Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đề cương Triết học Mác Lê-nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.17 KB, 30 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN</b>

<i><b>Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học?</b></i>

<i><b>Trả lời: </b></i>

– Theo Ăng-ghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.

<b>– Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:</b>

<b>+ Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái</b>

nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức cái nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai. Có hai cách trả lời khác nhau dẫn đến hình thành hai khuynh hướng triết học đối lập nhau:

 Những quan điểm triết học cho vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai hợp thành chủ nghĩa duy vật. Vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy. Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Trong lịch sử tư tưởng triết học có ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:

 Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ cổ đại: Quan niệm về thế giới mang tính trực quan, cảm tính, chất phác nhưng đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới.

 Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII: Quan niệm thế giới như một cỗ máy khổng lồ, các bộ phận biệt lập tĩnh tại. Tuy cịn hạn chế về phương pháp luận siêu hình, máy móc nhưng đã chống lại quan điểm duy tâm, tơn giáo giải thích về thế giới.

 Chủ nghĩa duy vật biện chứng : Do C.Mác & Ph.Ănghen sáng lập – V.I.Lênin phát triển. Khắc phục hạn chế của CNDV trước đó => Đạt tới trình độ: DV triệt để trong cả TN & XH; biện chứng trong nhận thức; là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

 Ngược lại, những quan điểm triết học cho ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, hợp thành chủ nghĩa duy tâm. Ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hố, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của q trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Chủ nghĩa duy tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu chính: Chủ nghĩa duy tâm khách quan (Platon, Hêghen…) và chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Beccli, Hium…):

 Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân.

 Chủ nghĩa duy tâm khách quan - thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức những tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh thần, ý thức khách quan này thường được mang các tên gọi khác nhau như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”, “lí tính thế giới”.

<b>+ Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế</b>

giới hay khơng? (Ý thức có thể phản ánh được vật chất hay khơng, tư duy có thể phản ánh được tồn tại hay khơng?). Mặt này cịn được gọi là mặt nhận thức:

 Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới. Song, do mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.

 Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.  Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Can-tơ lại phủ nhận khả năng

nhận thức thế giới của con người. Đây là những người theo “Bất khả tri luận” (Thuyết không thể biết). Khuynh hướng này không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.

– Đối với các hệ thống triết học, vấn đề cơ bản của triết học không chủ được thể hiện trong các quan niệm có tính chất bản thể luận, mà còn được thể hiện trong các quan niệm chính trị – xã hội, đạo đức và tơn giáo, tất nhiên có thể là nhất qn hoặc là không nhất quán.

– Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt lịch sử phát triển của tư tưởng triết học và thể hiện tính đảng trong triết học.

– Hai mặt vấn đề cơ bản của triết học này tác động qua lại lẫn nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b>Câu 2: Tại sao nói siêu hình và biện chứng là hai mặt đối lập của phương pháp tưduy? </b></i>

<i><b>Trả lời:</b></i>

Để biết được tại sao siêu hình và biện chứng lại là hai mặt đối lập của phương pháp tư duy, trước tiên chúng ta cần phải nắm rõ được nguồn gốc, quá trình hình thành cũng như bản chất của của hai phương pháp này để đi đến tìm ra câu trả lời.

Thuật ngữ “siêu hình” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp metaphysica, với nghĩa là “ những gì sau vật lý học”. Vào thế kỉ XVI-XVII, phương pháp siêu hình giữ vai trị quan trọng trong việc tích lũy tri thức, đem lại cho con người nhiều tri thức mới, nhất là về toán học và cơ học; nhưng chỉ từ khi Bêcơn (1561-1626) và về sau là Lốccơ (1632-1702) chuyển phương pháp nhận thức siêu hình từ khoa học tự nhiên sang triết học, thì siêu hình trở thành phương pháp chủ yếu của nhận thức. Đến thế kỉ XVIII, phương pháp siêu hình khơng cịn khả năng khái qt sự vận động, phát triển của thế giới vào những qui luật chung nhất; không tạo khả năng nhận thức được thế giới trong chỉnh thể thống nhất nên bị phương pháp biện chứng duy tâm trong Triết học cổ điển Đức phủ định. Heghen (1770-1831) là nhà triết học phê phán phép siêu hình kịch liệt nhất thời bấy giờ và là người đầu tiên khái quát hệ thống quy luật của phép biện chứng duy tâm, đem nó đối lập với phép siêu hình. Trong triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, siêu hình được hiểu theo nghĩa là phương pháp xem xét sự tồn tại của sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng vào tư duy con người trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và khơng biến đổi, đặc thù của siêu hình là tính một chiều, tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia, phủ nhận các khâu trung gian, chuyển hóa; do đó kết quả nghiên cứu chỉ đi tới kết luận “ hoặc là…, hoặc là…”, phiến diện; coi thế giới thống nhất là bức tranh không vận động, phát triển. Các nhà siêu hình chỉ dựa vào những phản đề tuyệt đối khơng thể dung hịa để khẳng định có là có, khơng là khơng; hoặc tồn tại hoặc không tồn tại; sự vật hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó; cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau. Như vậy phương pháp siêu hình làm cho con người “ chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà khơng nhìn thấy mối liên hệ của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà khơng nhìn thấy sự phát sinh và sự diệt vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng”.

