Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Luận văn: NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRỒNG CÂY LÂM NGHIỆP PHÂN TÁN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 133 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

  





HOÀNG THANH PHÚC




¬

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN TRỒNG CÂY LÂM NGHIỆP PHÂN TÁN
TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN








LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP











Thái Nguyên, năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

  





HOÀNG THANH PHÚC






NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN TRỒNG CÂY LÂM NGHIỆP PHÂN TÁN TẠI TỈNH THÁI

NGUYÊN


Chuyên ngành : Lâm học
Mã số : 60.62.60


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đặng Kim Vui
2. TS. Trần Thị Thu Hà



Thái Nguyên, năm 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp này được hoàn thành tại Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên theo chương trình đào tạo cao hoc Lâm nghiệp
hệ chính quy, khóa học 2006-2009.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn, tôi đã nhận được
sự quân tâm, giúp đỡ của của Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học và các thầy, cô
giáo Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, các sở, ban, ngành, các cơ quan
đơn vị, các bạn bè đồng nghiệp và địa phương nơi tôi thực hiện nghiên cứu.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.

Trước tiên, tôi xin đặc biệt cảm ơn PGS.TS Đặng Kim Vui, TS. Trần Thị
Thu Hà là những người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá
trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Thái Nguyên, Trung
tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên, Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Thái Nguyên, Chi
cục Kiểm lâm tỉnh Thái Nguyên, các Lâm trường, các Công ty, Xí nghiệp, Nhà
máy chế biến lâm sản, UBND các xã, các cơ quan, đơn vị, trường học và một số
hộ nông dân trồng rừng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện cung cấp
thông tin và số liệu giúp tôi hoàn thành bản luận văn thạc sỹ lâm nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, tháng 7 năm 2009
Tác giả



Hoàng Thanh Phúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC

Nội dung
Trang
Danh mục các chữ cái viết tắt
i
Danh mục các bảng
ii
Danh mục các sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
5
1.1. Tình hình nghiên cứu trến thế giới
5
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
7
1.2.1. Về nguồn gốc của trồng cây lâm nghiệp phân tán
7
1.2.2. Về hình thức tổ chức thực hiện
8
1.2.3. Về cơ chế, chính sách
8
1.2.4. Về cơ cấu cây trồng và chất lượng giống
11
1.2.5. Về các loại mô hình trồng cây phân tán
13
1.2.6. Về kết quả đạt được từ trồng cây phân tán
13
Chƣơng 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
16
2.1. Mục tiêu
16
2.2. Đối tượng nghiên cứu
16
2.3. Giới hạn nghiên cứu
16
2.4. Nội dung nghiên cứu
16
2.5. Phương pháp nghiên cứu

18
2.5.1. Cách tiếp cận của đề tài
18
2.5.2. Các bước tiên hành nghiên cứu
18
2.5.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
19
Chƣơng 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI KHU
VỰC NGHIÊN CỨU
23
3.1. Điều kiện tự nhiên
23
3.1.1. Vị trí địa lý
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.1.2. Địa hình
23
3.1.3. Khí hậu
24
3.1.4. Thủy văn
25
3.1.5. Các nguồn tài nguyên
25
3.1.6. Thực trạng môi trường
28
3.2. Đặc điểm dân sinh, kinh tế-xã hội
29
3.2.1. Dân số, dân tộc, lao động
29
3.2.2. Cơ sở hạ tầng

30
3.3. Thực trạng ngành lâm nghiệp
32
3.3.1. Hiện trạng sử dụng đất đai, tài nguyên rừng
32
3.3.2. Tài nguyên rừng
34
3.3.3. Hệ động, thực vật rừng
35
3.3.4. Tái sinh phục hồi rừng
36
3.3.5. Diễn biến tài nguyên rừng giai đoanh 2002-2007
36
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
39
4.1.Đánh giá hiện trạng chương trình trồng cây lâm nghiệp phân tán tại
tỉnh Thái Nguyên
39
4.1.1. Quá trình phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán
39
4.1.2. Hiện trạng về công tác quy hoạch trồng cây phân tán
40
4.1.2.1. Chức năng và mục đích của trồng cây lâm nghiệp phân tán
40
4.1.2.2. Quy hoạch trồng cây phân tán trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
43
4.1.3. Hiện trạng về công tác kỹ thuật trồng cây phân tán
46
4.1.4. Hiện trạng sinh trưởng, phát triển của các loài cây lâm nghiệp
được trồng phân tán trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

58
4.1.5. Hiện trạng quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng cây trồng phân tán
60
4.2. Sơ bộ tổng kết, đánh giá hiệu quả của các Mô hình trồng cây lâm
nghiệp phân tán đã có trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
71
4.2.1. Các mô hình trồng cây lâm nghiệp phân tán đã có ở tỉnh Thái Nguyên
71
4.2.2. Đánh giá các biện pháp kỹ thuật gây trồng
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4.2.3. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường
75
4.2.3.1. Hiệu quả kinh tế
75
4.2.3.2. Hiệu quả xã hội
79
4.2.3.3. Hiệu quả môi trường
81
4.3. Nghiên cứu chính sách của Nhà nước và chính quyền địa phương
về phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán
82
4.3.1. Chính sách của Nhà nước
82
4.3.2. Chính sách của tỉnh Thái Nguyên cho trồng cây phân tán
85
4.3.3. Những nhận xét và thảo luận về các chính sách cho trồng cây
phân tán
87
4.4.Phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho

trồng cây lâm nghiệp phân tán
89
4.4.1. Điểm mạnh, điểm yếu
89
4.4.2. Cơ hội và thách thức
94
4.5. Đề xuất một số giải pháp phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
97
4.5.1. Quan điểm và định hướng chung
97
4.5.2. Các giải pháp cụ thể
98
Chƣơng 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIÊN NGHỊ
105
5.1. Kết luận
105
5.2. Tồn tại
109
5.3. Kiến nghị
109
Tài liệu tham khảo
110
Phần phụ biểu
112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NN & PTNT
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

