pháp khác, nhằm buộc người vi phạm phải thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm bôi dap tổn thất và phục hồi các quyên và lợi ích hợp
<small>pháp của người bị xâm phạm ” [18, tr.397].</small>
<small>Nghĩa vụ dân sự nói chung là một quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực dân</small>
<small>các bên tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự đó. Nghĩa vụ dân sự bao hàm</small>
<small>tồn bộ các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự. Nói cách khác, trong đa</small>
<small>khác nhau dựa trên sự thoả thuận giữa các bên hoặc do pháp luật định. Dựa</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">các nghĩa vụ do sự thoả thuận của các chủ thể hoặc do pháp luật quy định, và nghĩa vụ này bắt buộc chủ thể phải thực hiện. Vì vậy, TNDS thường được coi
<small>dạng nghĩa vụ trong lĩnh vực dân sự.</small>
<small>Từ những đặc trưng pháp lý và cơ sở lý luận trên, TNDS được định</small>
<small>lợi do những xử sự trai pháp luật của mình gây nên mà lẽ ra ho khơng phải</small>
chịu nếu họ khơng có sự vi phạm pháp luật, hoặc theo quy định của pháp luật
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại
<small>Liên đới BTTH là một trong những nội hàm khái niệm cua TNDS liên</small>
đới. Tuy nhiên, chưa có quy định nào về khái niệm và nội dung của TNDS
trong mối quan hệ với các khái niệm pháp lý khác.
Theo Từ dién tiếng Việt, liên đới là “có sự ràng buộc lẫn nhau (thường về mặt trách nhiệm)” [38, tr.567], hay liên đới là “đính chùm với nhau, cùng
tiếng Việt kết hợp với nội dung về khái niệm TNDS đã trình bày ở phần trên,
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">tác giả xây dựng khái niệm về TNDS liên đới như sau: TNDS liên đới là một loại TNDS do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyên có thể yêu cau bat cứ ai trong số những người có trách nhiệm thực hiện một phan hay
toàn bộ trách nhiệm. Trong thực tiễn, khi phát sinh TNDS liên đới, các quy
định về nghĩa vụ dân sự liên đới sẽ được áp dung dé giải quyết các van dé.
<small>tránh khỏi những thiệt hại khơng đáng có, việc phát sinh thiệt hại vơ hình</small>
quan trọng của chế định liên quan đến BTTH.
BTTH có thể coi là một trong những chế định xuất hiện sớm nhất trong
<small>dòng chảy lịch sử lập pháp dân sự của nước ta. Ngay từ các Bộ luật của các</small>
triều đại phong kiến, các quy định về BTTH đã được đề cập tương đối cụ thể, tuy nhiên trong thời điểm này chưa có sự phân định rõ rang giữa TNDS cá
<small>thương thì 15 quan; doa thai chưa thành hình thì 30 quan; đã thành hình thì</small>
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">được xem là hình phạt mà chuyên sang là một nghĩa vụ - một bồn phận (khơng mang tính bắt buộc, cưỡng ép như hình phạt) của người gây thiệt hại
<small>cho những người chịu thiệt hại.</small>
BTTH được coi là trách nhiệm của chủ thể đã có hành vi trái pháp luật dẫn đến những xảy ra những thiệt hại nhất định cho người khác. Hành vi này
<small>Việt Nam như BLDS, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình... Mặc dù</small>
<small>nội dung của TNDS liên đới BTTH. Vì vậy, việc xây dựng khái nệm TNDS</small>
liên đới BTTH là rất cần thiết.
Liên đới BTTH là một trường hợp đặc biệt của TNDS, trong đó chủ thê có trách nhiệm bồi thường có từ hai người trở lên phải cùng chịu trách nhiệm bồi thường và giữa những người này có sự rang buộc trách nhiệm lẫn nhau.
Sự ràng buộc ở đây có thể được hiểu, các chủ thể cùng chịu trách nhiệm mà
Quan điểm 1: “Trách nhiệm liên đới BTTH là một loại TNDS, theo đó,
<small>người có quyền được yêu câu bat cứ ai trong sơ những người có nghĩa vu</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">phải bơi thường tồn bộ thiệt hại và bat cứ ai trong số những người có nghĩa vụ cũng phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ đối với người có qun khi được người có quyên yêu cầu ” [1, tr.40].
