Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật với việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 96 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***



ĐINH THỊ CẨM NHUNG



PHÁP LUẬT VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THẾ KIỆT






HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***




ĐINH THỊ CẨM NHUNG



PHÁP LUẬT VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC













HÀ NỘI - 2008




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS.
Nguyễn Thế Kiệt.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2008.
Tác giả luận văn



Đinh Thị Cẩm Nhung




MỤC LỤC

Mở đầu 1
Chương 1. Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức mới cho
sinh viên Việt Nam hiện nay 5
1.1. Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong đời sống xã hội .5
1.1.1. Vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội .5
1.1.2. Vai trò của đạo đức đối với đời sống xã hội .8
1.1.3. Sự tương đồng và khác biệt về bản chất giữa đạo đức và pháp luật .20
1.2. Tầm quan trọng của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức mới cho
sinh viên hiện nay 30
1.2.1. Sự nghiệp đổi mới và yêu cầu giáo dục đạo đức mới cho sinh viên hiện
nay 30
1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức mới .33
1.2.3. Tác động của pháp luật với việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên
hiện nay .37
Chương 2. Pháp luật với việc xây dựng đạo đức cho sinh viên trong các
trường Đại học ở Hà Nội hiện nay - Thực trạng và một số vấn đề
đặt ra .40
2.1. Pháp luật XHCN và vai trò của nó trong các trường Đại học ở Hà Nội
hiện nay .40
2.2.1. Pháp luật XHCN và đặc điểm cuả pháp luật xã hội chủ nghĩa .40
2.1.2. Vai trò của pháp luật với việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên hiện
nay .43


2.2. Những biểu hiện tích cực và nguyên nhân trong việc thực thi pháp luật
ảnh hưởng đến đạo đức sinh viên trong các trường đại học ở Hà Nội
hiện nay .47
2.2.1. Trình độ văn hóa pháp lý của sinh viên .47
2.2.2. Những biểu hiện tích cực và nguyên nhân trong việc thực thi pháp luật
ảnh hưởng đến đạo đức của sinh viên trong các trường Đại học ở Hà

Nội hiện nay 50
2.3. Những hạn chế và một số vấn đề đặt ra trong việc thực thi pháp luật ảnh
hưởng đến đạo đức của sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội hiện nay .58
Chương 3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của pháp
luật trong việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong các
trường Đại học ở Hà Nội hiện nay .67
3.1. Xây dựng ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN phù hợp với
kinh tế thị trường định hướng XHCN - Cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên .67
3.2. Kết hợp giáo dục pháp luật với việc phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống các dân tộc .69
3.3. Đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật, ý thức đạo đức trong nhà
trường .73
3.4. Nâng cao tinh thần tự giác rèn luyện ý thức pháp luật, ý thức đạo đức cho
sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội hiện nay .76
Kết luận 79
Danh mục tài liệu tham khảo 81


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một trong những phương thức
cơ bản điều chỉnh hành vi của con người theo một chuẩn mực nhất định của
xã hội. Đạo đức là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội, là một
tiêu chuẩn để đánh giá, xem xét phẩm chất, nhân cách cá nhân, vì vậy đạo đức
là một nội dung quan trọng cần được giáo dục, rèn luyện thường xuyên để
phát triển nhân cách con người.
Pháp luật cũng là một phạm trù có mối quan hệ chặt chẽ với đạo đức.

Pháp luật có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua các văn bản
quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung, tạo điều kiện hướng dẫn con
người làm việc thiện, chống cái ác, bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con
người bằng những quy định chuẩn mực phù hợp với yêu cầu của từng hình
thái kinh tế - xã hội nhất định.
Đất nước ta đang thực hiện những bước đi trong công cuộc đổi mới,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường có những nguyên tắc vận hành và phát triển riêng, ảnh hưởng sâu sắc
tới mọi mặt của đời sống xã hội, tới hệ thống những giá trị, các quy chuẩn đạo
đức, tới nếp nghĩ, tâm lý từng người; Những tác động này có cả mặt tích cực
lẫn mặt tiêu cực… Trong tình hình đó, một số vấn đề đặt ra là cần phải xác
định nên kế thừa, duy trì những yếu tố nào trong đạo đức truyền thống, trong
hệ thống giá trị và quy tắc xử sự nhằm xây dựng một nền đạo đức Việt Nam
nói chung hiện đại giàu tính dân tộc. Đó là vấn đề các nhà khoa học, những
người làm công tác giáo dục đang hết sức quan tâm.
Trên bình diện quốc gia mục tiêu chung nhất của nền giáo dục là: dạy
chữ dạy người. Tầng lớp sinh viên là chủ nhân tương lai của đất nước, là
những người đại diện cho nền giáo dục, bộ mặt văn hóa xã hội nước ta. Do