SD ĐNN
Sử dụng đất nông nghiệp
LSNG
Lâm sản ngoài gỗ
CLĐ
Công lao động
KHKT
Khoa học kỹ thuật
NPV
Giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng
BCR
Tỷ suất giữa thu nhập so với chi phí
IRR
Tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ
NC
Nhân công
UBND
Ủy ban nhân dân
TCCP
Tiêu chuẩn cho phép




























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG

B¶ng 3.1
BiÓu tæng hîp diÖn tÝch 3 lo¹i rõng tØnh Th¸i Nguyªn
B¶ng 3.2
DiÔn biÕn rõng giai ®o¹n 2000 – 2007
Bảng 4.1
Tổng hợp khối lượng cây trồng phân tán giai đoạn 2002-2007.
Bảng 4.2
Thành phần loài cây trồng phân tán chủ yếu trên địa bàn

Bảng 4.3
Năng suất một số loài cây trồng phân tán chủ yếu
Bảng 4.5
Thống kê thu nhập và chi phí mô hình Keo lai trồng phân tán
Bảng 4.6
Thống kê thu nhập và chi phí mô hình Keo tai tượng trồng phân tán
Bảng 4.7
Thống kê thu nhập và chi phí mô hình Mỡ trồng phân tán
Bảng 4.8
Tổng hợp các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của các mô hình trồng cây phân tán
Bảng 4.9
Công lao động tạo ra từ các mô hình trồng cây phân tán
Biểu 4.10
Tiềm năng diện tích đất đai có khả năng trồng cây phân tán


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH

Sơ đồ 2.1
Phương hướng giải quyết vấn đề của luận văn
Sơ đồ 2.2
Các bước tiến hành nghiên cứu
Ảnh 4.1
Vườn ươm cây giống Keo tai tượng trồng phân tán tại Đồng Hỷ
Ảnh 4.2
Xuất cây giống trồng phân tán tại huyện Đồng Hỷ
Ảnh 4.3
Keo lai trồng phân tán theo hàng tại huyện Đồng Hỷ

Ảnh 4.4
Keo lai trồng theo hàng tại Thành phố Thái Nguyên
Ảnh 4.5
Keo tai tượng trồng theo dải tại Võ Nhai
Ảnh 4.6
Keo tai tượng trồng theo đám tại Võ Nhai
Ảnh 4.7
Keo lai trồng theo đám tại Phú Bình
Sơ đồ 4.1
Hệ thống quản lý trồng cây phân tán tại tỉnh Thái Nguyên.
Ảnh 4.8
Mô hình trồng Keo tai tượng phân tán theo đường giao thông liên xóm tại
huyện Đồng Hỷ
Ảnh 4.9
Mô hình trồng Keo lai phân tán tại Trường học ở Thành phố Thái
Nguyên
Ảnh 4.10
Mô hình trồng Keo tai tượng phân tán trên đất vườn hộ
tại Đại Từ
Biểu đồ 4.1
Tỷ lệ các loài cây lâm nghiệp trồng phân tán




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
MỞ ĐẦU
Việt Nam với kho¶ng 58% diện tích là vùng đồi núi, đây là nơi sinh sống
của 25 triệu đồng bào thuộc 54 dân tộc, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít

người mà cuộc sống của họ luôn gắn bó mật thiết với đất rừng và các sản phẩm
từ rừng [6]. §ây cũng là nơi hoạt động chủ yếu của ngành lâm nghiệp. Vì vậy,
việc xã hội hoá ngành lâm nghiệp không chỉ là một yêu cầu thực tế khách quan
của Việt Nam mà nó còn phù hợp với xu thế phát triển nghề rừng trên thế giới,
đặc biệt là các nước đang phát triển.
Ở Việt Nam quá trình chuyển hướng mang tính chiến lược của ngành lâm
nghiệp từ lâm nghiệp thuần tuý nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân- lâm nghiệp
xã hội (xã hội hoá ngành lâm nghiệp) được thực hiện từ những năm đầu 1990
cho đến nay, đã tạo ra nhiều nhân tố tích cực mới, đa dạng hoá các hình thức
quản lý và phương thức tiếp cận đối với quản lý tài nguyên rừng. Qua đó, ngoài
lâm nghiệp quốc doanh còn phát huy được vai trò của các thành phần kinh tế
khác, đặc biệt là cộng đồng và các hộ gia đình tham gia quản lý bảo vệ và phát
triển vốn rừng.
Trong thời gian qua, bên cạnh việc đầu tư đẩy mạnh trồng rừng theo
Chương trình trồng 5 triệu ha rừng của cả nước, Chương trình trồng cây phân
tán cũng đã và đang là một hình thức được Chính phủ, các bộ ngành và các địa
phương quan tâm, khuyến khích nhằm huy động tối đa nguồn lực của các tổ
chức, đơn vị, cá nhân và hộ gia đình tham gia vào phát triển rừng theo hướng
lâm nghiệp xã hội.
Theo thuật ngữ Lâm nghiệp của Vụ Khoa học công nghệ, Bộ Lâm nghiệp
cũ, nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) năm 1996,
thì trồng cây phân tán hay con gọi là trồng cây nhân dân (Scatteret trees
planting) là trồng cây xen kẽ ở các khu dân cư hoặc ở các khu sản xuất lâm
nghiệp, công nghiệp khác ngoài vùng sản xuất lâm nghiệp tập trung, do nhân
dân sở tại làm dưới sự hướng dẫn của cơ quan lâm nghiệp.
Trồng cây phân tán ở Việt Nam đã có từ lâu và tạo thành phong trào cụ
thể, được bắt đầu từ năm 1959 nhân ngày Tết âm lịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12

