Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Giáo trình Luật An sinh xã hội - Trường Đại học Luật Hà Nội - Nguyễn Thị Kim Phụng chủ biên, Phạm Công Trứ (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.12 MB, 202 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

GIÁO TRÌNHLUẬT AN SINH XÃ HỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>47-2013/CXB/70-454/CAND</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TR- ỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giao trình

LUẬT AN SINH XÃ HỘI

(Tái bản lần thứ 7 có sửa đổi)

NHÀ XUẤT BẢN CƠNG AN NHÂN DÂN

HÀ NỘI - 2013

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

_ TS. NGUYEN THI KIM PHUNG _TS. TRAN THI THUY LAM TS. ĐỖ NGÂN BÌNH .T§. NGUYEN XUAN THU . TS. NGUYEN HIEN PHUƠNG . Th§. DO THI DUNG

<small>Ch- ong I</small>

<small>Ch- ong III (Mục J), Ch- ong IVCh- ong VII</small>

<small>Ch- ong II, Ch- ong II (Mục V)Ch- ong V, Ch- ong III (Mục VI)Ch- ong HI (Mục VI)</small>

<small>Ch- ong HI (Mục II, IV)Ch- ong VI</small>

<small>Ch- ong HI (Mục HI)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

LỜI GIỚI THIỆU

Ở Việt Nam, các quy định nhằm mục đích an sinh xã

hội xuất hiện từ rất sớm nhũng lý luận về lĩnh vực pháp

luật này chỉ mới đợc chú trọng trong những năm gần đây. Trong điều kiện phát triển nên kinh tế thị trờng, an sinh

xã hội trở nên rất quan trọng. Đó là hệ thống chính sách

nhiều tang để tất cả các thành viên trong xã hội déu đợc

tlong trợ, giúp đỡ ở mức độ hợp lý khi bị giảm, mất thu nhập hoặc gặp khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống. Việc

<small>đùa mơn học luật an sinh xã hội vào chlong trình đào tạo</small>

cử nhân luật của Truờng Đại học Luật Ha Nội là việc lam

thiết thực, mang nhiều ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đáp

ứng các yêu cầu mới đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội của đất nóc.

Nhằm cung cấp tài liệu phục vụ việc giảng dạy, học tập môn học này, Truờng Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức biên

<small>soạn giáo trình luật an sinh xã hội.</small>

Tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình

biên soạn, chỉnh lý, tuy nhiên giáo trình cũng khó tránh khỏi những hạn chế nhất định. TrUuờng Đại học Luật Ha

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>Nội xin trân trọng giới thiệu giáo trình luật an sinh xã</small>

hội và chân thành cam ơn những ý kiến đóng góp cua ban

doc để giáo trình ngày càng đợc hồn thiện trong các

lần tái bản sau.

TRHỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

CHUONG I

LUAT AN SINH XA HOI

TRONG HE THONG PHAP LUAT VIET NAM

I. KHAI NIEM LUAT AN SINH XA HOI

1. Đối tượng điều chỉnh cua luật an sinh xã hội

Trong khoa học pháp lý, nói đến đối tượng điều chỉnh của một ngành luật thường là nói đến một hoặc một nhóm

<small>các quan hệ xã hội cùng loại. Luật an sinh xã hội với tư cách</small>

là một ngành luật cũng có đối tượng điều chỉnh là những

<small>quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực an sinh xã hội.1.1. An sinh xã hội</small>

Bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an toàn xã hội, an ninh xã

<small>hội, an sinh xã hội... là những thuật ngữ có ý nghĩa rộng hẹp</small>

khác nhau tuỳ theo nguồn gốc phát sinh hoặc từng nơi, từng

lúc vận dụng.” Tuy nhiên, nếu xét về mục đích chung thi

<small>(1). Về thuật ngữ "an sinh xã hội" có thể xem thêm: “Giáo trinh pháp luật</small>

<small>bdo dam xã hội” của Trung tâm giáo dục từ xa Dai học Huế — ThS. Trần Quang</small>

<small>Huy chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, 2001, tr. 10, 11; "Một số vấn đề lý luậnvà thực tiên về chính sách, pháp luật xã hội" - Viện Nghiên cứu Nhà nước và</small>

<small>Pháp luật - TS. Phạm Hữu Nghị chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,2002, tr. 21, 115, 116; Ngô Huy Cuong, An ninh xã hội: Một số vấn đề pháp lý</small>

<small>căn bản va Đặng Đức San, Về thuật ngữ an sinh xế hội, T/C Khoa học t.XVII,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

chúng đều nhằm trợ giúp cho con người - những thành viên của xã hội, trong những trường hợp rủi ro, hiểm nghèo mà bản

thân họ không tự giải quyết được. Thông qua sự trợ giúp cả về vật chất va tinh than mà những khó khan, bất hạnh của con

người được khắc phục hoặc giảm thiểu, từ đó góp phần làm cho xã hội tồn tại và phát triển trong thế ổn định và bền vững.

Trên thế giới, thuật ngữ "an ninh xã hội” (hoặc an toàn xã

hội - Social Security) được sử dụng phổ biến, vì nó phân biệt

với thuật ngữ "an ninh kinh tế” và "an ninh chính tri". Hoa Kỳ đã có Luật về an ninh xã hội năm 1935 (The Social

Security Act 1935). Tổ chức lao động quốc tế đã có Cơng ước số 102 năm 1952 - Công ước về quy phạm tối thiểu về

an toàn (an ninh) xã hội. Tuy nhiên, ở nước ta, thuật ngữ "an sinh xã hội” ngày càng được sử dụng rộng rãi. Thuật ngữ nay

chẳng những nói lên thực chất của an ninh xã hội là vấn đề

an toàn trong đời sống xã hội mà còn để tránh nhầm lẫn với

thuật ngữ "trật tự an toàn xã hội" hoặc "an ninh quốc gia"... vốn thuộc về lĩnh vực giữ gìn quốc phịng, nội vụ.

Trong đời sống, mỗi con người tuy là một cá nhân song

lại tồn tại trong một cộng đồng người, một xã hội cụ thể. Vì thế, đã có quan điểm cho rằng con người là "thực thể sinh vật

- xã hội" và "trong tính hiện thực của nó, bản chất con người

là tổng hịa các quan hệ xã hoi". Để có thể tồn tại và phát triển, bên cạnh nhu cầu yên ổn về chính trị, kinh tế, con người còn muốn được yên ổn về mặt xã hội. Để dễ bề cai trị,

các giai cấp cầm quyền ở mỗi chế độ xã hội cũng muốn duy

<small>N°l, Dai học Quốc gia Ha Nội, 2002, tr. 6, 7, 8, 9, 44, 45; TS. Nguyễn</small>

<small>Quang Quynh: Luật lao động và an ninh xã hội, in lần thứ 3, Sai gon, 1972...</small>

<small>(1).Xem: C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn ráp, t. 3, Nxb. Chính trị quốc gia,</small>

<small>Hà Nội, 1995, tr. 11.</small>

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

trì xã hội trong trật tự, bình ổn. Như vậy, có thể nói: An sinh xã hội là nhu cầu tự nhiên của con người, kể cả người dân và

nhà cầm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi cá nhân, ở mỗi cộng đồng, ở mỗi quốc gia trong những giai đoạn khác nhau, trong những hoàn cảnh kinh tế-xã hội, điều kiện địa lý, tập quán, truyền thống khác nhau thì "nhu cầu về an sinh" lại có những

điểm khơng hẳn giống nhau.