Đối lập với “ siêu hình ” chính là “ biện chứng ”. Thuật ngữ “ biện chứng” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp dialektica (với nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng chính là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lí bằng cách phát hiện ra các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ các lập luận của mình. Đến Heghen, thuật ngữ biện chứng được phát triển khá toàn diện và đã khái quát được một số phạm trù, quy luật cơ bản; nhưng chúng chưa phải là những quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy, mà mới chỉ là một số quy luật riêng trong lĩnh vực tinh thần. C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin đã kế thừa và phát triển trên tinh thần phê phán và sáng tạo những giá trị trong lịch sử tư tưởng biện chứng nhân loại làm cho phép biện chứng trở thành phép biện chứng duy vật; thành khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về mối liên hệ và sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Phương pháp biện chứng duy vật mềm dẻo, linh hoạt; thừa nhận trong những trường

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

hợp cần thiết, bên cạnh cái “ hoặc là…, hoặc là…”, cịn có cả cái “ vừa là… vừa là…”. Do vậy, đó là phương pháp khoa học, vừa khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi phương pháp siêu hình vừa cải tạo phép biện chứng duy tâm để trở thành phương pháp luận chung nhất của nhận thức và thực tiễn.

Tóm lại, từ những gì đã nêu trên, chúng ta đã thấy rõ tại sao biện chứng và siêu chính chính là hai mặt đối lập của phương pháp tư duy. Phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. Còn phương pháp biện chứng phản ánh đúng hiện thực như nó tồn tại.

Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. Tư duy biện chứng duy vật có vai trị to lớn đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người ngày nay. Cụ thể là, nó giúp con người khắc phục lối tư duy siêu hình, phiến diện… để có thể xem xét đối tượng một cách đúng đắn, toàn diện; khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ và thái độ định kiến với cái mới; tránh sự phỏng đoán thiếu cơ sở khoa học và nguy cơ rơi vào ảo tưởng; nhìn nhận đối tượng một cách khách quan và khoa học; giúp việc học tập và nghiên cứu các mơn khoa học khác có hiệu quả hơn, đồng thời có khả năng gắn kết lý luận với

<i>thực tiễn, gắn học với hành. Tư duy biện chứng duy vật địi hỏi chủ thể khơng chỉ</i>

<i>phản ánh đúng những mối liên hệ, sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượngtrong thế giới khách quan, mà còn phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn nhữngphương pháp, nguyên tắc của phép biện chứng duy vật vào nhận thức và hoạt độngthực tiễn. Nó có những đặc trưng cơ bản, như tính khách quan, tính tồn diện, tính</i>

lịch sử - cụ thể, tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; không chỉ phản ánh trạng thái hiện tồn, mà còn dự báo xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Tư duy biện chứng duy vật có vai trò to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nói chung và sinh viên nói riêng.