Quan điểm 2: “Trách nhiệm bôi thường liên đới là một loại TNDS phát
<small>mình ”[12, tr. L7].</small>
Quan điểm 3: “Trach nhiệm liên đới bồi thường là một loại TNDS, cho phép bên có quyên yêu cau bat cứ ai trong số những người có trách nhiệm boi thường thực hiện một phần hay tồn bộ trách nhiệm và những người này có trách nhiệm đáp ứng yêu cau đó ” [16, tr.8].
<small>đới BTTH nói riêng mang đặc tính của TNDS. Tuy nhiên, việc khơi phục lại</small>
tình trạng tài sản bằng biện pháp BTTH không phải bao giờ cũng đem lại hiệu
danh dự, ton thất về tinh than... Do đó, tác giả đồng ý theo nội dung quan điểm 3 xác định TNDS liên đới bơi thường thiệt hại ngồi hợp dong là một
Hiện nay, trong khoa học pháp lý tồn tại hai loại BTTH đó là BTTH ngồi hợp đồng và BTTH trong hợp đồng. Trong phạm vi luận văn, tác giả
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">chỉ nghiên cứu về vấn đề TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phải được hiệu là nghĩa vụ của chủ thé gây thiệt hại đối với các chủ thé bị thiệt hại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, giữa chủ thé gây thiệt hại và các chủ thé còn lại phát sinh một quan hệ pháp luật dân sự. Trong quan hệ này phân loại rõ ràng giữa quyền và nghĩa vụ của các bên,
<small>hại là bên có nghĩa vụ BTTH từ thiệt hại mà minh gây ra. Quan hệ pháp luật</small>
Nếu có từ hai người trở lên (kế cả những người dù không trực tiếp gây ra thiệt hại nhưng pháp luật quy định chịu trách nhiệm liên đới bồi thường) thi có thé phát sinh TNDS liên đới BTTH ngoai hợp đồng.
của những người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ phải thực hiện ở hợp dong đã ký kết. Bên có quyên yêu cau bat cứ ai trong số những người có trách
nhiệm BTTH, thục hiện một phần hay tồn bộ trách nhiệm và những người
Trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng nói chung là trách nhiệm của người phải bồi thường đối với người được bồi thường mà không phải trách nhiệm
<small>của người gây thiệt hại với Nhà nước. Nói cách khác, trách nhiệm BTTH</small>
ngồi hợp đồng là một loại trách nhiệm mà các chủ thể ngang bằng nhau về
<small>Thứ hai, TNDS liên đới là trách nhiệm mang tinh tai sản</small>
Thiệt hại có thể là thiệt hại về vật chất (tài sản) hoặc cũng có thể là thiệt hại về tinh thần (danh dự, nhân phẩm....). Tuy nhiên, người gây ra thiệt hại khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường không phải lúc nào cũng phải chịu một ton thất tương tự loại thiệt hại mà mình đã gây ra mà luôn được xác định bang tai
<small>Thứ ba, TNDS liên doi BTTH ln có một bên phải gảnh chịu một hau</small>
quả bất lợi
<small>Dù theo thoả thuận hay quy định của pháp luật, khi quan hệ BTTH ngoài</small>
hợp đồng xảy ra, một bên phải bù đắp, khôi phục lại các thiệt hại đã xảy ra. Việc cố găng khôi phục lại các thiệt hại trở lại trạng thái ban đầu buộc bên
<small>Thứ tư, TNDS liên đới chỉ phat sinh khi có thiệt hại xảy ra</small>
Trong pháp luật dân sự, có nhiều loại trách nhiệm phát sinh khi có hành
<small>vi vi phạm xảy ra, cho dù hành vi đó gây hậu quả hay chưa gây hậu quả. Tuy</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">nhiên, trách nhiệm BTTH ngoài hợp dong chỉ phát sinh nếu đã có thiệt hại đối với một chủ thể nhất định. Tức là, sự vi phạm đã xảy ra thiệt hại cho người bị vi phạm. Việc này càng cho thấy thiệt hại là một căn cứ không thể thiếu trong việc làm phát sinh TNDS liên đới BTTH ngồi hơp đồng. Dù có hành vi gây thiệt hại nhưng lại khơng có thiệt hại phát sinh thì cũng khơng có bat cứ van
<small>đới BTTH.</small>
Các TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng sẽ được các chủ thể tham gia dé ra một cách cụ thé theo sự thoả thuận hoặc cũng có thể là dựa trên quy
<small>định của pháp luật dân sự. Tức là trong quan hệ này, bên phải thực hiện nghĩa</small>
<small>mang tính pháp lý sẽ ngăn ngừa tình trạng này xảy ra. Các biện pháp nàyđược thực hiện đúng với quy định của pháp luật.</small>
Thứ sáu, TNDS liên đới BTTH ngoài hợp dong khơng quan tâm đến
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">ngoài hợp đồng chỉ xảy ra khi đáp ứng được các điều kiện nhất định (về hành vi, về thiệt hại, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại) mà không
liên đới BTTH ngoài hợp đồng.