đã phát động phong trào trồng cây. Khi nước nhà thống nhất, Thủ tướng
Chính phủ đã ra Chỉ thị số 425/TTg ngày 19/11/1977 về việc phát triển phong
trào trồng cây nhân dân phân tán trong cả nước. Chỉ thị này đã tạo đà cho việc
phát triển trồng cây phân tán nhanh chóng, sôi nổi, rộng khắp trên phạm vi
toàn quốc.
Trồng cây lâm nghiệp phân tán có mặt ở trên khắp mọi vùng, mọi miền,
mọi khu vực của đất nước, từ vùng Đồng bằng đến vùng Trung du miền núi,
từ khu vực nông thôn đến thành thị và cây trồng mang tính đặc trưng cho
những khu vực đó. Ví dụ như ở vùng đồng bằng và trung du, nhân dân trồng
các cây gỗ phổ biến là Xoan ta, Tre gai, Bạch đàn, Sấu, Trám, Lát hoa, Me
nhằm mục đích tạo cảnh quan bóng mát làm hàng rào cho các vườn cây ăn
quả, bảo vệ đồng ruộng và hoa màu đồng thời cung cấp gỗ củi, chất đốt cho
nhân dân; còn ở vùng ven biển trồng các loại cây Phi lao để phòng hộ chắn
sóng và cát bay; hoặc ở khu vực nông thôn, người dân trồng một số các cây
gỗ để bảo vệ bờ ao, bảo vệ đồng ruộng chống xói lở trong mùa mưa như
Xoan, Bạch đàn, Keo; hay khu vực chùa, đình, miếu, cổng làng nhân dân
trồng các loại như Đa, Si, Đề, Chò, Thông đỏ vừa biểu hiện cho sự uy
nghiêm, linh thiêng vừa tạo kiến trúc, cảnh quan và bóng mát; khu vực các
công sở, trường học, bệnh viện, khu công nghiệp trồng các loại cây như
Thông, Sấu, Lát hoa, Me, Phượng vĩ, Bằng lăng và Bàng vừa tạo kiểu dáng
kiến trúc đẹp cho đơn vị, vừa tạo bóng mát, chống cát bụi, khí độc và tiếng
ồn, cải thiện và điều hoà không khí.
Những giá trị của trồng cây phân tán đã đem lại hiệu quả rất to lớn,
thiết thực và mang tính đa tác dụng, không chỉ mang giá trị về mặt kinh tế
(cung cấp sản phẩm lâm sản cho công nghiệp chế biến, gỗ củi chất đốt cho
nhân dân), giá trị về mặt xã hội (tạo thêm công ăn việc làm cho lao động nông
thôn), mà còn mang giá trị to lớn về mặt văn hoá, tín ngưỡng, kiến trúc và
đặc biệt quan trọng là giá trị về mặt môi trường trong việc phòng hộ sinh thái,
tạo cảnh quan và cải thiện môi sinh.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Nhận thức được vai trò quan trọng và lợi ích to lớn của việc trồng
cây phân tán, Bộ NN & PTNT đã phê duyệt Đề án phát triển trồng cây lâm
nghiệp phân tán giai đoạn 2006-2020 trên phạm vi toàn quốc tại Quyết
định số 2241/QĐ-BNN-LN, ngày 03/02/2006 với mục tiêu:
- Duy trì và phát triển được phong trào trồng cây nhân dân mà Bác
Hồ đã khởi xướng, tạo thành một nét đẹp truyền thống của dân tộc.
- Tạo ra sản phẩm hàng hoá góp phần đảm bảo nguyên liệu gỗ cho công
nghiệp chế biến đồ gỗ, giảm nhập khẩu gỗ lớn.
- Tận dụng triệt để qũy đất và lao động góp phần tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống cho
người dân và giảm sức ép vào rừng tự nhiên.
- Góp phần bảo vệ các công trình hạ tầng cơ sở, bảo vệ đất đai, phòng
hộ sản xuất nông nghiệp và bảo về môi trường sinh thái.
Với nhiệm vụ của Đề án trồng mới 2 tỷ cây phân tán trong đó trồng 1,2
tỷ cây cung cấp gỗ lớn và 0,8 tỷ cây gỗ nhỏ. Giai đoạn I (2006-2010); trồng
mới 1 tỷ cây trong đó 400 triệu cây cung cấp gỗ nhỏ và 600 triệu cây cung
cấp gỗ lớn. Giai đoạn II (2010 - 2020); khai thác và chế biến sản phẩm 400
triệu cây gỗ nhỏ đã trồng trong giai đoạn I và trồng mới 1 tỷ cây trong đó 400
triệu cây cung cấp gỗ nhỏ và 600 triệu cây cung cấp gỗ lớn. Việc làm này
không chỉ thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia mà còn huy động được
nhiều nguồn vốn từ các tổ chức cá nhân và các thành phần kinh tế khác trong
và ngoài nước cho phát triển trồng cây, trồng rừng.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía bắc với tổng diện tích
tự nhiên 354.150 ha, dân số 1.137.671 người cư trú trên địa bàn 7 huyện, 1 thị
xã và 1 thành phố. Bên cạnh việc phát triển trồng rừng theo các chương trình
dự án của trung ương và của tỉnh thì trồng cây lâm nghiệp phân tán cũng là
một trong những hình thức được nhân dân hết sức quan tâm hưởng ứng tham
gia [10].