Trên thực tế ngày nay, vẫn có một số sinh viên chỉ chú ý tới việc học, không tham gia vào các hoạt động thực tiễn của đoàn thể, nhà trường... Tình trạng này dẫn đến chỗ kết quả giáo dục khơng tồn diện, năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn mang tính sách vở, giáo điều, chỉ giỏi về lý thuyết mà chưa biết vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn cuộc sống. Bên cạnh đó, nhiều sinh viên cịn nhận thức sai lệch về vai trị của các mơn học, cộng thêm tư tưởng thực dụng; chỉ thấy cái lợi trước mắt mà khơng có chiến lược phát triển cho tương lai, chỉ tập trung vào các môn học chuyên ngành, không chú ý tới các môn hỗ trợ và các lĩnh vực khác nên xảy ra hiện tượng mù chữ chức năng (nhất là tin học và ngoại ngữ) - một hiện tượng khá phổ biến hiện nay; khơng ít sinh viên thờ ơ với các vấn đề chính trị, thậm chí bị kẻ xấu lợi dụng, hoặc mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên là do sinh viên chưa nghiêm túc học tập, rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin. Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế tồn cầu hố đang tác động đến các quốc gia, các mặt của đời sống xã hội, nhiều sinh viên không biết chọn lọc, tiếp thu những giá trị tích cực, đích thực từ các luồng văn hố bên ngồi nên đã bị lơi kéo, sa ngã vào các tệ nạn xã hội, sống buông thả, đua đòi, ăn mặc lai căng; quan niệm một cách đơn giản về nhiều vấn đề hệ trọng, chẳng hạn như tình u, hơn nhân, việc làm, lối sống... Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của văn hoá ngoại lai đã làm cho một bộ phận sinh viên bị tha hố. Họ khơng biết q trọng những thành quả cách mạng mà cha ông ta phải trải qua bao khó khăn, gian khổ mới giành được, khơng quan tâm tới lịch sử, truyền thống dân tộc; thiếu ý thức giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hố của dân tộc…

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Vì vậy, để giải quyết thực trạng hiện nay, quán triệt nguyên tắc toàn diện của tư duy biện chứng duy vật là giải pháp cơ bản nhất để khắc phục những hạn chế trong tư duy của sinh viên ở nước ta hiện nay. Nguyên tắc này giúp cho sinh viên trong quá trình nhận thức, nghiên cứu biết đi thẳng vào vấn đề, xem xét và phân tích đối tượng một cách chính xác, đầy đủ, tồn vẹn; khắc phục được cách đánh giá đơn giản, một chiều. Nếu nắm vững phương pháp tư duy biện chứng duy vật, sinh viên sẽ có được sự nhận thức một cách khoa học, cụ thể là xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tương tác giữa các mặt, đặt chúng trong các mối liên hệ biện chứng, chi phối lẫn nhau trong một thể thống nhất. Thông qua nguyên tắc này, sinh viên biết sâu chuỗi vấn đề, phát hiện sự liên hệ giữa chúng chứ không đánh giá sự vật, hiện tượng một cách rời rạc, lẻ tẻ và biệt lập khỏi các mối quan hệ đa dạng vốn có; từ đó, tìm ra được cốt lõi, bản chất và những mối liên hệ cơ bản nhất để tập trung giải quyết một cách có hiệu quả.

Được học tập và trang bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật, sinh viên khơng chỉ hình thành cho mình bản lĩnh khoa học, nguyên tắc, phương pháp nhận thức khoa học, mà cịn có khả năng vận dụng tri thức chuyên môn vào cuộc sống, biết tu dưỡng và rèn luyện bản thân để phát triển toàn diện. Đồng thời, tư duy biện chứng duy vật còn giúp cho sinh viên chống lại quan điểm duy tâm, siêu hình, mê tín dị đoan; có lăng kính khoa học đúng đắn để nhận thức và giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.

 Từ đầu thế kỷ thứ 19 nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bước vào thời kỳ sung mãn nhất. Chính trong bối cảnh này nó lại nảy sinh những mâu thuẫn nội tại giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ. Mâu thuẫn này được biểu hiện về mặt chính trị xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.  Giai cấp công nhân xuất hiện trong lịch sử khơng những là một lực lượng sản

xuất mà cịn là một lực lượng chính trị với ý thức được sứ mệnh của mình đó chính là sứ mệnh chống lại sự áp bức của giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của những người lao động. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra ở các thành phố lớn như Lion (1831, 1833), Paris (1832), Xilêdi (1844) ở Pháp, và phong trào Hiến chương Anh (1830 - 1840) … Vì sứ mệnh lịch sử này mà giai cấp công nhân cần thiết phải có một chủ thuyết làm nền tảng tư tưởng cho giai cấp mình và cho nhân dân lao động. Cac Mac là người ủng hộ và theo dõi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhận thức được yêu cầu khách quan ấy nên Cac Mac trở thành nhà lý luận của giai cấp cách mạng.