12.2. Những đặc điểm riêng của trách nhiệm dân sự liên đới bồi
Một là, chủ thé chịu TNDS liên đới BTTH ngoài hop dong
TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự cơ bản
TNDS liên đới BTTH có thé phát sinh dựa trên nhiều căn cứ khác nhau như phát sinh trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thé (thông qua quan hệ hop đồng) hoặc có thé phát sinh trên cơ sở quy định của pháp luật. Nhưng dù phát sinh trên cơ sở nào thì TNDS liên đới BTTH cũng là mối liên hệ thống nhất
<small>trách nhiệm BTTH và giữa họ có sự liên hệ, ràng buộc với nhau trong việc</small>
thực hiện trách nhiệm. Có thể đánh giá, mối liên hệ giữa các chủ thể chịu TNDS là đặc điểm quan trọng dé phân biệt với TNDS riêng rẽ. Trong TNDS riêng rẽ, các chủ thể có nghĩa vụ hay giữa các chủ thể có quyền bị xâm hại
<small>hồn tồn khơng có mơi liên hệ, ràng buộc lần nhau.</small>
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại, chủ thé chịu TNDS liên đới BTTH là những người cùng gây thiệt hại, có thé là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Đó có thể khơng phải là người gây ra thiệt hại khi trường hợp trong số những người cùng gây thiệt hại có cá nhân gây thiệt hại, nên phải xem xét đến năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân để xác định đúng chủ thé chịu TNDS liên đới BTTH; hay các trường hợp BTTH do người
BTTH có thê là trường học, bệnh viện, tơ chức khác hoặc cha, mẹ, người giám hộ của các đối tượng gây thiệt hại nêu trên phải chịu TNDS liên đới
<small>BTTH cùng với những người gây ra thiệt hai.</small>
Hai là, quyên và nghĩa vụ của các chủ thể
Trong trường hợp nhiều người có nghĩa vụ liên đới BTTH, người có
<small>có nghĩa vụ khơng có sự chủ động khi thực hiện nghĩa vụ, việc thực hiện như</small>
thé nào phụ thuộc hồn tồn vào ý thức của bên có quyên.