2

đó, việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống cho sinh viên trở thành vấn đề
đặc biệt quan trọng. Trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên - chủ
nhân tương lai của đất nước là rất cần thiết - pháp luật giữ một vai trò không
nhỏ.
Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật với việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội hiện nay”
làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức nói chung và vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh

viên nói riêng đã được nhiều cá nhân và tập thể tác giả quan tâm nghiên cứu ở
khía cạnh khác nhau, với những tiếp cận khác nhau như: GS Vũ Khiêu: “Mấy
vấn đề đạo đức cách mạng”, NXB. TP Hồ Chí Minh, năm 1978; Trần Thành:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” NXB. Chính trị quốc gia, 1996; Nguyễn
Tĩnh Gia: “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức của
người cán bộ quản lý”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 năm 1997; Nguyễn
Văn Lý: “Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” Luận án tiến sỹ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2005; Nguyễn
Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phức (đồng chủ biên): “Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, NXB. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003.
Bên cạnh những cuốn sách, bài viết còn có các luận văn, luận án tiến sĩ
đề cập đến vấn đề này như: “Giáo dục đạo đức với việc hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ
của Trần Sỹ Phán. “Vấn đề đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Hương. “Vấn đề giáo dục
đạo đức mới cho thanh niên, sinh viên hiện nay trong các trường Đại học ở
Hà Nội”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Thu Hường…

3

Tuy vậy, vấn đề đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay ở Việt Nam vẫn là vấn đề mới đang biến động phức tạp. Việc đi sâu
nghiên cứu và giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường Đại học ở Hà
Nội hiện nay thông qua vai trò của pháp luật là một trong những phương
hướng cần tiếp tục nhằm mang lại hiệu quả tốt hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng ảnh hưởng của pháp luật trong việc

giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội, từ đó luận
văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của pháp luật
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội
hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Làm rõ vai trò của pháp luật và đạo đức đối với đời sống xã hội, mối
quan hệ biện chứng giữa pháp luật với đạo đức, tầm quan trọng của pháp luật
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên.
Phân tích thực trạng ảnh hưởng của pháp luật trong việc xây dựng đạo
đức mới cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của pháp luật
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đạo đức và ý thức pháp luật của sinh viên ở Hà
Nội hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng đạo đức
mới cho sinh viên các trường Đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về pháp luật, đạo đức, về
thanh niên, sinh viên, đồng thời kế thừa các thành tựu của các công trình
nghiên cứu khoa học khác có liên quan.
Để thực hiện được nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử dụng phương pháp:
Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích
và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê.
6. Đóng góp mới của luận văn

Thông qua việc giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận văn góp phần làm rõ
thực trạng ảnh hưởng của pháp luật trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh
viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Luận văn bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai
trò của pháp luật trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở Hà Nội
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn còn bao gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức mới
cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Pháp luật với việc xây dựng đạo đức cho sinh viên trong các
trường Đại học ở Hà Nội hiện nay - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra.
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của pháp
luật trong việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong các trường Đại học ở
Hà Nội hiện nay.