- Về chính trị:

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

 Vào giữa thế kỷ 19 nước Đức vẫn là một quốc gia phong kiến với nền sản xuất rất lạc hậu. Giai cấp quý tộc phong kiến Phổ thời bấy giờ sử dụng nhiều biện pháp cai trị người rất khắc nghiệt làm cho nước Đức rơi vào tình trạng khủng hoảng. Từ hiện thực này mà triết học Mác ra đời với tư cách là học thuyết của giai cấp cách mạng là học thuyết triệt để chủ trương làm cuộc cách mạng về hiện thực, xoá bỏ trật tự xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chính từ bối cảnh này mà triết học Mác xuất hiẹn trong lịch sử.

<i><b>Câu 4: Khái lược về vai trò (chức năng) thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay? </b></i>

<i><b>Trả lời: </b></i>

<b>- Vai trò thế giới quan của Triết học:</b>

* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.

* Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.

* Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.

* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trị là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.

Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.

Do vậy:

+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động.

+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động.

+ Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hồn thiện thế giới quan.

<b>- Vai trị phương pháp luận của triết học:</b>

Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính ngun tắc chỉ đạo việc tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp; những nguyên tắc xuất phát có vai trị chỉ đạo chủ thể sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất:

+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.

+ Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí ( như mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác) và phương pháp tư duy duy siêu hình gây ra ( như giáo điều, dễ bị vấp váp, thất bại.

Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.

<b>- Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổimới ở Việt Nam hiện nay</b>

<b>+ Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách</b>

mạng cho con người trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

+ Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.

+ Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

<i><b>Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết họcMác và giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác.Từ đó, rút ra ý nghĩa vềmặt phương pháp luận trong hoạt động dạy - học triết học Mác - Lênin ở nước tahiện nay?</b></i>

<i><b>Trả lời:</b></i>

<b>I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC</b>

<b>1. Điều kiện kinh tế-xã hội:</b>

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp. Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. CNTB phát triển có nghĩa là kinh tế TBCN phát triển - đây là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý tưởng cao đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt những lý luận khơng khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Chẳng hạn như “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực hiện sở hữu nhỏ, tức là đi

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

ngược lại lịch sử ; “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - chống CNTB nhưng đòi quay trở về chủ nghĩa phong kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư sản” - cho rằng không cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ cần sửa chữa nó. Trước tình hình đó địi hỏi phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn đường cho phong trào công nhân. Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.

<b>2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiêna. Nguồn gốc lý luận</b>

Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh, Mác và Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđơ và vận dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximơng, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa CNDV nhân bản của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng lên về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.

<b>b. Tiền đề khoa học tự nhiên</b>

Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận động; định luật bảo tồn và chuyển hố năng lượng. Hai phát minh khoa học này đã chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng, sự sống và sự đa dạng phong phú của các loài sinh, động vật là kết quả tiến hố tự nhiên, lâu dài của chính giới tự nhiên. Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng ra đời.

Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều kiện chủ quan như sự thơng minh, lịng u thương những người lao động của chính Mác và Ăngghen.

<b>II. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác</b>

- V.I.Lênin (1870 - 1924) - người đã vận dụng sáng tạo và phát triển triết học Mác vào thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng CNXH hiện thực. Ơng đã có những đóng góp to lớn vào việc phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.

+ Cuối XIX, đầu XX: CNTB phát triển cao sinh ra CNĐQ, xuất hiện những mâu thuẫn mới đặc biệt GCTS >< GCVS

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

+ Trung tâm cách mạng thế giới chuyển sang nước Nga và xuất hiện phong trào giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa cần hệ thống lý luận mới soi đường

Những phát minh mới trong KHTN (vật lý học) dẫn đến sự khủng hoảng về TGQ… CNDT lợi dụnghững phát minh này gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hoạt động CM, nở rộ các loại CNDT khoa học tự nhiên

+ Các nhà tư tưởng tư sản tấn công nhằm xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác

- V.I.Lênin trở thành người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+ Thời kỳ 1893 - 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác và chuẩn bị thành lập đảng mácxít ở Nga hướng tới cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.