<small>Mỗi người khi có nghĩa vụ liên đới BTTH phải thực hiện trách nhiệm</small>
của mình một cách đầy đủ và chính xác. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, trong sỐ những người thực hiện nghĩa vụ không làm đúng trách nhiệm của mình thì bên có quyền có thể yêu cầu những người khác phải thực hiện thay
Cũng vì một ly do nao đó, nếu có một người đã thay mặt tồn bộ những
<small>người có nghĩa vụ khác thực hiện tồn bộ nghĩa vụ với bên có qun thì cũng</small>
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">sẽ làm chấm quan hệ BTTH ngồi hợp đồng, những người có nghĩa vụ chưa
<small>thực hiện sẽ khơng phải thực hiện nghĩa vụ của mình nữa, nói cách khác, chỉ</small>
cần bên có quyền được bảo đảm tính tồn vẹn quyền, nghĩa vụ của mình thì không cần quan tâm đến ai là người thực hiện nghĩa vụ. Tuy vậy, những
<small>quan hệ dân sự mới với người đã thay mình thực hiện, gọi là nghĩa vụ hoàn</small>
<small>lại. Trong trường hợp này người đã thực hiện toàn bộ trách nhiệm liên đới trở</small>
<small>định khác nhau.</small>
Chính vì vậy, trong TNDS liên đới BTTH cần phải xác định rõ trách nhiệm của mỗi người chịu trách nhiệm là bao nhiêu trong khối thiệt hại
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">nghĩa vụ có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới hồn lại phần nghĩa vụ mà người có nghĩa vụ đã thay mình thực hiện xong. Nếu một trong
<small>những người có nghĩa vụ cịn lại khơng thực hiện trách nhiệm của mình (dokhơng có tài sản hoặc vì lý do nào đó) trước người đã thực hiện toàn bộ</small>
1.3. Nội dung trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Hành vi gây thiệt hại có thé được thực hiện bởi bat cứ chủ thé nao, có thé là cá nhân, pháp nhân hoặc một chủ thể đặc biệt mà pháp luật quy định, tuy
<small>* Cá nhân:</small>
Cá nhân là những người có TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng do
<small>hành vi cùng gây thiệt hại với người khác hoặc thay cho người gây thiệt hại</small>
béi thường như cha, mẹ, người giám hộ.... Nói cách khác, không phải moi cá nhân gây thiệt hại đều có khả năng thực hiện việc bồi thường hoặc khơng cần
liên đới BTTH ngoài hợp đồng khi họ đã thực hiện hành vi gây thiệt hại, cũng
<small>của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, mỗi cá nhân khác nhau có năng</small>
lực chủ thể mà chủ yếu là năng lực hành vi dân sự khác nhau phụ thuộc vào
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">thé chất, tinh thần, độ tuổi và các trường hợp cố định khác. Do đó, để xác định chủ thé là cá nhân chịu TNDS liên đới BTTH phụ thuộc vào năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của từng cá nhân.
Là một phần của năng lực TNDS, việc xác định trách nhiệm BTTH
<small>hậu quả cho người bị thiệt hại.</small>
+ Thể chất, tinh thần: Thông thường, thé chat, tinh thần phát triển cùng
<small>năng thực hiện nghĩa vụ BTTH, do đó việc xác định năng lực trách nhiệm</small>
BTTH của họ có ý nghĩa quan trọng để tạo ra giải pháp bảo đảm quyền của
<small>người bị thiệt hại.</small>
+ Các yếu tố khác: Khác với năng lực trách nhiệm dân sự, với năng lực BTTH ngoài hợp đồng đặt ra nhiều trường hợp nhằm loại bỏ nghĩa vụ BTTH
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">pháp nhân khác. Trong khi đó, các chủ thể này vẫn ln tham gia vào các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội và có khả năng gây thiệt hại. Việc này xuất phát từ bản chất của từng chủ thé. Việc đánh giá các yêu tố trên chỉ có thé đánh giá ở con người, với những chủ thé mang tính pháp lý thì khó có thé
<small>đánh giá chính xác.</small>
Vì vậy, khi áp dụng pháp luật dé giải quyết tranh chấp về TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng trong một vụ việc cụ thé liên quan đến các chủ thé trên, người áp dụng pháp luật cần áp dụng quy định pháp luật dân sự và pháp
luật khác có liên quan đến chủ thể có trách nhiệm bồi thường. * Pháp nhân và tổ chức khơng có tu cách pháp nhân
Pháp nhân hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các cơ quan Nhà nước, các tơ chức chính trị, chính trị - xã hội; t6 chức xã hội, hộ gia đình, tổ hợp tác và
Thiệt hại gây ra trong trường hợp liên đới BTTH ngồi hợp đồng có thể
là những hành vi mang tinh “dai điện” cho các chủ thé khác khi tham gia vào những quan hệ xã hội - dân sự nhất định. Do vậy, khi có nhiều chủ thể cùng
<small>gây ra thiệt hai sẽ làm phát sinh trách nhiệm BTTH lên chính những cá nhân</small>
đó hoặc cho chủ thể mà các cá nhân đó “đại diện” thực hiện hành vi.
Nói cách khác, các chủ thé nay phải chịu TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại điện xác lập
<small>nhân danh pháp nhân khi thiệt hại do họ gây ra. Tuy vậy, bản thân pháp nhân</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">sinh trách nhiệm BTTH khi một người của pháp nhân (đáp ứng được các điều kiện của cá nhân và các điều kiện dé thay mặt pháp nhân) gây thiệt hai.