Tuy nhiên, trong năm qua, trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn
tỉnh mặc dù đã được phát động và tổ chức thực hiện, nhưng vẫn còn nổi lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
nhiều bất cập, nhiều chỗ nhiều nơi còn mang tính tự phát, hình thức, thiếu
quy hoạch và chưa có chính sách hỗ trợ đồng bộ, nhất quán trong tổ chức
thực hiện. Mặt khác việc đánh giá về trồng cây lâm nghiệp phân tán còn chưa
được quan tâm, chưa có nghiên cứu nào đi vào phân tích hiện trạng để tìm ra
những điểm mạnh, điểm yếu, những tồn tại, khuyết điểm, từ đó có chính sách
và giải pháp hiệu quả để thúc đẩy phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán
của tỉnh ngày một hiệu quả hơn.
Xuất phát từ lý do trên việc tiến hành đề tài “Nghiên cứu hiện trạng và
giải pháp phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên” là hết sức cần thiết về cả ý nghĩa khoa hoc và thực tiễn.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Thật khó xác định phong trào trồng cây phân tán trên thế giới có từ bao
giờ. Nhưng chắc chắn khi con người có nhu cầu về củi đun và cần gỗ gia dụng,
gỗ làm nhà cửa và cần phải trồng cây để giảm bớt các tác hại của thiên tai như
gió, bão, hạn hán, cát bay, cát bị nhiễm mặn nhằm đảm bảo sản xuất nông
nghiệp có năng suất cao và ổn định thì con người đã biết trồng cây phân tán. Lúc
đầu từ 1 vài hộ dân lẻ tẻ, sau do hiệu quả kinh tế đạt được khá cao và thỏa mãn
được các yêu cầu của cuộc sống nên trồng cây phân tán trong dân đã trở thành

phong trào rộng rãi hơn. Nhiều vùng đất sa mạc khô cằn ở Châu Phi, chỉ có cỏ
mọc như ở Kênya, Negira, Ma-Rốc người ta đã biết trồng cây lấy gỗ chủ yếu
là trồng cây gỗ họ Đậu có khả năng cố định đạm. Họ đã trồng thành các hàng
cây, hay băng cây, chia đồng cỏ chăn nuôi thành nhiều ô để thực hiện chăn thả
gia súc luân phiên, hoặc trồng cây gỗ rải rác trên đồng cỏ để giữ độ ẩm cho đất,
và tạo bóng mát cho gia súc[15].
Ở Trung Quốc, Srilanca và Ấn Độ, các cây gỗ được trồng rải rác để tạo
bóng mát cần thiết cho các vườn chè, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng
của chè [13], [17],[19].
Ở Braxin và Inđônêsia cây phân tán được trồng để tạo bóng mát cần thiết
cho các vườn trồng cà phê, Ca cao. Ở Nepal cũng được áp dụng rộng rãi phương
thức trồng cây phân tán để tạo thành các băng cây xanh theo đường đồng mức
nhằm chống xói mòn đất, cung cấp phân xanh và củi cho các hộ dân [14]
Ở New Zealand các trang trại có thể dử dụng tổng hợp dải rừng phòng hộ,
cây che bóng mát, cây lấy gỗ trồng trên cánh đồng cỏ rộng lớn, hoặc các vạt đất
được dành cho trồng cây, trồng rừng dày đặc [16].
Ở những vùng ôn đới ẩm ướt của Australia các giống Bạch đàn và Pinus
radiata (chiếm phạm vi hẹp hơn) là những loài cây gỗ ưu thế được trồng để lấy
gỗ, tạo bóng mát, phòng hộ, ngăn mặn, chống xói mòn. “Chương trình một tỷ
cây” đã được khởi xướng bở Chính phủ liên bang Australia, chương trình có hỗ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
trợ tài chính nhất định cho việc trồng cây, liên kết những chủ trang trại dám làm
với chính quyền các bang và công nghiệp địa phương là phổ biến để thực hiện
chương trình này. Ngoài ra, hầu hết chính quyền các bang đều cung cấp dịch vụ
tư vấn, trồng cây và giảm thuế. Các nhóm bảo vệ đất địa phương được thành lập
nhằm khuyến khích nông nghiệp bền vững, cũng đẩy mạnh trồng cây, nhất là
những vùng đất thoái hóa [16]
Theo kết quả điều tra cây trồng phân tán ở Ấn Độ (1991-1995) cho thấy:

Theo tập quán lâu đời, với đặc tính văn hóa của người Ấn Độ, thì trồng cây là
một phần trong toàn bộ hệ thống canh tác nông nghiệp ở Ấn Độ, để cung cấp
nguồn gỗ, củi, thức ăn gia súc và phân xanh cho nhu cầu của người dân địa
phương. Ngoài các tác dụng về môi trường như bảo về đất và nguồn nước, bảo
tồn đa dạng sinh học, còn tăng mức độ hấp phụ cacbon và nâng cao hàm lượng
oxy trong không khí. Cho nên ngay từ năm 1970, một chương trình Lâm nghiệp
xã hội đã được thực hiện ở Ấn Độ, nhằm thúc đẩy mọi người dân tham gia rộng
rãi vào phong trào trồng cây phân tán, có sự trợ giúp và hướng dẫn của Nhà
nước nhằm giảm bớt sức ép lên rừng tự nhiên. Cung cấp nguồn gỗ, củi và thức
ăn gia súc cho người dân địa phương và chắn gió hại cho các cây nông nghiệp.
Và đến năm 1980 hầu hết các vùng đất rộng lớn ở ấn Độ đã trồng theo chương
trình này.
Kết quả điều tra ở Bang Haryana nằm ở phía Tây Bắc Ấn Độ cho thấy:
Diện tích tự nhiên của Bang Haryana 4,42 triệu ha
Diện tích đất không có rừng là: 4,36 triệu ha
Diện tích đất có rừng là: 60.000 ha (độ che phủ của rừng 1,36% diện tích
tự nhiên của Bang)
Tổng số làng đã điều tra là 219 làng, thuộc 12 huyện của Bang
Tổng số cây trồng phân tán ở Haryana là 54.984.000 cây, trải rộng trên
4,36 triệu ha, bình quân 12,6 cây/ha.
Tổng trữ lượng cây phân tán là 10,3 triệu m
3
hay 2,36 m
3
/ha