+ 1907 - 1917 thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị và thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

+ Từ 1917 - 1924 là thời kỳ Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Thời kỳ từ 1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các Đảng Cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển

- Lênin có nhiều đóng góp vào việc phát triển phép biện chứng, lý luận nhận thức, vấn đề nhà nước và cách mạng, vấn đề chuyên chính vơ sản, vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới v.v

- Có thể nói, Lênin đã tạo ra một giai đoạn mới trong sự phát triển triết học Mác. Nhưng cần lưu ý rằng, về bản chất triết học của Lênin là triết học Mác.

<i><b>Câu 6: Phân tích hoàn cảnh ra đời và nội dung định nghĩa vật chất của Lênin. Ýnghĩa của định nghĩa đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thứckhoa học ?</b></i>

<i><b>I. Hoàn cảnh ra đời và nội dung định nghĩa vật chất của Lênin. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại thế giới xung quanh ta là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học, dưới góc độ khác nhau đều hướng đến giải quyết vấn đề này. Vì thế trong Triết học phạm trù vật chất xuất hiện.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra nhiều phát minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những ngun tắc cũ, xuất hiện một loạt những phát minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về vật chất cụ thể là:

- Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất không chỉ là chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc nguyên tử) mà vật chất còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó khơng xác định về mặt khối lượng, khơng có cấu trúc ngun tử).

- Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng tiêu tan. - Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không phải là kết cấu vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa).

- Sang đầu thế kỷ XX phát hiện ra hiện tượng thay đổi của khối lượng, quảng tính và thời gian trong sự phụ thuộc vào tốc độ vận động.

Tóm lại: Khoa học chứng minh rằng khơng có dạng vật chất đầu tiên. Từ những phát minh khoa học trên đã làm xuất hiện sự khủng hoảng trong lập trường tư tưởng của một số nhà khoa học, nhà triết học, từ đó làm khơi phục lại chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri, chống lại chủ nghĩa Mác. Trước bối cảnh đó LêNin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” xuất bản năm 1909 mà trong đó ơng đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất (được thừa nhận như là một định nghĩa chính thống của chủ nghĩa Mác).

<i>Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau: “Vật chất là</i>

<i>phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trongcảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại khônglệ thuộc vào cảm giác”.</i>

<b>Nội dung định nghĩa vật chất nêu trên gồm những khía cạnh cơ bản sau:</b>

<i><b>Một là, vật chất là một phạm trù triết học: </b></i>

“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh học (nhơm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…) hay ngành khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất trong cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).

“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù rộng nhất, khái qt nhất, rộng đến cùng cực, khơng thể có gì khác rộng hơn.

Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này trong một khoảng không gian nhất định, vì khơng có gì rộng hơn nó.

<i><b>Hai là, vật chất là thực tại khách quan:</b></i>

Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì khơng phải là vật chất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay khơng thì vật chất ln tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.

<i><b>Ba là, vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác:</b></i>

Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau”, là tính thứ hai.

Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất.

Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan, khơng lệ thuộc vào ý thức.

Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.

<i><b>Bốn là, vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh:</b></i>

Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhơm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.

Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.

Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.

<b>II. </b><i><b> Ý nghĩa của định nghĩa đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhậnthức khoa học</b></i>

<i><b>Một là, bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất:</b></i>

Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế giới hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức). Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…). Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.

<i><b>Hai là, phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất:</b></i>

Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ là hư ảo, giả dối, khơng có thật. Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

điểm này đã phủ nhận thuyết không thể biết. Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay khơng? Lênin khẳng định là có. Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức mạnh, ý chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ cuộc sống của con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào thế bị động, bỏ mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.

<i><b>Ba là, khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máymóc về vật chất:</b></i>

Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng khơng có một dạng cụ thể cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại có thể đồng nhất hồn tồn với bản thân vật chất. Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngồi ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó hay chưa. Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa của Lênin đã khắc phục những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các dạng cụ thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, khơng khí…; đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học.