Pháp nhân là một chủ thé pháp lý, bản thân pháp nhân không thé cùng các chủ thể khác gây thiệt hại để làm phát sinh TNDS liên đới BTTH ngoài hợp đồng mà việc xác định trách nhiệm của pháp nhân thông qua một cá nhân
- một con người thực thể nhân danh, thay mặt pháp nhân thực hiện các công
Tổ chức khơng có tư cách pháp nhân như hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia quan hệ dân sự, trong đó có quan hệ về BTTH ngồi hợp đồng thì các thành viên trong các chủ chức này sẽ là chủ thê tham gia xác lập, thực
<small>sử dụng tài sản gây ra</small>
Việc gây thiệt hại không chỉ do hành vi của bản thân con người dẫn đến cá nhân, pháp nhân phải chịu TNDS liên đới BTTH mà đơi lúc cịn xuất phát
Do có liên quan đến vấn đề tài sản, vì vậy khi xác định chủ thé (ca nhan,
<small>pháp nhân) phải chịu TNDS liên đới BTTH trong trường hop sử dụng tai san</small>
gây ra cần phải làm rõ các loại chủ thé sau:
<small>- Chủ sở hữu</small>
<small>của chủ sở hữu tai sản. Bởi lẽ, chủ sở hữu tai sản được thụ hưởng các lợi ich</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">do tài sản mang lại nên cũng phải chịu TNDS liên đới BTTH nếu tài sản gây ra thiệt hại. Hơn thế nữa, chủ sở hữu cịn là chủ thể có trách nhiệm quản lý,
Không phải mọi trường hợp tài sản đều nằm trong sự chiếm hữu, sử dụng của chủ sở hữu. Trong nhiều trường hợp chủ sơ hữu đã giao tài sản của mình cho chủ thé khác chiếm hữu, sử dụng thơng qua một giao dịch dân sự.
Do đó, trong nhiều trường hợp TNDS liên đới BTTH lại thuộc về chủ thé
<small>dụng tài sản gây ra sẽ phụ thuộc có thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hay</small>
khơng? Nếu các bên có thoả thuận thì căn cứ vào thoả thuận để phát sinh
<small>- Người sử dụng tai san trái pháp luật</small>
Chủ thé sử dung tài sản trái pháp luật là những chủ thé sử dụng không được sự đồng ý của chủ sở hữu và các trường hợp pháp luật quy định được
chiếm hữu và sử dụng tài sản. Việc sử dụng tài sản gậy thiệt hại thì đương nhiên chủ thé sử dụng tài sản trái pháp luật phải bồi thường.
Một trong những căn cứ quan trọng dẫn đến việc BTTH đó là “gáy thiét
<small>hại do hành vi trái pháp luật”, noi cách khác, khi có một hành vi do các chu</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">thé trong xã hội thực hiện, hành vi này trực tiếp ảnh hưởng lên đối tượng tác động một cách trái pháp luật thì phải có trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm này khơng những nhằm khơi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại mà
còn giáo dục mọi người ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích
+ Phải có thiệt hại xảy ra trên thực tế và thiệt hại phải là một thé thống nhất, không thé phân chia.
+ Hành vi gây thiệt hại do nhiều người cùng gây ra một cách trái pháp luật.
nhân quả mật thiết với nhau.