<small>Trong xã hội nơng nghiệp, lực lượng lao động xã hội đa</small>

phần là người nông dân. Nền kinh tế chủ yếu dựa trên hoạt động sản xuất tự cấp, tự túc phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên,

<small>thường là khép kín trong một đơn vị gia đình, làng xã. Do</small>

đó, sự bất ổn ít xảy ra và nếu có thì cũng thường được giải quyết trước hết trong khn khổ gia đình dịng họ hoặc bằng cộng đồng làng mạc. Nhà nước và tôn giáo, bằng những cách

thức khác nhau cũng tham gia vào quá trình giải quyết này. Trong xã hội công nghiệp, nền kinh tế sản xuất hàng hố với mục đích kiếm tìm lợi nhuận đầy năng động đã tách con người ra khỏi cộng đồng làng xóm quen thuộc. Các đơ thị lớn thay nhau mọc lên. Sức lao động trở thành hàng hóa. Sự th

mướn nhân cơng phát triển, quan hệ lao động làm thuê giữ vị trí phổ biến trong xã hội. Những bất ổn gây ra cho người lao

động "lam công ăn lương” như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp... ngày càng gia tăng cùng với sự

phát triển của đại cơng nghiệp cơ khí. Bên cạnh những người

<small>lao động làm cơng ăn lương (có tham gia vào quan hệ laođộng), những người lao động tự do (không tham gia vào quan</small>

hệ lao động), những người khơng có khả năng lao động (trẻ em, người tàn tật...), những người khơng cịn khả năng lao

động (bị tai nạn rủi ro, vì già yếu, mắc các bệnh xã hội...)

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

cũng chiếm một số lượng không nhỏ trong xã hội. Đồng thời, những vấn đề như thiên tai (bão lụt, hạn hán, động đất...), nhân tai (chiến tranh, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường...) cũng

thường xuyên xảy ra gây nhiều bất ổn, bất hạnh cho người

dân, nhất là những người thuộc nhóm "yếu thế”. Đối với các

nước nghèo, dân số đông, dịch vụ xã hội chưa phát triển thì "các vấn đề xã hoi" càng là một gánh nặng, nan giải.

Tóm lại, những nguyên nhân (cả khách quan và chủ quan, cả thiên nhiên lẫn xã hội) đã khiến cho khơng ít người rơi vào những hồn cảnh bất lợi, khó có điều kiện tồn tại và

cơ hội phát triển. Một xã hội có nhiều thành viên khơng có đủ điều kiện sống tối thiểu và phát triển nhân cách là một xã hội bất ổn, thiếu an sinh, an toàn. Như vậy, xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì nhu cầu về an sinh xã hội cũng phát

<small>sinh ngày càng tăng.</small>

Trước các nhu cầu của người dân về an sinh như vậy, bên cạnh các cách thức đáp ứng truyền thống như đùm bọc, chia sẻ giữa các cá nhân, giúp đỡ của cộng đồng, của tôn giáo (nhà chùa, nhà thờ) thì nhà nước phải đứng ra gánh vác "trách nhiệm

xã hội" của mình. Ở một số quốc gia, do sớm ý thức được nhu

cầu an sinh của người dân và trách nhiệm xã hội của mình,

<small>nhà nước đã áp dụng những phương sách, biện pháp khác</small>

nhau nhằm yên dân, ổn định xã hội. Các phương sách, biện

<small>pháp đó thường được gọi chung là các "chính sách xã hội”.</small>

Cùng với việc đề ra các chính sách xã hội, là việc ban hành

một hệ thống luật pháp về xã hội để cụ thể hố và thực thi các chính sách đó. Bởi vì, bằng cách thức và sức mạnh đặc trưng

của mình, pháp luật biến những chủ trương, chính sách về mặt

xã hội thành những điều quy định bắt buộc các bên tham gia

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

phải thực hiện và cùng với nó là các chế tài tương ứng.

Ở Việt Nam, một nước nơng nghiệp, nền kinh tế cịn

chưa phát triển, lại thường phải gánh chịu thiên tai, dich hoa,

nên vấn đề an sinh xã hội đã đặt ra từ rất sớm. Với truyền thống "tương than", "tương ái”, việc nhường cơm sẻ áo cho

nhau trong những lúc “tắt lửa tối đèn” đã để lại cho đời nhiều câu chuyện cảm động như cổ tích. Nhiều loại quỹ, với

những tên gọi khác nhau, như "nghĩa điền", "nghĩa thương”, "tương tế”... đã sớm được lập ra với sự đóng góp của cộng đồng, sự trợ giúp của những nhà hảo tâm, của nhà chùa, nhà

thờ để làm việc nghĩa, việc thiện. Để yên dân, các nhà nước

phong kiến dưới các hình thức và mức độ khác nhau đã thực thi một số các chính sách cứu tế, cứu trợ và ưu đãi như "phát

chẩn" vào những năm đói kém, "giảm thuế" vào những năm thiên tai, cấp "bổng lộc" đối với những người có cơng với triều đại, với dân, với nước... Tuy cịn có nhiều điểm hạn chế

nhưng nhìn chung các chính sách, chế độ này đã có ý nghĩa

đáng kể trong việc giảm thiểu những khó khăn vật chất và tinh thần của người dân, phần nào đã thể hiện được tư tưởng

"di dân vi ban" (lấy dân làm gốc) của các nhà nước phong kiến trong những thời kỳ tiến bộ, gần dân.

Hiện nay, đất nước ta đang trên bước đường đẩy mạnh sự

<small>nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vì mục tiêu "dan giàu,</small>

nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh". Đảng và

Nhà nước chủ trương thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với phương châm "tất cả vì con người, do con người". Do vậy, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, chính sách xã hội đã được đề cập: "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của con người: điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hố, quan hệ gia</small>

đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hoi" Tại Dai hoi IX của Dang năm

2001, vấn dé an sinh xã hội càng được nhấn mạnh: "Khdn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với

người lao động thất nghiệp... Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng,

bao gôm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những người gặp rủi ro,

bất hạnh... Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động

toàn dân tham gia các hoạt động dén ơn đáp nghĩa... ".'? Cụ thể hố các chủ trương, chính sách này, trong thời

gian qua, Nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản pháp

<small>luật, trong đó chứa đựng những quy định trong lĩnh vực trợ</small>

giúp con người, đền đáp người có cơng. Những quy định đó

đã tạo lập nên một số chế định như "bảo hiểm xã hội", "cứu

trợ xã hoi", "ưu đãi xã hội”... Trên cơ sở các chế định này đã bước đầu hình thành nên một lĩnh vực pháp luật mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là luật an sinh xã hội.

1.2. Những quan hệ xã hội là đối tượng của luật an sinh

<small>xã hội Việt Nam</small>

Như tên gọi của nó, đối tượng của luật an sinh xã hội là những

<small>quan hệ xã hội hình thành trong lính vực an sinh xã hội. An</small>

<small>(1).Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc</small>

<small>lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1986.</small>

<small>(2).Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốclần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 105, 106.</small>

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

sinh xã hội là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một "khái

niệm mo" nên có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.

Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con người. D6 là các quan hệ hình thành trong

lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa này, an sinh xã hội có thể bao

gồm các nhóm quan hệ sau:

- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp;

- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực chăm sóc y tế, bảo vệ sức khoẻ nhân dân;

- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hoá gia đình;

- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội;

<small>- Nhóm quan hệ trong lính vực cứu trợ xã hội;- Nhóm quan hệ trong lính vực ưu đãi xã hội;- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực mơi trường...</small>

Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, trước hết và chủ yếu là

những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp

những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai, địch hoạ. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Theo nghĩa này, an sinh

xã hội bao gồm các nhóm quan hệ chủ yếu sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Nhóm các quan hệ bảo hiểm xã hội;

<small>- Nhóm các quan hệ cứu trợ xã hội;- Nhóm các quan hệ ưu đãi xã hội;</small>

- Nhóm các quan hệ bảo hiểmy tế.

Đây cũng chính là các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật an sinh xã hội Việt Nam. Dưới

đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng nhóm quan hệ ấy. * Nhóm thứ nhất: Quan hệ bảo hiểm xã hội

Quan hệ bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quan hệ kinh tế

- xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo đảm trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ gặp những rủi ro trong quá trình lao động khiến khả năng lao động giảm sút hoặc khi

già yếu khơng cịn khả năng lao động. Theo ILO, bảo hiểm

xã hội là trụ cột chính hoặc cơ chế chính trong an sinh xã

hội. Bởi vì ngồi bảo hiểm xã hội (Social insurance), hệ

thống an sinh hay an toàn xã hội còn bao gồm cứu trợ xã hội (Social asistance), các chế độ trợ cấp và dịch vụ khác.