<i><b>Bốn là, định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiến các dạng hoặchình thức mới của vật thể:</b></i>

Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất, luôn luôn vận động, định nghĩa đã cổ vũ các nhà khoa học (nhà vật lý học, nhà hóa học, nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thứcthuộc tính, quy luật vận động mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại. Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.

<i><b>Năm là, cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội:</b></i>

Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới. Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn của con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và phát triển xã hội. Định nghĩa của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể tìm ra các phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.

<b>Câu 7: Ý thức là gì? Tại sao bộ não con người – một tổ chức sống vật chất cao lạicó thể sinh ra ý thức? vai trò của ý thức đối với vật chất và ý nghĩa phương phápluận?</b>

<b>Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù song song với</b>

phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.

Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và xã hội. Cần phải xem xét cả hai mặt tự nhiên và xã hội để hiểu nguồn gốc, bản chất của ý thức.

<i><b>Nguồn gốc của ý thức bao gồm: </b></i>

<i>Một là, nguồn gốc tự nhiên: Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên,</i>

nhất là sinh lý học thần kinh, các nhà duy vật biện chứng cho rằng, nguồn gốc tự

<i>nhiên của ý thức có hai yếu tố khơng thể tách rời nhau là bộ óc con người và thế giới</i>

<i>khách quan bên ngoài tác động lên óc người.</i>

<i>Bộ óc người là một dạng vật chất sống đặc biệt, có tổ chức cao, trải qua q trình</i>

<i>tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của riêng dạng vật chất</i>

Tức là, chỉ con người mới có ý thức; khơng một kết cấu vật chất nào khác, kể cả những con vật thơng minh nhất có ý thức. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức khơng diễn ra bình thường hoặc rối loạn.

Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà khơng có thế giới bên ngồi tác động vào bộ óc, thì cũng khơng có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngồi.

<i>Sự tác động của thế giới bên ngồi lên bộ óc người: Trong tự nhiên, mọi đối</i>

tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có thuộc tính

<i>chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật</i>

chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Nói một cách dễ hiểu, phản ánh chính là sự chép lại, chụp lại, kể lại một cái gì đó. Để có q trình phản ánh xảy ra, cần có vật tác động và vật nhận tác động. Đương nhiên, bộ óc người cũng có thuộc tính phản ánh. Nhưng phản ánh của bộ óc con người có trình độ cao hơn, phức tạp hơn so với các dạng vật chất khác. Sau q trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con người trở thành sản phẩm cao nhất, thì thuộc tính phản ánh của óc người cũng hồn mỹ nhất so với mọi đối tượng khác trong tự nhiên. Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý thức”. Ý thức là sự phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngồi vào bộ óc con người.

<i><b>Hai là, nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan</b></i>

trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan

<i>trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao</i>

<i>động, tức là thực tiễn xã hội và ngôn ngữ. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan</i>

vào trong bộ óc người thơng qua lao động, ngơn ngữ và các cơ quan xã hội. Theo Ph. Ăng-ghen, lao động và ngơn ngữ là hai sức kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ não người, biến tâm lý động vật thành ý thức con người.

<i>Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo. Tuy thuộc phạm vi</i>

chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy móc của sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

vật. Tức là, khơng phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế.

<i>Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo. Trong quá trình lao động</i>

để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào sự vật một cách có định hướng, chọn lọc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà, cày ruộng, đào mương, xây cầu…). Chính vì thế, ý thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.

<i>Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở</i>

những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái khơng có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đốn, dự báo tương lai một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người cịn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị… Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh.

Vật chất và ý thức có quan hệ hai chiều, tác động qua lại lẫn nhau. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mối quan hệ này thể hiện như sau:

<i><b>Vật chất có vai trị quyết định đối với ý thức.</b></i>

Do tồn tại khách quan, vĩnh viễn, nên vật chất là cái có trước, mang tính thứ nhất. Ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người, nên ý thức có sau, mang tính thứ hai. Nếu khơng có vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan), vật chất trong xã hội (lao động, ngôn ngữ), thì khơng có ý thức. Nên rõ ràng, ý thức chịu sự chi phối, sự quyết định của vật chất. Ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất. Ý thức có tính năng động, sáng tạo, nhưng sự năng động, sáng tạo này có cơ sở từ vật chất, tuân theo những quy luật của vật chất.

Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiện của ý thức. Nghĩa là, ý thức mang những thông tin (nội dung) về đối tượng vật chất (núi, sông, cái bàn, con vật, hoạt động sản xuất…). Những thông tin này có thể đúng hay sai, đầy đủ hay thiếu sót, biểu hiện ra bên ngồi như thế nào… đều do đối tượng vật chất tác động ở mức độ nào lên bộ óc người.

Trong lĩnh vực xã hội, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Đời sống vật chất của một xã hội nhất định sẽ chi phối, định hướng đời sống tinh thần của xã hội đó.

<i><b>Ý thức tác động trở lại vật chất.</b></i>

Vật chất sinh ra và quyết định ý thức, song sau khi ra đời, ý thức không thụ động, “ngồi một chỗ” mà sẽ tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức độc lập tương đối, không bị vật chất “giam hãm”, “trói chặt” mà có thể làm thay đổi vật chất.

Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện sinh động ở vai trò của con người đối với thế giới khách quan. Vì ý thức là ý thức của con người. Qua lao động của con người, ý thức có sức mạnh biến đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo những nhu cầu phát triển của con người. Mức độ tác động của ý thức lên vật chất lớn hay nhỏ, nhiều hay ít tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, nghị lực của con người, điều kiện, môi trường, cường độ con người tác động lên vật chất. Nếu được tổ chức tốt, ý

<i>thức có khả năng tác động rất to lớn lên vật chất.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Sức mạnh của ý thức khơng phải ở chỗ nó có thể tách rời vật chất. Ý thức khơng thể thốt ly hiện thực khách quan. Ý thức chứng tỏ sức mạnh qua việc nhận thức thế giới khách quan, từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục đích, ý chí để chỉ đạo hoạt động của con người tác động trở lại thế giới vật chất. Nếu nhận thức đúng quy luật khách quan, ý thức sẽ có tác động tích cực lên vật chất, làm xã hội ngày càng phát triển. Ngược lại, ý thức sẽ kìm hãm sự lịch sử.

<b>Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chấtvà ý thức</b>

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đòi hỏi con người phải quán

<i>triệt nguyên tắc khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.</i>

<i><b>Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động.</b></i>

Trong quá trình nhận thức, học tập, nghiên cứu, con người phải bắt đầu từ việc quan sát, xem xét, phân tích đối tượng vật chất. Qua việc tác động vào chúng, ta sẽ bắt đối tượng vật chất phải bộc những thuộc tính, quy luật của nó. Khi đó, ta sẽ thu nhận được tri thức. Bằng việc lặp đi lặp lại nhiều lần chu trình trên, con người sẽ có kiến thức ngày càng phong phú về thế giới.

Để sản xuất vật chất, cải tạo thế giới khách đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách quan để đánh giá tình hình, từ đó xác định phương hướng, biện pháp, lộ trình kế hoạch. Muốn thành công, con người phải tuân theo những quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Phải ln đặt mình, cơ quan, cơng ty trong những hoàn cảnh, điều kiện thực tế, nhất là về vật chất, kinh tế.

Cần luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong cuộc sống. Đó là việc tránh xa thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, ước muốn, niềm tin của mình để hành động mà khơng nghiên cứu, đánh giá đầy đủ tình hình các đối tượng vật chất.

<i><b>Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.</b></i>

Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải ln chủ động, phát huy hết trí thơng minh, khả năng suy nghĩ của mình. Phải ln tìm tịi, sáng tạo ra cái mới trên cơ sở tích lũy, kế thừa những cái cũ phù hợp. Có như vậy, con người mới ngày càng tài năng, xã hội ngày phát triển.

Con người phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao thể lực, trí lực để nâng cao năng lực nhận thức và lao động của mình. Phải kiên trì, nỗ lực vượt qua khó khăn, khơng bỏ cuộc giữa chừng.

Tuyệt đối không được thụ động, trông chờ, ỷ lại trong mọi tình huống. Điều ngày cũng đồng nghĩa với việc tránh sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.

Không được tuyệt đối hóa vai trị của các điều kiện vật chất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vật chất có vai trị quyết định, chi phối nhưng khơng có nghĩa là những thiếu hụt đối tượng vật chất sẽ khiến con người thất bại trong việc tìm ra giải pháp khả thi.

</div>

×