Trong đời sống xã hội, có những sự kiện xảy ra bất ngờ và khả năng của con người khơng thê kiểm sốt và phịng ngừa có hiệu quả được. Có những
<small>kiện phat sinh TNDS liên đới BTTH nêu trên sẽ khơng đúng khi áp dụng nó</small>
dé xem xét van đề BTTH do tài sản gây ra. Xuất phát từ việc căn cứ phát sinh
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>trách nhiệm BTTH trong trường hợp TNDS liên đới BTTH do hành vi conngười gây ra và TNDS liên đới BTTH do tai sản gây ra có sự khác nhau, từng</small>
điều kiện gây ra thiệt hại của 02 trường hợp trên cần được phân tích đề thấy rõ hơn về sự khác biệt. Từ đó, khi giải quyết van dé bơi thường, chủ thé áp
<small>* Phải có thiệt hại xảy ra</small>
Khi có hành vi trái pháp luật của nhiều người cùng gây thiệt hại, các đối
Thiệt hại liên quan đến vật chất chủ yếu là van dé tài sản. Đó có thé là việc tài sản bị hư hỏng, giảm giá trị sử dụng hoặc mất hoàn toàn giá tri su dung,... Thiệt hại liên quan đến tinh than thường gan liền với cá nhân, đó là
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>cách thoả đáng. Tuy vậy, không chỉ cá nhân, với các pháp nhân cũng phát</small>
sinh thiệt hại về tinh thần. Đó cũng có thé là danh dự, uy tín của tổ chức bị hạ
<small>khăn trong vận hành cơng việc chun mơn của pháp nhân.</small>
<small>* Phải có hành vi trái pháp luật</small>
<small>Thiệt hại phải do hành vi trái pháp luật gây ra. Hành vi này là các xử sự</small>
của con người. Các xử sự này được thê hiện ra bên ngồi với hai hình thức là
<small>hành động hoặc khơng hành động trái với quy định của pháp luật. Thông qua</small>
Hành vi trái pháp luật là hành vi bị pháp luật cắm hay không cho phép thực hiện. Việc xác định hành vi trái pháp luật để xác định TNDS liên đới
<small>phát sinh TNDS liên đới BTTH. Hành vi trái pháp luật được thực hiện dưới</small>
dạng hành động dễ được xác định hơn hành vi trái pháp luật được thực hiện
<small>dưới dạng không hành động, do họ thực hiện không đúng các quy định của</small>
pháp luật. Cịn khơng hành động được coi là hành vi trái pháp luật nếu các chủ thể khơng thực hiện một hành vi nào đó mà theo quy định của pháp luật, các chủ thé đó có nghĩa vụ phải thực hiện nhưng họ không thực hiện. Tuy nhiên, trường hợp các chủ thể không thực hiện vì khơng thể thực hiện được
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">bởi họ khơng có khả năng để thực hiện (do hồn cảnh, do sức khỏe, do
<small>chun mơn...) thì khơng được coi là hành vi trái pháp luật.</small>
Trường hợp nhiều người cùng phát sinh TNDS liên đới BTTH thông thường là do họ cùng nhau thực hiện một chuỗi hành vi cụ thể với mỗi người
<small>một hành động trong hành vi chung hoặc cùng lúc thực hiện các hành động</small>
với nhau trực tiếp lên đối tượng chịu tác động. Tuy nhiên, đôi lúc cũng có trường hợp nhiều người chỉ có hành vi gián tiếp nhưng tạo ra các điều kiện để
<small>cho những người khác gây ra hậu quả thì cũng làm phát sinh TNDS liên đới</small>
BTTh ngoài hợp đồng.
* Giữa hành vi gây thiệt hai và thiệt hại đã xảy ra phải ton tại một liên kết — moi quan hệ nhân quả
<small>Giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật của những người gây ra thiệt hại</small>
phải có mối quan hệ nhân quả, tức là hành vi trái pháp luật của những người
<small>gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại, những người gây thiệt hại</small>
mới phải chịu TNDS liên đới BTTH. Nói cách khác, nếu giữa những hành vi
<small>quả, những người có hành vi trái pháp luật đó khơng phải chịu TNDS liênđới BTTH.</small>
Hành vi trái pháp luật của các chủ thé chỉ được coi là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại khi thiệt hại phải là hậu quả trực tiếp của hành vi trái pháp luật thì mới được bồi thường. Việc xác định mối quan hệ nhân quả này là điều kiện làm phát sinh TNDS liên đới BTTH có một số đặc điểm so với trách nhiệm BTTH nói chung. “Các đặc điểm nay là hệ quả của việc trách nhiệm
<small>hoặc khơng cùng thực hiện hành vi trai pháp luật. Chính vì lẽ đó nên khi xác</small>
định mối quan hệ nhân quả đề xác định trách nhiệm liên đới bơi thường thiệt
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">hại xảy ra. Cịn nếu các hành vi khơng cùng xảy ra đồng thời thì phải xác định được mối quan hệ nhân quả giữa các hành vi noi tiép nhau” [24, tr.475].