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Khi so sánh với trữ lượng gỗ rừng tự nhiên của Bang là 1,41 triệu m
3

, thì
trữ lượng gỗ rừng trồng cây phân tán cao hơn gấp 7 lần. Gồm có 9 loại cây trồng
phổ biến, chiếm 80% tổng trữ lượng.
Tỷ lệ cây trồng nhiều nhất là Lâm nghiệp trang trại 41% (diện tích tối đa
là 0,1 ha), sau đó đến rừng làng (23%), trồng cây bên đường (13%), rừng trồng
(11%) diện tích cây che phủ lớn hơn 0,1 ha, trồng cây dọc kênh mương (9%),
trồng cây xung quanh bờ ao và các loại còn lại (3%)[18].
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
2.2.1. Về nguồn gốc của trồng cây lâm nghiệp phân tán:
Trước năm 1959, ở Việt Nam chưa có phong trào trồng cây phân tán, các
hộ dân ở đồng bằng cũng như miền núi chỉ có tập quán trồng các cây ăn quả
thân gỗ trong các vườn hộ gia đình như Nhãn, Vải, Cam, Quýt, Mít, Hồng xiêm,
Sầu riêng, Măng cụt.v.v chủ yếu phục vụ cho gia đình và cung cấp nhỏ lẻ cho
thị trường. Từ năm 1959, nhân ngày Tết âm lịch, Hồ Chủ tịch đã phát động
phong trào trồng cây và từ đó Người thường xuyên theo dõi, nhắc nhở động viên
phong trào. Tết trồng cây dần trở thành một phong tục tốt đẹp của nhân dân ta.
Nhìn lại kết quả trồng cây các năm ta thấy năm 1955 - 1956 chỉ có 3 tỉnh tham
gia phong trào trồng cây là Thanh Hoá, Nghệ An, Phú Thọ đã trồng được
445.000 cây phân tán chủ yếu là trồng Phi Lao trên đất cát vùng ven biển, trồng
Xoan, Tre ở các vùng đồng bằng và một số cây ăn quả ở Trung du. Đến năm
1959, có tới 26 tỉnh trên tổng số 31 tỉnh ở miền Bắc tham gia phong trào trồng
cây và kết quả là đã trồng được 14 triệu cây [2].
Trồng cây phân tán được coi là một hoạt động lâm nghiệp phong trào hay
lâm nghiệp quần chúng, được phát triển mạnh theo lời kêu gọi thực hiện Tết
trồng cây được Bác Hồ phát động từ năm 1959. Từ đó đến nay hàng năm kể cả
những năm chiến tranh ác liệt, năm nào ở khắp mọi nơi nhất là ở các thành phố
lớn cứ đến độ xuân về cũng tổ chức lễ phát động tết trồng cây, huy động hàng
chục vạn người trồng được hàng triệu cây xanh cùng với sự tham gia của các vị
lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể ở địa phương. Hoạt động
đó đã trở thành phong trào, tạo thành một lễ hội truyền thống tốt đẹp không chỉ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
được tổ chức hàng năm qua gần tròn nửa thế kỷ mà trong tương lai còn được
duy trì đều đặn, mãi mãi cho các thế hệ mai sau. Hoạt động đó luôn luôn nhắc
nhở, giáo dục quảng đại quần chúng quan tâm gây trồng, bảo vệ, yêu cây xanh
và quý rừng vàng, không chỉ có ý nghĩa xã hội lớn mà còn đóng góp nâng cao
lợi ích kinh tế và môi trường cho đất nước [4].
Từ sau ngày 19/11/1977, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 425 TTg
"Về việc phát triển phong trào trồng cây nhân dân phân tán trong cả nước"
nhằm thực hiện tốt hơn nữa Tết trồng cây, phong trào đã được lan rộng khắp
cả nước, số lượng cây trồng hàng năm tăng lên gấp bội, loài cây cũng đa dạng
và phong phú. Tết trồng cây đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam từ Bắc đến Nam [1],
2.2.2. Về hình thức tổ chức thực hiện:
Trồng cây phân tán là một hoạt động mang tính chất lâm nghiệp phong
trào. Hưởng ứng Tết trồng cây hàng năm, ở khắp mọi miềm, tuỳ nơi, tuỳ lúc các
cấp chính quyền, đoàn thể, các ngành, các giới, các lực lượng bộ đội, học sinh
đã tổ chức hàng loạt các hoạt động trồng cây gây rừng được phát động dưới
nhiều hình thức phong trào như: Phong trào trồng cây phân tán, phong trào xanh
làng đẹp phố, phong trào xây dựng đồi cây, rừng cây Bác Hồ. Hoạt động của các
phong trào này có quy mô hẹp, không đồng thời, phân tán rải rác ở nhiều nơi và
gắn chặt những người tham gia thực hiện. Cây rừng và rừng được tạo ra bằng
công việc gây trồng, chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý, bảo vệ từng địa bàn cụ thể
với cả chuỗi thời gian lâu dài hơn. Do vậy ngoài việc tạo dựng được ý thức, lòng
say mê còn giúp họ, đòi hỏi họ tiếp tục nắm bắt, nâng cao và thực hiện các kỹ
thuật và công nghệ gieo trồng, xây dựng, phát triển và bảo vệ rừng [7].
2.2.3. Về cơ chế chính sách:
Cơ chế chính sách cho trồng cây phân tán trong thời gian qua chưa được
rõ ràng và còn nổi lên nhiều bật cập.