Quan hệ về bảo hiểm xã hội có một số điểm đặc trưng sau: - Đối tượng hưởng bảo hiểm chủ yếu áp dụng đối với người lao động hiểu theo nghĩa rộng. Đó có thể là cơng chức,

<small>cán bộ nhà nước, người lao động "làm công ăn lương”, người</small>

lao động ở các khu vực kinh tế khác và những người phục vụ

<small>trong lực lượng vũ trang.</small>

- Hình thức bảo hiểm thường có hai loại là bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Với hình thức bảo hiểm bắt

buộc thì mức độ đóng góp và các chế độ được hưởng được

quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Còn với hình thức bảo hiểm tự nguyện thì pháp luật thường có quy định mở để

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

cho người tham gia bảo hiểm tự lựa chọn mức thu nhập cần bảo hiểm để đóng góp và hưởng chế độ bảo hiểm.

- Nguồn trợ cấp bảo hiểm do "các bên" tham gia bảo hiểm đóng góp, chủ yếu là ba bên: Người lao động, người sử

dụng lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước. Từ sự đóng góp của

các bên tham gia bảo hiểm theo tỷ lệ quy định mà hình thành nên quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiền tệ

tập trung, do cơ quan chức năng quản lý thống nhất theo chế độ tài chính, hạch tốn độc lập và được Nhà nước bảo hộ.

- Mức trợ cấp bảo hiểm chủ yếu căn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội nhiều hay ít và mức

độ rủi ro, thương tật của người lao động cao hay thấp. Về cơ

bản, mức hưởng bảo hiểm được quán triệt theo nguyên tắc

"phân phối theo lao động”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp

còn vận dung cả nguyên tắc tương trợ "lấy số đơng bù số ít". - Chế độ hưởng và thời gian hưởng bảo hiểm bao gồm

các chế độ trợ cấp như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và

bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất và thất nghiệp. Thời gian

hưởng trợ cấp thường là ổn định và lâu dài.

Quan hệ về bảo hiểm được phân ra làm hai loại:

- Quan hệ trong việc tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội (nguồn

trợ cấp);

- Quan hệ trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã

hội (chi trả các khoản trợ cấp).

<small>* Nhóm thứ hai: Quan hệ cứu trợ xã hội</small>

Cứu trợ xã hội bao gồm tổng hợp các hình thức và biện pháp khác nhau nhằm trợ giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu

thế hoặc bị hãng hụt trong cuộc sống mà bản thân họ khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

có đủ khả năng tự lo liệu, giải quyết được. Thông qua sự trợ giúp mà tạo cho họ điều kiện tồn tại và cơ hội hồ nhập với

cộng đồng, từ đó góp phần đảm bảo ổn định và công bằng xã

<small>hội. Quan hệ cứu trợ xã hội là quan hệ hình thành giữa “ngườicứu trợ” và "người được cứu trợ”. Người cứu trợ là người có</small>

trách nhiệm hoặc là người có khả năng cứu trợ. Đó có thể là

Nhà nước, cộng đồng nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Người được cứu trợ là những cá nhân cơng dân thực sự có nhu cầu cứu trợ, do đang gặp những hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh.

Nhìn chung, quan hệ về cứu trợ xã hội có một số những

điểm đặc trưng sau:

- Đối tượng cứu trợ là các cơng dân nói chung đang lâm

vào hồn cảnh khó khăn về vật chất và tinh thần. Đó có thể

<small>là người có quan hệ lao động hoặc khơng có quan hệ lao</small>

động, có thể là người già hoặc trẻ em, người tàn tật, người lang thang, người mắc các chứng bệnh xã hội...

- Hình thức cứu trợ chủ yếu gồm hai hình thức là cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất. Cứu trợ thường xuyên thường

áp dụng đối với những người hồn tồn khơng thể tự lo được

cuộc sống trong thời gian dài hoặc trong suốt cả cuộc đời của họ. Cứu trợ đột xuất thường áp dụng đối với những người không may bị thiên tai mất mùa hoặc gặp những biến cố bất thường mà khơng có nguồn sinh sống tức thời.

- Nguồn cứu trợ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn ủng hộ của nhân dân và cộng đồng quốc tế. Người thụ hưởng khơng phải đóng góp bất kỳ khoản nào vào

<small>quỹ cứu trợ.</small>

- Mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp cấp căn cứ chủ yếu vào mức độ khó khăn của người được cứu trợ và vào

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nguồn cứu trợ. Ngồi trợ cấp bằng tiền, có thể có trợ giúp bằng hiện vật.

<small>* Nhóm thứ ba: Quan hệ ưu đãi xã hội</small>

Ưu đãi xã hội (social privilege) là sự đãi ngộ về vật chất

và tinh thần đối với những người có cơng với nước, với dân,

với cách mạng (và thành viên của gia đình) nhằm ghi nhận

những cơng lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ. Trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, ưu đãi xã hội có vị trí to lớn và đặc biệt. Nó có vị trí to lớn, vì trải qua những năm tháng

lâu đài, gian khổ của chiến tranh giữ nước thì số lượng

<small>những thương binh, liệt sỹ, người có cơng với cách mạng là</small>

khá lớn (khoảng 6,3 triệu người, chiếm tỷ lệ trên 8% dân số). Nó đặc biệt, vì ưu đãi xã hội trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật về an sinh xã hội là một nét đặc thù của pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam. Điều này

chẳng những thể hiện trách nhiệm xã hội của Nhà nước mà

cịn nói lên đạo lý "uống nước nhớ nguồn”, "ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc.

<small>Quan hệ ưu đãi xã hội hình thành giữa hai bên: “ngườiưu dai" và "người được ưu dai". Người ưu đãi thường là Nhà</small>

nước, người đại diện và thay mặt cho quốc gia có trách nhiệm đền ơn đáp nghĩa đối với những cống hiến, hy sinh của người có cơng. Ngồi ra, người ưu đãi cũng còn bao gồm

các tổ chức, cộng đồng nhân dân trong nước cũng như nước

<small>ngoài. Người được ưu đãi là những cá nhân đã có những</small>

cống hiến, hy sinh trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Người được ưu đãi, trong một số trường hợp cũng còn có thể là thân nhân của người có cơng.

Quan hệ ưu đãi xã hội có một số điểm đặc trưng sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Đối tượng ưu đãi là người có cơng với cách mạng và thân nhân của họ, bao gồm: Người hoạt động cách mạng

<small>trước tháng tam năm 1945; liệt sỹ và gia đình liệt sỹ; anhhùng lực lượng vũ trang nhân dân; bà mẹ Việt Nam anhhùng; anh hùng lao động; thương binh, bệnh binh...</small>

- Nguồn trợ cấp ưu đãi chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp. Ngồi ra, cịn được huy động từ các nguồn đóng góp của

các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và ngoài nước.

- Chế độ ưu đãi bao gồm các chế độ trong các lĩnh vực khác nhau như: Y tế, giáo dục đào tạo, lao động, việc làm, trợ cấp trong đời sống sinh hoạt...

- Mức trợ cấp ưu đãi và thời gian hưởng: Mức trợ cấp căn cứ vào thời gian và mức độ cống hiến, hy sinh của người có cơng. Nhìn chung, mức trợ cấp đảm bảo sao cho đời sống vật

chất va tinh thần của người hưởng trợ cấp ít nhất bằng mức

sống trung bình của người dân ở nơi họ cư trú. Thời gian

hưởng trợ cấp ưu đãi tương đối ổn định, lâu dài. * Nhóm thứ tư: Quan hệ bảo hiểm y tế

Quan hệ bảo hiểm y tế là các quan hệ xã hội hình thành giữa người tham gia bảo hiểm y tế, tổ chưc bảo hiểm y tế và cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong q trình chăm sóc sức khoẻ, khơng vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ

<small>chức thực hiện.</small>

- Đối tượng tham gia bảo bảo hiểm y tế chủ yếu là các

công dân Việt Nam, không phân biệt theo bất cứ tiêu chí nào.

- Nguồn kinh phí thực hiện bảo hiểm y tế chủ yếu là từ nguồn đóng bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước.