* Nhiéu người cùng gây thiệt hại
<small>Đây là nội dung quan trọng trong xác định TNDS liên đới BTTH ngoai</small>
hợp đồng. TNDS liên đới BTTH phát sinh khi nhiều người cùng gây thiệt hại, nếu chỉ có một người gây thiệt hại thì khơng làm phát sinh loại trách nhiệm
<small>trái với quy định của pháp luật.</small>
do mỗi người gây ra là bao nhiêu, hành vi trái pháp luật của mỗi người đều có
Tuy nhiên, thé nào là những người “cùng gây thiệt hai”? Mức độ lỗi của
Theo quan điểm của các nhà bình luận: “Nhiéu người cùng gây thiệt hại được hiểu là những người này cùng có hành vi tác động vào cùng một đối
tượng, gáy ra thiệt hai. Thiệt hại trong trường hợp này là một thể thống nhất không thể phân định được cho từng hành vi gây thiệt hại của từng người một”
<small>[17, tr.747].</small>
<small>và phải có TNDS liên đới BTTH:</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">- Những người gây thiệt hại có sự thống nhất về hành vi: Hành vi của nhiều người cùng gây thiệt hại không cần có yếu tố thống nhất về mặt ý chí
<small>phán định được hành vi gây thiệt hai cua từng người [22, tr.162]. Hanh vi</small>
<small>Vi dụ: Hai người cùng thực hiện hành vi đua xe, cùng tông vao một người</small>
<small>lệ thương tật 15%. Việc gây tai nạn của họ được coi là lỗi vô ý và pháp luật</small>
bắt buộc họ phải liên đới chịu trách nhiệm BTTH xảy ra.
- Những người gây thiệt hại cùng thong nhất ý chí về hậu quả: Nhiều
<small>bạc, thỏa thuận trước là sẽ cùng thực hiện một hành vi nào đó nhưng lại có sự</small>
<small>B có TNDS liên đới BTTH cho D.</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">- Những người gây thiệt hại cùng thơng nhất ý chí về hành vi và hậu quả: Thiệt hại xảy ra trong trường hợp này phát sinh từ lỗi cố ý của những
<small>người cùng gây thiệt hại. Họ có sự rủ rê, bàn bạc, phân công và cùng nhau</small>
thực hiện hành vi trái pháp luật dé gây ra thiệt hai như mong muốn.
Những người cùng gây thiệt hai cùng thống nhất ý chí về hành vi và hậu quả thé hiện rõ trong các vụ án hình sự có các đồng phạm, có nhiều người
có mối quan hệ với hành vi của mỗi người nên các đồng phạm phải chịu
<small>TNDS liên đới BTTH. Người chủ mưu, khởi xướng, rủ rê, lôi kéo người khác</small>
gây thiệt hại được coi là người “cùng gây thiệt hại” cho dù họ khơng trực tiếp gây ra thiệt hại, chỉ cần có sự thống nhất ý chí về việc gây ra thiệt hại là đủ dé coi là cùng gây thiệt hại va làm phát sinh trách nhiệm liên đới. Tinh huống
<small>đóng góp trong việc thực hiện hành vi phạm tội làm phát sinh hậu quả chung,</small>
trong đó chỉ người thực hành là người trực tiếp gây ra hậu quả, với người tổ chức, xúi giục, giúp sức sẽ coi là gây hậu quả một cách gián tiếp thông qua hành vi của những người thực hành. Hay hành vi của người có tổ chức, người
xúi giục, người giúp sức là nguyên nhân gián tiếp gây ra thiệt hại.
Trong TNDS liên đới BTTH ở các vụ án đồng phạm thì mối quan hệ nhân quả không chỉ là mối quan hệ nhân quả trực tiếp mà còn là mối quan hệ nhân quả gián tiếp giữa những người đồng phạm mà không trực tiếp gây ra
<small>chung. Có như vậy mới xác định được thiệt hại xảy ra là hậu quả chung của</small>
các hành vi trái pháp luật mà không thé phân tách thành các thiệt hại cụ thé ứng với mỗi hành vi phạm tội. Những người đồng phạm gây thiệt hại đều có
<small>34</small>
</div>