Sau năm 1990 do nhiều nguyên nhân khác nhau, phong trào trồng cây
phân tán có phần lắng xuống, các cấp các ngành ít quan tâm, một số cơ sở, tập
thể và cá nhân trồng cây tốt chỉ là do tự phát, việc tổ chức chỉ đạo không chặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
chẽ. Ngay cả trong chương trình 327 và sau này là dự án 661 đều không có nội
dung đầu tư cho mảng trồng cây phân tán. Do vậy thiếu cơ chế chính sách để
khuyến khích và tạo động lực cho phong trào trồng cây phân tán phát triển [4].
Đầu tư cho trồng cây phân tán từ lâu nay không thành một chủ trương
thống nhất, mà do từng địa phương, từng tổ chức và cá nhân, tập thể tự quyết
định. Vì vậy hiệu quả thu đươc không cao, vẫn là hình thức mang tính
phong trào.
Tuy nhiên một số địa phương, hộ nông dân và các thành phần kinh tế
khác, trong từng điều kiện cụ thể họ vẫn đầu tư và vẫn hình thành chính sách
hoặc những quy ước để phát triển trồng cây phân tán.
Theo đánh giá của Bộ NN & PTNT tại Đề án phát triển trồng cây Lâm
nghiệp phân tán giai đoạn 2006-2020, những chính sách này được tổng hợp
như sau:
- Về quản lý sử dụng đất: Hầu hết các địa phương chưa có quy hoạch đất
đai dành cho dành cho trồng cây phân tán. Các đối tượng trồng cây phân tán
hiện nay cũng được phân ra các chủ sở hữu như sau:
+ Tập thể: gồm các diện tích nằm trong khuôn viên của các công sở
(trường học, bệnh viện, cơ quan, xí nghiệp, khu công nghiệp), diện tích đất
quanh nghĩa trang, ven đường giao thông nông thôn, bờ kênh, bờ mương. Việc
trồng và sử dụng cây phân tán ở đối tượng này thường giao cho tập thể công
đoàn, thanh niên, phụ nữ, các cụ phụ lão,vv tổ chức quyết định phương án.
+ Cá nhân: gồm các diện tích nằm trong vườn hộ gia đình, đất nằm trong
diện tích được giao khoán cho hộ nông dân để sản xuất nông nghiệp. Việc trồng
cây ở đối tượng này là do chủ hộ quyết định.

+ Tổ chức: một hình thức sở hữu khác là các diện tích đất sản xuất của
các nông lâm trường được quy hoạch để trồng cây phân tán và coi đó như một
hoạt động sản xuất chính của đơn vị. Phương án trồng và sử dụng cây phân tán
được tổ chức ấy quyết định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
- Về chính sách đầu tư: Từ lâu nay việc đầu tư cho trồng cây phân tán
không thành một chủ trương thống nhất, mà do từng địa phương, từng tổ chức
và các cá nhân tập thể tự quyết định.
+ Đầu tư từ nguồn ngân sách: Tuy không thành chủ trương nhưng một
số tỉnh hàng năm vẫn trích một khoản ngân sách địa phương để dành cho trồng
cây phân tán. Ví dụ Nghệ An dành mỗi năm 120 triệu đồng, Đồng Nai dành mỗi
năm 450 triệu, Hải Dương dành mỗi năm 400 triệu và An Giang mỗi năm dành
gần 1 tỷ đồng cho trồng cây phân tán.
+ Đầu tư từ nguồn vốn tự có: Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã bỏ vốn
tự có hàng tỷ đồng để trồng cây phân tán như Nông trường Sông Hậu, Nông
truờng Cần Thơ; Nông trường Cờ đỏ và Nông trường Hậu Giang. Qua điều tra
cho thấy các đơn vị tự bỏ vốn để trồng đều đem lại hiệu quả cao.
+ Cá nhân bỏ vốn: các đối tượng này chủ yếu là trồng trong vườn
hộ, trên đất được giao. Mô hình này hầu hết các tỉnh đều có và cũng thu được
hiệu quả kinh tế rõ rệt. Như mô hình trồng Quế ở Yên Bái và Quảng Nam;
trồng Bời lời ở Gia Lai và Kon Tum; mô hình trồng Dó trầm ở Tiên Phước
tỉnh Quảng Nam và ở Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh; mô hình trồng Hòe ở Nam
Định và Thái Bình.
+ Nguồn tài trợ của các dự án trong và ngoài nước
- Về chính sách hưởng lợi: hiện nay nhà nước cũng chưa có những chính
sách nhất quán cho người trồng cây phân tán, do vậy chưa khuyến khích được
mọi thành phần tham gia trồng cây, đây cũng là vấn đề tồn tại cần được rút kinh
nghiệm cho chỉ đạo trong thời gian tới. Tuy nhiên, một số địa phương, tổ chức

cũng đã có những quy định về chính sách hưởng lợi cho người tham gia trồng
cây phân tán, có thể đưa một số dẫn chứng như sau:
+ Nhà nước hỗ trợ tiền giống, cây con (50% - 100%), các chủ sở hữu đất
nhận trồng cây và chăm sóc bảo vệ, sản phẩm cuối cùng người trồng cây được
hưởng toàn bộ. Cơ chế này đang được áp dụng tại một số tỉnh như Nghệ An,
Thái Nguyên, Hà Nam và An Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
+ Tập thể hay doanh nghiệp đầu tư kinh phí từ khâu giống đến trồng cây,
sau đó giao cho cá nhân chăm sóc bảo vệ. Người trồng rừng được hưởng 30%
tổng sản phẩm thu được .
+ Đất do chính quyền địa phương quản lý như đường giao thông nông
thôn, nghĩa trang, công sở có hai hình thức nếu người trồng cây bỏ vốn 100% thì
sản phẩm thu hoạch được chỉ nộp lại 30%, nếu địa phương bỏ vốn thì người
trồng rừng chỉ được hưởng 30% [4]
Từ thực tế trên cho thấy, trồng cây phân tán mặc dù đã được hình thành
và phát triển từ lâu, song cơ chế chính sách còn mang tính tự phát, thiếu sự
thống nhất trong cả nước, kể cả từ chính sách đầu tư hỗ trợ cho đến chính sách
hưởng lợi. Những chính sách nêu trên đều xuất phát từ điều kiện thực tế của
mỗi địa phương, do các địa phương tự đặt ra và quyết định, chính vì vậy thiếu
đồng bộ, thiếu nhất quán, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả của phong trào trồng
cây phân tán.
Để có định hướng phát triển lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc trong
những giai đoạn tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Chiến
lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020, trong đó mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể đến năm 2020 đặt ra là trồng 200 triệu cây phân tán/năm. Cũng
trong Chiến lược của Chính phủ, định hướng quản lý, bảo vệ, phát triển và sử
dụng rừng được xác định là phát triển mạnh trồng cây phân tán để đáp ứng kịp
thời, có hiệu quả các nhu cầu gỗ gia dụng và củi cho địa phương, đặc biệt ở