- Chế độ bảo hiểm y tế cho người tham gia chủ yếu bao

gồm các chi phí về chăm sóc y tế, thuốc chữa bệnh va vật tư

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

y tế... theo yêu cầu khám chữa bệnh và theo quy định.

2. Phương pháp điều chỉnh của luật an sinh xã hội Nếu như đối tượng điều chỉnh là căn cứ thứ nhất để phân

định một ngành luật thì phương pháp điều chỉnh là căn cứ thứ

hai để phân định ngành luật ấy. Trong khoa học pháp lý, phương pháp điều chỉnh của một ngành luật thường được hiểu

là cách thức, biện pháp mà Nhà nước sử dụng, thông qua các

quy phạm pháp luật, để tác động lên hành vi xử sự của các

bên tham gia quan hệ xã hội thuộc đối tượng của ngành luật ấy. Phương pháp điều chỉnh của mỗi ngành luật, suy cho cùng,

được xác định bởi tính chất, đặc điểm của đối tượng điều

chỉnh, tức là của những quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Như trên đã nói, các quan hệ xã hội là đối tượng của luật an sinh

xã hội bao gồm nhiều loại, có tính chất, đặc điểm khá phong phú và phức tạp. Do vậy, để cho việc điều chỉnh pháp luật được phù hợp và hiệu quả, Nhà nước sử dụng tổng hợp nhiều

phương pháp, trong đó có hai phương pháp chủ yếu thường

<small>dùng là: Phương pháp mệnh lệnh và phương pháp tuỳ nghi.2.1. Phương pháp mệnh lệnh</small>

Phương pháp mệnh lệnh thể hiện ở việc sử dụng "quyển

uy” và "phục ting". Cơ sở của phương pháp mệnh lệnh, trước

hết nằm ngay trong chức năng xã hội của Nhà nước. La

<small>người đại diện và thay mặt cho toàn xã hội, Nhà nước đứng</small>

ra tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có vấn đề an sinh xã hội. Bằng cơng cụ pháp luật, Nhà nước biến

các "chính sách xã hội" của mình thành các quyền nghĩa vu, trách nhiệm của các bên tham gia và bảo đảm thực hiện

chúng. Muốn vậy, Nhà nước không thể không sử dụng đến

quyền uy. Thêm nữa, cơ sở của phương pháp mệnh lệnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

cũng nằm chính trong tính chất, đặc điểm của các quan hệ an

sinh xã hội. Tính chất của an sinh xã hội thường là "trợ giúp” và "đền đáp", muốn thực hiện có hiệu quả điều này thì người đảm trách phải có khả năng, có nguồn lực đủ mạnh. Trong

xã hội, chỉ Nhà nước - người đại diện, người nắm quyền lực

cao nhất đồng thời là người chủ sở hữu cao nhất, mới có

được khả năng đó. Bằng hệ thống luật pháp và thơng qua các cơ quan chức năng của mình, Nhà nước thể hiện như là

người đảm nhiệm chính những trách nhiệm xã hội.

Trong an sinh xã hội, quyền uy thể hiện rõ ràng ở những

quy phạm "cứng". Chẳng hạn, như trong lĩnh vực bảo hiểm

xã hội, phương pháp mệnh lệnh được thể hiện rõ trong việc quy định hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc. Bằng việc quy định sự đóng góp bắt buộc của các bên vào quỹ bảo hiểm xã hội, cũng như bắt buộc áp dụng các chế độ trợ cấp bảo hiểm,

pháp luật đã góp phần làm tăng ý nghĩa, tầm quan trọng của

bảo hiểm xã hội trong khu vực có quan hệ lao động. Bởi vì,

đây là khu vực rộng lớn, có đơng đảo lực lượng lao động tham gia và đang làm ra nhiều của cải cho xã hội. Trong ưu đãi xã

hội, phương pháp mệnh lệnh cũng được sử dụng phổ biến. Ở đây,

Nhà nước định ra chính sách, chế độ và bắt buộc các bên

tham gia (chủ yếu và trước hết là phía các cơ quan chức năng

của chính Nhà nước) phải thực hiện. Có thể có thoả thuận ở

chỗ này, chỗ khác nhưng chỉ là đối với một số trường hợp và trong những điều kiện nhất định. Đồng thời với việc quy định chặt chế quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên, việc

thanh kiểm tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tranh chấp

với các chế tài tương ứng cũng được quy định rõ ràng, chặt chẽ. Chính do sự có mặt của phương pháp mệnh lệnh, phương pháp điều chỉnh đặc thù của ngành luật hành chính, đã khiến

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

cho trước đây (khi an sinh xã hội chưa trở thành một ngành luật độc lập) người ta hay xếp một số các lĩnh vực thuộc an sinh xã hội (như cứu trợ, ưu đãi) vào số các đối tượng của

ngành luật này. Tuy nhiên, có thể thấy việc sử dụng quyền uy và phục tùng trong luật an sinh xã hội "mềm" hơn trong ngành luật hành chính - nơi thể hiện rõ mối quan hệ cơng quyền, giữa cấp trên và cấp dưới. Nghĩa là trong an sinh xã

hội nó chi được sử dụng trong những lĩnh vực, những mối quan hệ cần thiết và, "quyền uy" trong khi sử dụng ở đây vẫn

thường được kết hợp với các hoạt động của các tổ chức đại

diện của những đối tượng được trợ giúp hoặc được đền đáp,

ví như các tổ chức "Cơng đồn", "Hội chữ thập đỏ", "Hội

cựu chiến binh", "Hội những người tàn tật”...

<small>2.2. Phương pháp tuỳ nghĩ</small>

Phương pháp tuỳ nghi thể hiện ở chỗ Nhà nước để cho

các bên tham gia quan hệ tự lựa chọn cách thức xử sự của mình, miễn sao không trái với những quy định cứng (xử sự

bắt buộc). Cơ sở của phương pháp này, trước hết nằm ngay trong tính chất, đặc điểm của các quan hệ là đối tượng của

<small>luật an sinh xã hội. Nhu đã nói trên, an sinh xã hội là lĩnh</small>

vực của sự "trợ giúp" và "đền đáp" (chủ yếu là bằng tiền và

hiện vật) mà sự trợ giúp, đền đáp bên cạnh trách nhiệm của Nhà nước, còn là sự tuỳ tâm của cá nhân hoặc tuỳ thuộc vào khả năng của cộng đồng cũng như của chính Nhà nước. Chính tính chất "tuỳ tâm”, "tuỳ khả năng” này là cơ sở cho việc áp dụng phương pháp tuỳ nghi. Cơ sở của phương pháp

tuỳ nghi cũng nằm ngay trong tính xã hội của an sinh xã hội.

Những người có cơng với nước là những người đã cống hiến cuộc đời họ không phải cho một người mà cho một số đông

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>người, cho xã hội. Do đó, trách nhiệm thực hiện ưu đãi xã</small>

hội không phải chỉ là việc riêng, trách nhiệm riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội. Tương tự như vậy, việc cứu trợ là công việc, trách nhiệm của Nhà nước, cũng là của cộng đồng và toàn dân. Do vậy, bên cạnh việc áp dụng phương pháp mệnh lệnh (quyền uy và phục

<small>tùng), trong luật an sinh xã hội phương pháp tuỳ nghi cũng</small>

được sử dụng khá phổ biến. Điều này cũng phù hợp với chủ

trương "xã hội hố” việc thực hiện các cơng việc xã hội của

Nhà nước ta. Bằng phương pháp tuỳ nghi (thể hiện trong

những quy phạm tuỳ nghi), Nhà nước chia sẻ bớt gánh nang trách nhiệm xã hội của mình cho cộng đồng, cá nhân có khả năng và tấm lịng, huy động được mọi nguồn lực cho việc giải quyết những vấn đề xã hội. Điều này cũng phần nào

phản ánh nguyên tắc, mục tiêu hoạt động của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa là "của dân, do dân và vì dân".