vùng đồng bằng và ven biển [10]. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng để
phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán trong thời gian tiếp theo.
Do vậy việc nhìn nhận và đánh giá thực trạng của trồng cây lâm nghiệp
phân tán, đặc biệt là về cơ chế chính sách là việc làm hết sức cần thiết để đề xuất
giải pháp phát triển có hiệu quả chương trình trong thời gian tới.
2.2.4. Về cơ cấu cây trồng và chất lượng giống:
Trồng cây lâm nghiệp phân tán là hình thức phát triển lâm nghiệp đa
dạng hoá về chủng loại cây trồng, với nhiều loại cây trồng phong phú khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Những loài cây được lựa chọn trồng cây phân tán và Tết trồng cây có
khoảng 40 loài, phổ biến là các loài cây như: Phi lao, Bạch đàn, Xà cừ,
Sấu, Xoan ta, Lát hoa, Bạch đàn, Keo, Sao đen, và các loài cây ăn quả như
Cam, Quýt, Mít, Dừa, Nhãn, Vải thiều, Xoài và Na được trồng quanh nhà
và quanh vườn [4].
Cũng theo tổng hợp của Bộ NN & PTNT (2006) cho thấy tập đoàn
cây trồng phân tán khá phong phú và đa dạng, gồm khoảng 30-40 loài cây,
trong đó có các loài phổ biến như: Xà cừ, Bạch đàn, Keo các loại, Phi lao, Gạo,
Lát, Sao đen và Dầu rái. Hầu hết các loài cây trồng đều do dân tự lựa chọn từ
các địa phương nên phù hợp với điều kiện sinh thái và phù hợp với sở thích của
người dân. Tuy nhiên do tổ thành loài cây quá đa dạng nên khả năng để tạo
thành hàng hóa còn rất hạn chế, chỉ mới dừng lại chủ yếu là phục vụ nhu cầu
gỗ củi tại chỗ là chính.
- Về nguồn gốc giống hầu hết các loài cây trồng phân tán đều được lấy từ
các cơ quan nghiên cứu giống và các cơ sở cung ứng, dịch vụ giống cây nông
lâm nghiệp lớn ở Trung ương và địa phương. Tuy nhiên qua điều tra thực tế còn
khoảng 20-30% thông qua cung ứng dịch vụ của tư nhân và nguồn gốc không rõ
ràng dẫn đến tình trạng sinh trưởng kém.
- Về chất lượng giống hầu hết các cây trồng phân tán chưa được chú ý cải

thiện, nhất là tập đoàn cây lâm nghiệp. Trong số các loài cây sử dụng trồng cây
phân tán chỉ có nhóm loài cây mọc nhanh như Bạch đàn, Keo là đã được chọn
lọc từ các dòng có năng suất cao còn lại các loài cây khác đều cung ứng không
qua chọn lọc, chất lượng kém. Đối với các cây trồng lâm nghiệp, trong thời gian
qua các loài cây phục vụ trồng cây phân tán hầu hết là các cây được ươm từ hạt,
chỉ có khoảng 10-15% số cây được sử dụng từ nuôi cấy mô. Duy nhất chỉ có
Nông trường Sông Hậu trong mấy năm gần đây đã sử dụng các giống mới với
kỹ thuật sản xuất theo hướng công nghệ cao, đưa tỷ lệ sử dụng cây nuôi cấy mô
với loài Bạch đàn lên tới 80%. Vì vậy, ngoài Nông trường Sông Hậu ra, sinh
trưởng và năng suất của các loài cây trồng phân tán dưới mức bình thường, thậm
chí có nhiều nơi được gọi là nôi của trồng cây nhân dân trước đây như Hà Nam,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Nghệ An, Nam Định và Hải Dương năng suất cây trồng cũng quá thấp. Điều này
có nhiều nguyên nhân nhưng quan trọng là nguồn giống chưa được chọn lọc,
chưa áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong khâu tạo giống [4].
Từ những tổng hợp trên cho thấy, mặc dù về cơ cấu và chủng loại
cây trồng là rất đa dạng và phong phú, nhưng do không được chọn lọc và
cải thiện kịp thời nên năng suất và chất lượng cây trồng không cao, chỉ mới
đáp ứng được nhu cầu gỗ củi tại chỗ, chưa đạt mạnh đến mục tiêu sản xuất
hàng hoá. Vì vậy, cơ cấu và chất lượng cây trồng là vấn đề cần được quan
tâm trong thời gian tới, đặc biệt là cần tập trung vào việc lựa chọn những
giống cây trồng có năng suất và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sản xuất
hàng hoá của thị trường.
2.2.5. Về các loại mô hình trồng cây phân tán:
Khi điều tra để xây dựng mô hình trồng cây phân tán cung cấp gỗ củi ở
xã Bồ Đề, huyện Lục Nam, tỉnh Hà Nam, Đặng Quang Hưng (2006) [6] đã
thống kê được 04 loại mô hình chính:
+ Mô hình trồng keo tai tượng (do tổ chức SIDA tài trợ)

+ Mô hình trồng bạch đàn Camal dọc đường liên thôn của xã
+ Mô hình trồng Xoan ta dọc bờ kênh của xã
+ Mô hình trồng cây phân tán trong các vườn hộ ( do các hộ tự trồng)
Trên cơ sở đó tác giả đã tiến hành xây dựng 04 mô hình trồng cây phân
tán cung cấp gỗ củi có năng suất cao:
Mô hình 01: Trồng cây phân tán dọc đường liên thôn, liên xã
Mô hình 02: Trồng cây phân tán trên bờ vùng, bờ kênh, bờ thửa
Mô hình 03: Trồng cây phân tán trong trường học
Mô hình 04: Trồng cây phân tán trong trang trại nông nghiệp.
2.2.6. Về kết quả đạt được từ trồng cây phân tán:
Trồng cây phân tán từ khi được hình thành, trải qua quá trình phát triển
đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Kết quả phong trào trồng cây
phân tán ở nước ta đã đem lại nhiều lợi ích to lớn cho người dân và các địa
phương, vừa đáp ứng được nhu cầu gỗ củi cho người dân nông thôn, vừa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
phòng hộ đồng ruộng, phòng hộ ven biển, chắn sóng, chống cát bay, chống
xói lở đê điều và cải thiện môi trường sinh thái.
Đánh giá về phong trào trồng cây phân tán và tết trồng cây trong
cuốn “Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000” do Nhà xuất bản nông nghiệp ấn
hành năm 2001 đã ghi: Trong thời gian gần 50 năm qua thực hiện Tết trồng
cây và trồng cây phân tán nhân dân ta đã tạo nên một màu xanh trên khắp
các vùng của Tổ quốc. Trong thập kỷ 60, trung bình mỗi năm nhân dân
miền Bắc trồng được 150 triệu cây. Những năm cuối thập kỷ 70, hàng năm
cả nước đã trồng được 300 triệu cây. Thập kỷ 80 bình quân cả nước đã
trồng được 350 triệu cây. Trong thập kỷ 90 hằng năm cả nước trồng được
280 - 300 triệu cây phân tán [9].
Theo Nguyễn Xuân Quát và cộng sự (2004), Mô hình trồng cây phân tán
đã được phát động rộng rãi tiếp theo phong trào tết trồng cây và cũng được

hưởng ứng tích cực từ nhiều năm qua ở nhiều địa phương, nhất là vùng đồng
bằng và trung du, những nơi có nhu cầu về gỗ củi cũng như che chắn phòng hộ
đồng ruộng và làng xã rất cao. Điển hình về trồng cây phân tán ở huyện Lý
Nhân tỉnh Hà Nam trải khắp xóm làng, ruộng đồng, ven kênh mương, đường đi,
trường học, trụ sở nơi đất chật người đông; ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng
Nam bao quanh thôn xóm, vườn nhà, trên các cồn và đụn bãi cát ven biển.
Thành quả đó không chỉ góp phần cải tạo điều kiện khí hậu đất đai khắc nghiệt
mà còn tạo ra được hàng triệu cây, hàng ngàn héc ta rừng, hàng vạn m
3
gỗ củi,
cải thiện đời sống cho người dân và cộng đồng [8].
* Đánh giá nhận xét chung:
Như vậy từ những nhận định và đánh giá nghiên cứu của các tác giả trên ở
trên cho thấy trồng cây lâm nghiệp phân tán có nguồn gốc xuất phát từ rất lâu
đời, ở Việt Nam được hình thành từ lễ phát động Tết trồng cây của Bác Hồ (năm
1959) và đã trở thành một phong trào, một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Trồng cây phân tán trong những năm qua không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh
tế mà còn mang lại lợi ích vô cùng to lớn về mặt môi trường, sinh thái, tạo việc
làm và cải thiện đời sống cho người dân nông thôn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về trồng cây phân tán như trình bày ở trên đã
đi vào phân tích đánh thực trạng trồng cây phân tán, một số tác giả cũng đã đề
cập đến tổ thành loài cây trồng phân tán, xây dựng các mô hình trồng cây phân
tán cung cấp gỗ củi. Những nghiên cứu này đã góp phần làm rõ những vấn đề
liên quan, xây dựng được phương pháp luận và cách tiếp cận trong việc phân
tích đánh giá hiện trạng. Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn chỉ mang tính
thống kê những kết quả đã đạt được và bước đầu phân tích những thực trạng,
hay đi vào xây dựng mô hình trồng cây phân tán mà chưa đi sâu vào phân tích,

đánh giá để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu và những tồn tại của các mô
hình trồng cây phân tán.
Với Thái Nguyên, một tỉnh có lợi thế và tiềm năng rất lớn về phát triển
sản xuất lâm nghiệp nói chung và trồng cây lâm nghiệp phân tán nói riêng. Mặc
dù trồng cây phân tán đã được phát động hàng năm vào dịp tết trồng cây, nhưng
việc nghiên cứu đánh giá thực trạng lại rất hạn chế, chưa có nghiên cứu hay một
đánh giá cụ thể nào nhằm tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của trồng cây phân tán để
phát triển phong trào có hiệu quả góp phần cung cấp gỗ củi phục vụ cho nhu cầu
tại địa phương. Đề tài Nghiên cứu hiện trạng và giải pháp phát triển trồng cây
lâm nghiệp phân tán trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là hết sức cần thiết nhằm
rút kinh nghiệm và bài học để duy trì và phát triển chương trình này ngày càng
hiệu quả hơn.

×