<small>Trong luật an sinh xã hội, phương pháp tuỳ nghi thường</small>

được thể hiện trong các quy phạm "mềm". Chang hạn, như

trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bên cạnh loại hình bảo hiểm bắt buộc, pháp luật cũng quy định loại hình bảo hiểm tự nguyện. Với loại hình bảo hiểm tự nguyện, pháp luật tạo điều kiện cho nhiều người có thể được hưởng một số chế độ bảo hiểm thiết yếu khi họ khơng có điều kiện tham gia bảo hiểm bắt buộc. Đặc biệt, trong lĩnh vực cứu trợ xã hội, bên cạnh các nỗ lực chính của mình, bằng những quy phạm tuỳ

nghi Nhà nước đã huy động, khuyến khích được nhiều sự

đóng góp, chia sẻ tự nguyện của các tổ chức, tư nhân. Ngay

cả trong ưu đãi xã hội, nơi phương pháp mệnh lệnh được sử

dụng phổ biến (quy định rõ ràng các trường hợp trợ cấp và

các khoản trợ cấp) thì cũng khơng hoàn toàn loại trừ phương

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

pháp tuỳ nghi (như khuyến khích việc xây dựng các nhà tình

nghĩa, nhà dưỡng lão, lập quỹ "dén ơn đáp nghĩa", tặng sổ

tiết kiệm cho các đối tượng...).

Tuy nhiên, việc phân chia ra hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật an sinh xã hội, dù sao, cũng chỉ mang tính

tương đối. Đối tượng của luật an sinh xã hội là một "tổ hợp"

các quan hệ tuy cùng loại nhưng lại bao gồm nhiều nhóm

khác nhau, có đặc điểm riêng, lại đan xen vào nhau. Do vậy, để sự điều chỉnh pháp luật phù hợp và đạt hiệu quả cao thì

tuỳ từng loại quan hệ hoặc từng mặt của quan hệ mà sử dụng

<small>các phương pháp cho thích hợp và linh hoạt.</small>

Qua việc phân tích đối tượng và phương pháp điều chỉnh

của luật an sinh xã hội, có thể sơ bộ định nghĩa: Luật an sinh xã hội Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực tổ chức và thực hiện việc trợ giúp đối với các

cá nhân (thành viên của xã hội) trong trường hợp rủi ro,

hiểm nghèo nhằm giảm bớt những khó khăn, bất hạnh mà bản thân họ khơng thể tự mình khắc phục được, góp phần bảo đảm cho xã hội tơn tại và phát triển an tồn, bền vững, công bằng và tiến bộ.

II. MOI QUAN HỆ GIỮA LUẬT AN SINH XÃ HỘI VÀ

MỘT SỐ NGÀNH LUẬT KHÁC

Để làm rõ hơn về ngành luật an sinh xã hội, cũng nên

xem xét mối quan hệ giữa nó với các ngành luật khác, có đối tượng điều chỉnh tương đối gần gũi với luật an sinh xã hội. Trước hết và chủ yếu là mối quan hệ giữa luật an sinh xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>và luật hành chính, luật an sinh xã hội và luật lao động.1. Luật an sinh xã hội và luật hành chính</small>

<small>Luật an sinh xã hội có quan hệ khá chặt chế với luật hành</small>

chính, thậm chí có một số nội dung thuộc luật an sinh xã hội

còn thể hiện như là một bộ phận của luật hành chính. Điều này cũng dễ hiểu, bởi hai lý do:

Thứ nhất, đối tượng của luật hành chính là các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng xã hội là một trong những chức năng chủ yếu, quan trọng của Nhà nước, bên cạnh các chức năng chính trị, kinh tế, văn hố, quốc phịng,

nhất là đối với một nhà nước chủ trương phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa... An sinh xã hội, nếu hiểu theo

nghĩa rộng cũng có nội dung chủ yếu bao gồm những hoạt

động thuộc chức năng xã hội của Nhà nước. Có thể nói, đây là "lý do khách quan" để luật an sinh xã hội ln ln có

những phần giao nhau với luật hành chính. Vì vậy, đã có

quan điểm cho rằng để quản lý xã hội có hiệu quả, Nhà nước

nên xây dựng một Bộ luật xã hội. Đối tượng của Bộ luật xã

hội sẽ bao gồm cả những quan hệ an sinh xã hội hiểu theo

<small>nghĩa rộng. Nghĩa là ngoài ba bộ phận hợp thành an sinh xã</small>

hội (bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội) Bộ luật

xã hội còn bao gồm cả những lĩnh vực thuộc về dân số, việc làm, tiền lương, mơi trường...

Thứ hai, vì ở nước ta các quy phạm về an sinh xã hội chậm trưởng thành đủ sức tách ra thành một ngành luật độc lập nên trong một thời gian dài, những hoạt động về an sinh

xã hội đã "buộc" luật hành chính phải "ơm" cả. Có thể nói,

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

đây là "lý do chủ quan" thuộc về bản thân sự chậm trưởng thành của luật an sinh xã hội.

Hiện nay, khi an sinh xã hội đã trở thành ngành luật độc lập thì mối quan hệ giữa luật an sinh xã hội với luật hành chính vẫn cịn, cả trên bình diện đối tượng và phương pháp

điều chỉnh nhưng đã có những thay đổi đáng kể.

Trong một chừng mực cần thiết, một số những nội dung của an sinh xã hội vẫn ít nhiều thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hành chính, tuy nhiên chỉ ở "tầm vi m6", có liên quan đến chức năng quản lý mọi mặt xã hội nói chung của

Nhà nước. Còn các mối quan hệ chủ yếu và cụ thể trong lĩnh

vực an sinh xã hội sẽ thuộc đối tượng của luật an sinh xã hội.

<small>Trong khoa học pháp lý cũng vậy, khoa học luật hành chính</small>

chỉ nghiên cứu các quy phạm luật an sinh xã hội ở tầm khái quát chung, trong chừng mực có quan hệ với chức năng quản

lý xã hội của Nhà nước. Còn việc xem xét, nghiên cứu cụ thể quá trình phát sinh, phát triển của các quy phạm luật an sinh

xã hội sẽ thuộc đối tượng của khoa học luật an sinh xã hội -ngành khoa học trẻ đang dần hình thành cùng với -ngành luật

<small>an sinh xã hội.</small>

Một điều dễ nhận thấy, ảnh hưởng của luật hành chính đối với luật an sinh xã hội còn là ở việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh - phương pháp điều chỉnh đặc thù của ngành luật này. Tuy nhiên, như đã nói trên, việc sử dụng quyền uy trong

<small>luật an sinh xã hội cũng có những nét riêng, phù hợp với tính</small>

chất, đặc điểm của các quan hệ xã hội là đối tượng điều

chỉnh của ngành luật mang đậm tính nhân đạo, nhân văn này.

<small>2. Luật an sinh xã hội và luật lao động</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Ở nhiều nước phát triển, bảo hiểm xã hội từ lâu đã được

tách ra khỏi luật lao động và được kết hợp với các chế độ

<small>khác, như cứu trợ, dự phòng xã hội... làm thành luật an ninh</small>

(hay an toàn) xã hội, bảo đảm xã hội...

Ở nước ta, từ trước đến nay việc bảo đảm đời sống cho

các thành viên của xã hội nói chung cũng như cho người tham gia quan hệ lao động nói riêng, cịn ở mức độ hạn chế.

Do vậy, các quy phạm về bảo hiểm xã hội vẫn là một chế

định thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật lao động

(các quan hệ về bảo hiểm xã hội được xem là một trong các

quan hệ có quan hệ trực tiếp với quan hệ lao động "làm công ăn lương”). Cho đến nay, tình hình đã khác. Khi các quy phạm trong lĩnh vực bảo đảm đời sống cho người lao động

cũng như các thành viên khác của xã hội đã phát triển đến

<small>mức tách thành ngành luật độc lập thì đương nhiên các quy</small>

phạm về bảo hiểm xã hội cũng sẽ phải tách ra khỏi luật lao động để trở thành một bộ phận chủ yếu, quan trọng của luật

an sinh xã hội. Điều này không chỉ phản ánh mức độ trưởng thành của các quy phạm an sinh xã hội ở nước ta mà cịn nói

lên sự phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Tuy chế định bảo hiểm xã hội được tách ra khỏi luật lao động để nhập vào luật an sinh xã hội nhưng nó vẫn có liên

quan mật thiết với luật lao động, bởi vì giữa "quan hệ lao

<small>dong" và "quan hệ hau lao dong" tuy khác nhau nhưng lại có</small>

quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Chang hạn, việc trả các

khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội thuộc về an sinh xã hội nhưng những căn cứ để xác định trường hợp được hưởng trợ cấp,

cũng như xác định mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp lại thường là những sự kiện liên quan đến người lao động khi

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small>còn đang tham gia quan hệ lao động.</small>

II. CÁC NGUYEN TAC CƠ BAN CUA LUAT AN

SINH XA HOI

Các nguyên tac cơ bản của một ngành luật là những

nguyên lý, tư tưởng chủ đạo chi phối tồn bộ ngành luật đó.

Nội dung của các ngun tắc này thể hiện quan điểm, đường

lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, của mỗi nhà nước.

Các nguyên tắc cơ bản của luật an sinh xã hội Việt Nam

là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật an sinh xã hội. "Linh hồn" của

các nguyên tắc này chính là các quan điểm, đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế - xã hội nói chung và về vị trí, vai trị của con người trong cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng. Các nguyên tắc cơ bản của luật an sinh xã hội cụ thể bao gồm:

1. Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được

hưởng an sinh xã hội

Tại Điều 3 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc (10/12/1948) đã tuyên bố: “Mọi người đều có

quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân”. Tại Điều 22, Tun ngơn cịn tun bố: “Mơi người, vì là một thành viên của xã hội, có quyền duoc dam bdo an ninh xã hội và được đảm bảo để được thực hiện các quyền không thể thiếu được về kinh tế, xã hội và văn hoá, phẩm giá và sự phát triển tự

do nhân cách cá nhân”. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (16/12/1966) đã một lần nữa ghi nhận: “Các quốc gia thành viên cua công ước cơng nhận

quyền của mọi người được hưởng an tồn xã hội, kể cả bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

hiểm xã hội". Như vậy, rõ ràng, "được bảo đảm về an sinh

xã hội" là quyền quan trọng trong lĩnh vực rộng lớn các

quyền của con người.

Trong phạm vi một quốc gia, được bảo đảm an sinh xã hội cũng là một trong những quyền cơ bản của công dân, với các mức độ khác nhau, được hầu hết hiến pháp các nước ghi

nhận. Ở nước ta, quyền an sinh xã hội được đề cập tại nhiều điều

của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), cụ thể như về bảo hiểm xã

hội (Điều 59), về ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội (Điều 67)... Được hưởng an sinh xã hội là quyền của cơng dân và

được thực hiện bình đẳng giữa các thành viên xã hội là một

nguyên tắc quan trọng. Tuy nhiên, để được hưởng một chế độ trợ giúp cụ thể nào đó thì đối tượng được trợ giúp phải thoả mãn những điều kiện nhất định. Vi du, đối tượng để được hưởng bảo hiểm xã hội phải là người lao động và phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. Đối tượng được hưởng

trợ cấp cứu trợ xã hội phải là người đang gặp hoàn cảnh rủi

ro, bất hạnh mà bản thân mình khơng tự khắc phục được.

Tương tự như vậy, được hưởng trợ cấp ưu đãi xã hội phải là những người đã có cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.

2. Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề an sinh xã hội Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay chính ở chức năng

xã hội của Nhà nước. Nhà nước, người chủ sở hữu cao nhất, đồng thời là người chủ sử dụng lao động lớn nhất, người đại điện cho toàn xã hội phải là người thống nhất quản lý toàn

<small>bộ lĩnh vực an sinh xã hội.</small>

Sự thống nhất quản lý an sinh xã hội thể hiện ở chỗ, trước

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

hết, Nhà nước định ra các "chính sách xã hội”, cùng với các chính sách kinh tế, chính sách văn hố, an ninh quốc phịng. Đồng thời, Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật an sinh xã

hội nhằm thể chế hố các chính sách xã hội ấy. Để thực thi

có hiệu quả các văn bản pháp luật, Nhà nước thành lập hệ thống các cơ quan chức năng về an sinh xã hội cũng như

kiểm tra việc tổ chức, thực hiện các chính sách, chế độ an

sinh xã hội của các cơ quan này.

Là người chủ sở hữu lớn nhất, Nhà nước còn trực tiếp đóng góp hoặc hỗ trợ vào nguồn thực hiện các chế độ an sinh

xã hội. Vi du, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bên cạnh sự đóng

góp của người sử dụng lao động và người lao động. Phần lớn

quỹ dùng để ưu đãi cho người có cơng với cách mạng và quỹ

cứu trợ xã hội cũng chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp.

Tuy nhiên, nguyên tac Nhà nước thống nhất quản lý an

<small>sinh xã hội khơng có nghĩa là hồn tồn loại trừ sự tham gia</small>

quản lý của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức, đoàn thể xã hội. Tuỳ theo vị trí, chức năng của từng tổ chức, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Cơng đồn, Hội nông dân Việt

Nam, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội chữ thập đỏ... mà pháp luật trao cho họ một số quyền và cả trách

nhiệm tương ứng trong việc tham gia tổ chức, quản lý một số

<small>mặt hoạt động thuộc an sinh xã hội.</small>

3. Kết hợp hài hồ chính sách kinh tế và chính sách

<small>xã hội</small>

Ngun tắc kết hợp hài hồ chính sách kinh tế và chính

sách xã hội xuất phát từ quan niệm "con người vừa là mục

<small>x4 TT</small>

tiêu, vừa là động lực của chính sách xã hội" của Nhà nước ta.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Mục tiêu của chính sách xã hội là nhằm phát huy sức mạnh

của nhân tố con người và vì con người. Trong khi đó, nguồn

lực con người lại được xác định là "yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". Đến lượt nó, phát triển kinh tế lại đóng vai trị là cơ sở, là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội. Do vậy, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội, giữa tăng

trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội là một chủ trương có tính chiến lược của Nhà nước ta. Chúng ta không chờ cho nền

kinh tế phát triển cao rồi mới tiến hành giải quyết các vấn đề

xã hội mà chú trọng đến các vấn đề xã hội ngay trong từng

bước cũng như trong suốt quá trình phát triển kinh tế. "Kết hợp hài hồ", cũng khơng đồng nghĩa với ảo tưởng là có thể

giải quyết tất cả các vấn đề xã hội ngay trong cùng một lúc, nhất là đối với một quốc gia đang ở giai đoạn thấp của sự

phát triển như nước ta hiện nay.

Có thể nói, khơng ngành luật nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam mà nguyên tắc kết hợp hài hồ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội lại thể hiện một cách rõ

ràng và xuyên suốt như trong luật an sinh xã hội.

4. Kết hợp hài hồ giữa ngun tắc "hưởng thụ theo

đóng g6p" và ngun tac "lấy số đơng bù số ít"

Ngun tắc có "tính chất kép" này rất đặc trưng cho pháp luật an sinh xã hội. Nếu nhìn riêng từng nguyên tắc nhỏ thì

thấy chúng chứa đựng những nội dung khác nhau, tuy nhiên

chúng không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau.

Nguyên tắc "hưởng thụ theo đóng góp" trong luật an sinh xã hội chính là sự cụ thể hố ngun tắc "công bằng xã hội" - nguyên tắc bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống. Điều

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

này là cần thiết, bởi vì đối với một nước đang phát triển như

Việt Nam thì hưởng thụ tương ứng với đóng góp, vẫn cịn là

một điều khơng thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nguyên tắc

"hưởng thụ theo đóng góp” trong an sinh xã hội khơng hồn

tồn giống như áp dụng nguyên tắc "phân phối theo lao động" trong luật lao động. Nguyên tắc này thường được áp dụng trong việc thực hiện trợ cấp bảo hiểm xã hội đối với

người lao động, cũng như trong chế độ ưu đãi người có cơng.

Ở đây, mức trợ cấp cho các đối tượng căn cứ chủ yếu vào

mức độ, thời gian đóng góp của họ vào quỹ trợ cấp (đối với

bảo hiểm xã hội) hoặc mức độ, thời gian cống hiến, hy sinh

của họ (đối với ưu đãi xã hội).

Nguyên tắc "lấy số đơng bù số ít" thể hiện tính nhân đạo xã hội. Nguyên tắc này thường chủ yếu được áp dụng trong các chế độ bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội. Tính thần cơ bản của nguyên tắc "lấy số đơng bù số ít" là ở chỗ, bằng sự đóng gop, trợ giúp của nhiều người sẽ hạn chế, giảm thiểu khó

khăn, bất hạnh cho một thiểu số người. Ở đây, tính tương trợ,

tương ái thể hiện rất rõ. Những đối tượng gặp rủi ro khơng

phải đóng góp gì và được trợ giúp căn cứ chủ yếu vào hồn

cảnh, mức độ khó khăn, hiểm nghèo của từng trường hợp. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu "sự kết hợp hài hoa" trong nguyên tắc này một cách máy móc như nhau ở mọi

nơi, mọi lúc. Tuỳ thuộc vào từng mặt của các mối quan hệ, hoặc từng khâu của mỗi chế độ, thậm chí từng loại đối tượng của an sinh xã hội mà có sự áp dụng cho linh hoạt và phù hợp. Có như vậy mới thực sự phát huy đúng tinh than của

ngun tắc có "tính chất kép" này.

Các trợ cấp an sinh xã hội có nhiều mức khác nhau. Tuy

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

nhiên, về nguyên tắc, mức trợ cấp không cao hơn mức thu

nhập khi làm việc, nhưng mức thấp nhất cũng phải đảm bảo

những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu cho những người thụ hưởng.

<small>5. Đa dạng hoá, xã hội hoá các hoạt động an sinh xã hội</small>

Các nguyên nhân gây ra rủi ro rất nhiều nên nhu cầu an sinh của các thành viên trong xã hội cũng rất đa dạng. Vì vậy,

để đáp ứng được các nhu cầu ấy, các hoạt động an sinh xã hội

cũng phải được đa dạng hoá. Nghĩa là cần đảm bảo sao cho

các chế độ an sinh xã hội phải thực sự là "tấm lá chắn", là "lưới an toàn" của xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng dù

sao các chế độ trợ giúp, các mức trợ cấp cũng phải trên cơ sở

nhu cầu thực tế và khơng thể thốt ly được khả năng và điều

kiện kinh tế - xã hội cua đất nước trong từng giai đoạn.

Việc tổ chức, thực hiện an sinh xã hội, như đã nói, trước

hết thuộc chức năng, trách nhiệm xã hội của Nhà nước, đặc biệt đối với một quốc gia chủ trương thực hiện "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" như Việt Nam. Tuy nhiên, điều này khơng hồn tồn loại trừ việc thực hiện xã hội hoá các hoạt động an sinh xã hội. Bởi vì, suy cho cùng, các cơng việc xã hội, các vấn đề xã hội phải do tồn xã hội đảm nhiệm, gánh vác, trong đó Nhà nước giữ vai trị ví như người "nhạc trưởng". Điều này cũng phù hợp với định nghĩa của ILO về an toàn xã hội: "An toàn xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thơng qua một loạt

<small>các biện pháp cơng cong..."</small>

Ngồi các nguyên tắc nêu trên, trong từng chế định của luật an sinh xã hội có thể cịn qn triệt các nguyên tắc khác nữa. Trên đây là các nguyên tắc cơ bản, chủ yếu, làm

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

cơ sở, nền tảng cho việc điều chỉnh các quan hệ an sinh xã hội ở nước ta.

IV. NGUỒN CỦA LUẬT AN SINH XÃ HỘI

Nguồn của một ngành luật là những văn bản quy phạm

pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo

một thủ tục và dưới những hình thức nhất định. Nói cách

khác, nguồn của một ngành luật là hình thức biểu hiện hay

tồn tại của ngành luật ấy. Các quy phạm của luật an sinh xã

hội cũng có các hình thức biểu hiện của nó, đó là các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ an sinh xã hội.

Nguồn của ngành luật là đơn giản hay phong phú chủ yếu phụ thuộc vào các quan hệ là đối tượng của ngành luật ấy. Do chỗ các quan hệ an sinh xã hội là tương đối đa dạng nên nguồn của luật an sinh xã hội cũng khá phong phú được chứa đựng trong một số lượng khơng ít các văn bản.

Thơng thường, người ta phân loại nguồn luật theo ba tiêu chí chủ yếu là:

- Căn cứ theo tiêu chí chủ thể ban hành, có thể phân ra

làm: văn bản của các cơ quan quyền lực nhà nước, của cơ quan hành chính nhà nước, của các cơ quan liên tịch.

- Căn cứ theo tiêu chí phạm vi hiệu lực, có thể phân ra

làm: văn bản của cơ quan nhà nước trung ương, của cơ quan nhà nước địa phương, của đơn vị cơ sở.

- Căn cứ theo tiêu chí cấp độ hiệu lực pháp lý, có thể

phân ra làm: văn bản luật, văn bản dưới luật.

<small>Trong các cách phân loại nói trên thì phân loại theo tiêu</small>

chí cấp độ hiệu lực pháp lý thường hay được sử dụng nhất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Dưới đây, nguồn của luật an sinh xã hội được xem xét theo

<small>tiêu chí phân loại này.</small>

1. Văn bản luật 1.1. Hiến pháp

Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội ban hành, trong

đó quy định những điều có tính ngun tắc, làm cơ sở nền

tảng cho tồn bộ hệ thống pháp luật, trong đó có luật an sinh xã hội. Do vậy, những quy định của Hiến pháp về an sinh xã hội được coi là những quy phạm gốc của luật an sinh xã hội. Điều này có nghĩa là mọi quy phạm khác của luật an sinh đều phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp về an sinh xã hội.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã có một số điều quy định trong lĩnh vực an sinh xã hội, cụ thể như : "... Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động" (Điều 56). “... thuc hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ (Điêu 39). "Thương

bình, bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng các chính sách

uu đãi cua Nhà nước. Thương bình được tạo điều kiện phục

hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ

và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có cơng

với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đố" (Điều 67)...

<small>34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Trên cơ sở "các quy định gốc" này của Hiến pháp, hệ thống pháp luật an sinh xã hội đã được xây dựng và từng

bước được hoàn thiện cùng với sự phát triển kinh tế, chính

trị, xã hội của đất nước. 1.2. Các văn bản luật

Cũng như Hiến pháp, các bộ luật hoặc luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành là nguồn quan trọng của ngành luật. Do hiện nay chúng ta chưa có bộ

<small>luật hoặc luật dành riêng cho an sinh xã hội nên các quy</small>

phạm về an sinh xã hội hiện hành nằm rải rác trong một số bộ luật hoặc luật khác. Cụ thể như Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 (được bổ sung, sửa đổi năm 2002 và năm 2006...) trong đó có Chương XII quy định về bảo hiểm xã hội đối với người lao động làm công ăn lương; Luật bảo hiểm xã hội được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006; Luật bảo hiểm y tế được Quốc hội

thông qua ngày 14/11/2008; Luật người khuyết tat được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010...

2. Văn bản dưới luật

<small>2.1. Pháp lệnh</small>

Pháp lệnh là hình thức văn bản do Uy ban thường vu Quốc hội ban hành có hiệu lực pháp lý thấp hơn luật. Pháp

lệnh thường dùng để điều chỉnh những quan hệ xã hội nào

đó trong khi chưa có điều kiện ban hành luật. Số pháp lệnh

hiện là nguồn của luật an sinh xã hội có thể kể đến: Pháp

lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh

<small>hùng” năm 1994 và Pháp lệnh ưu đãi người có cơng với cách</small>

mạng năm 2005 (sửa đổi năm 2007)...

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

2.2. Nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định cua Thủ tướng Chính phủ

Các hình thức văn bản này do cơ quan hành pháp cao

nhất ban hành nhằm hoặc để quyết định chính sách cụ thể nào đó hoặc để cụ thể hố, hướng dẫn thi hành đạo luật, pháp lệnh cũng như để diéu hành, phối hợp hoạt động của các

thành viên Chính phủ...

Hiện nay, các nghị định là nguồn của luật an sinh xã hội

chiếm số lượng khá nhiều. Cụ thể như:

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội;

- Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế;

<small>- Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 và Nghị</small>

định số 89/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 hướng dẫn thi hành

<small>Pháp lệnh ưu đãi người có cơng với cách mang;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội...

2.3. Thông tư của các bộ và thông tư liên tịch

Hình thức văn bản này thường do các bộ, cơ quan ngang

bộ ban hành để hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật

cao hơn (chủ yếu là các nghị định...) trong phạm vi liên quan đến quản lý ngành hoặc lĩnh vực của các cơ quan đó. Đây

cũng là loại văn bản khá phổ biến của luật an sinh xã hội. Thơng thường, để chi tiết hố hoặc hướng dẫn vấn đề nào đó

trong các nghị định của Chính phủ đã ban hành về an sinh xã

<small>hội, Bộ lao động, thương binh và xã hội ban hành các thơng tư.</small>

Để chi tiết hố hoặc hướng dẫn việc thực hiện một văn ban

của cấp cao hơn nhưng lại thuộc phạm vi, chức năng của

nhiều bộ, ngành hoặc để phối hợp hoạt động giữa các bộ,

<small>ngành trong lính vực nào đó thì hình thức thơng tư liên tịch</small>

thường được sử dụng. Bộ lao động, thương binh và xã hội

thường phối kết hợp với Bộ tài chính, Bộ y tế... để ra các thông tư liên tịch. Cụ thể như:

- Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007; Thông tư số 19/2008/TT-BLTBXH ngày 23/9/2008 và Thông tư số 41/2009/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 152/2006/NĐ-CP về

bảo hiểm xã hội bắt buộc;

- Thông tư số 02/2008/TT-BLĐTBXH ngày 31/01/2008 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

190/2007/NĐ-CP về bảo hiểm xã hội tự nguyện;

- Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

127/2008/NĐ-CP về bảo hiểm thất nghiệp;

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

- Thông tư số 07/2006/TT-BLDTBXH ngày 26/7/2006 và Thông tư số 02/2007/TT-BLĐTBXH ngày 26/7/2006 hướng dẫn về hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi người có cơng;

- Thơng tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-TC ngày

14/8/2009 hướng dãn thực hiện bảo hiểm y tế;

- Thông tư liên tịch số 24/2010/TTLT-BLDTBXH-BTC ngày 8/8/2010 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội...

Như vậy, xem xét nguồn của luật an sinh xã hội thấy

rằng các quy phạm pháp luật nằm rải rác ở nhiều văn bản,

phần nhiều là hình thức văn bản dưới luật. Điều này chẳng

những ảnh hưởng đến tính hệ thống, tính đồng bộ của ngành

<small>luật mà cịn gây khó khăn cho việc thực hiện chúng. Vậy</small>

nên, trong tương lai việc "hệ thống hoa" cũng như "luật hoa" các quy phạm về an sinh xã hội là điều cần thiết.

V. TỔ CHÚC LAO ĐỘNG QUỐC TE (ILO) VA AN

SINH XÃ HỘI

Trên phạm vi luật pháp quốc tế, đã hình thành một ngành luật gọi là luật lao động quốc tế, trong đó các cơng ước của

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) giữ một vai trị quan trọng

(đến nay số cơng ước ma ILO đã thông qua vào khoảng

180). Ở một số quốc gia, các quy phạm quốc tế về lao động

được coi như một nguồn luật, thậm chí có hiệu lực pháp lý

cao hơn luật pháp quốc gia. Ở nước ta, các điều ước quốc tế

không được coi là một nguồn luật trực tiếp của luật quốc gia. Tuy nhiên, chúng ta rất coi trọng các điều ước quốc tế mà

Việt Nam đã tham gia hoặc phê chuẩn. Kể cả một số các

<small>38</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa phê chuẩn cũng được "tham khảo" khi xây dựng pháp luật trong nước. Tổ chức lao

động quốc tế được nghiên cứu trong môn học luật quốc tế,

và một chừng mực nhất định trong môn học luật lao động. Ở

đây, chỉ xem xét ILO dưới góc độ khái qt nhất, trên bình diện có liên quan đến luật an sinh xã hội.

1. Khái quát về Tổ chức lao động quốc tế và mối quan

<small>hệ giữa Việt Nam với ILO</small>

1.1. Tổ chức và hoạt động của ILO

Tổ chức lao động quốc tế - ILO (International Labour Organization) là tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành

lập vào tháng 4 năm 1919 theo quyết định của Hội nghị hồ

<small>bình Pari, họp tại Vécxay (Cộng hồ Pháp).</small>

Tại các phiên họp tồn thể của Hội nghị hồ bình vào

tháng 4 năm 1919, Điều lệ của ILO và Hiến chương lao động đã được thông qua. Trong Điều lệ của ILO đã ghi nhận

mục đích và nhiệm vụ chính của tổ chức này là cải thiện khẩn cấp điều kiện lao động, nâng cao mức sống của người lao động bằng các biện pháp quốc tế. Tại kỳ họp thứ 26 Hội nghị toàn thé ILO vào tháng tư năm 1994 ở Phi-la-đen-phi-a

(Hoa Kỳ) một bản Tuyên ngôn, gọi là Tuyên ngôn

Phi-la-đen-phi-a đã được thông qua và được coi là Phụ lục bổ sung

cho Điều lệ của ILO. Với Điều lệ năm 1919 và Tuyên ngôn

Phi-la-đen-phi-a năm 1944, ILO là một tổ chức quốc tế có

hoạt động phong phú, đa dạng trên tinh than nhân đạo hoá, cải thiện điều kiện lao động, điều kiện sống bằng sự nỗ lực

của từng quốc gia thành viên và sự cố gắng không ngừng, sự

<small>phối hợp thường xuyên, nhịp nhàng trên phạm vi quốc tế. Da</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

85 năm kể từ ngày ILO ra đời, mục đích hoạt động của tổ

chức này được phi trong điều lệ vẫn còn nguyên giá trị thời sự.

Kể từ ngày thành lập, ILO có mối quan hệ đặc biệt với Hội quốc liên cho đến khi tổ chức này chấm dứt hoạt động vào năm 1946. Bằng một thoả ước với Liên hợp quốc vào

ngày 02/10/1946, ILO đã trở thành một cơ quan chuyên môn

của tổ chức này. Từ 43 nước thành viên đầu tiên, số thành

viên của ILO hiện đã là hơn 160 quốc gia.

Điểm đặc sắc và độc đáo nhất của ILO là tổ chức này được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ chế ba bên: gồm đại diện của chính phủ, đại diện của tổ chức người lao động và đại diện tổ chức của các nhà sản xuất. Theo Điều lệ, các cơ

quan chính của ILO bao gồm: Dai hội đồng (co quan tối cao của ILO), Hội đồng quan trị (cơ quan chấp hành của ILO) va Văn phòng lao động quốc tế (ban thư ký của ILO). Tru sở của Văn phòng đồng thời cũng là trụ sở của ILO, đặt tại

<small>Giơ-ne-vơ (Thuy Sỹ).</small>

Một trong các chức năng cơ bản của ILO là ra các nghị quyết dưới dạng các công ước và khuyến nghị về các vấn đề

lao động. Một công ước thông qua khi được 2/3 số đại biểu có

mặt tại Hội nghị quốc tế về lao động bỏ phiếu tán thành. Chỉ có

những quốc gia thành viên phê chuẩn công ước mới chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý. Cụ thể là, khi cơng ước có hiệu lực thì nước phê chuẩn phải áp dụng trong pháp luật và thực

tiễn nước mình nội dung của cơng ước. Nếu những quy định nào của pháp luật quốc gia không phù hợp với cơng ước thì

phải sửa đổi, bổ sung, trừ những quy định có lợi hơn cho người lao động. Khi một vấn đề thấy chưa thể chấp thuận ngay dưới

<small>hình thức một cơng ước thì được thơng qua dưới hình thức</small>

<small>40</small>

</div>

×