5





6

Chương 1
VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG

ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong đời sống xã hội
1.1.1. Vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội
Pháp luật là những quy ước do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội mà mọi công dân buộc phải tuân theo. Là phương tiện
quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội. Pháp luật xuất hiện và tồn tại cùng
với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước và giai cấp, nó là phương tiện để thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị. Nhà nước và pháp luật đều là sản phẩm của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là những phạm trù lịch sử do phương thức
sản xuất xã hội quyết định. Nhà nước và pháp luật là một bộ phận quan trọng
thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nó tác động mạnh mẽ đến
cơ sở kinh tế, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế.
Với cách diễn giải như trên, chúng ta có thể định nghĩa: Pháp luật là hệ
thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước.
Bất kỳ Nhà nước nào cũng có pháp luật riêng của mình. Chính vì vậy,
pháp luật cũng mang bản chất của giai cấp cầm quyền trong xã hội.
Pháp luật phong kiến tiến bộ hơn pháp luật của Nhà nước chiếm hữu nô
lệ. Song, pháp luật phong kiến lại công khai khẳng định đặc quyền đặc lợi của
địa chủ phong kiến, quy định những chế tài hà khắc, dã man để đàn áp những
người lao động. Pháp luật tư sản tạo ra một hành lang pháp lý hợp lý tạo điều
kiện cho nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ, nhưng lại luôn thể hiện ý
chí của giai cấp tư sản là tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

7

Còn pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, là công cụ để xây dựng xã hội mới trong đó mọi người đều

được sống tự do, bình đẳng và công bằng, văn minh, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm. “Đây là kiểu pháp luật cuối cùng trong lịch sử và hình thành
dần cùng với sự ra đời và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là pháp
luật kiểu mới, nội dung của nó hoàn toàn phủ nhận chế độ bóc lột, hạn chế và
dần dần đi đến xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập và ngày càng phát triển quan hệ
bình đẳng, tự do, dân chủ, bác ái thật sự, những quan hệ hoàn toàn mới giữa
con người với con người” [60, tr.66].
Pháp luật là do Nhà nước ban hành. Vì vậy, ở chừng mực nào đó, pháp
luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã
hội. Như vậy, pháp luật vừa thể hiện bản chất giai cấp, vừa thể hiện tính xã
hội. Nên pháp luật có các tính chất sau:
- Tính quy ước: Quy ước là tế bào của pháp luật chứa đựng những
nguyên tắc khuôn mẫu, xử sự chung. Các quy ước pháp luật được áp dụng
nhiều lần trong những không gian và thời gian khác nhau. Thời gian áp dụng
những quy ước này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hủy
bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc những quy ước này đã hết thời hạn có hiệu lực.
- Tính phổ biến và tính cưỡng chế: Pháp luật thực chất là ý chí của Nhà
nước, nó “được nâng lên thành luật” và pháp luật của Nhà nước hướng tới sự
phát triển của xã hội, làm thay đổi các quá trình kinh tế xã hội. Vì lợi ích và
sự tiến bộ chung của nhân dân. Tính cưỡng chế là một tính chất cơ bản của
pháp luật. Tính cưỡng chế làm cho pháp luật khác với đạo đức và các phong
tục tập quán. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: “Pháp luật sẽ không còn là gì nữa nếu
không có bộ máy có khả năng bắt buộc mọi người phải tuân theo những quy
phạm của nó”. Sự cưỡng chế này được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong
khuôn khổ pháp luật, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành.

8

- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Là sự thể hiện nội dung
pháp luật trong những hình thức nhất định. Nội dung của pháp luật phải được

quy định khái quát rõ ràng, sáng sủa, chặt chẽ trong các khoản của mọi điều
luật, trong một văn bản pháp luật và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung.
Nếu không thì sẽ tạo ra kẽ hở cho sự chuyên quyền, lạm dụng, những hành vi
vi phạm pháp luật.
- Tính được đảm bảo bằng Nhà nước: Khác với những quy phạm xã hội
khác, pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, vì vậy được Nhà nước
đảm bảo thực hiện. Tính được đảm bảo bằng Nhà nước có thể hiểu dưới hai
khía cạnh: Một là, khả năng tổ chức thực hiện của Nhà nước bằng phương
pháp thuyết phục và cưỡng chế. Hai là, chính Nhà nước là người đảm bảo cho
tính hợp lý và uy tín của nội dung quy phạm pháp luật. Nhờ đó mà pháp luật
mới được thực thi thuận lợi trong đời sống xã hội.
- Tính hệ thống: Pháp luật là tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước đặt ra, xuất phát từ nhu cầu chính đáng khách quan của đời sống xã hội
thành một hệ thống thống nhất. Hệ thống pháp luật thống nhất tuân theo
những thứ bậc, từ hiến pháp đến luật, đến các văn bản dưới luật, không cho
phép mỗi nơi tự ý ban hành luật riêng hay đề ra những quy định trái với hiến
pháp và pháp luật.
Là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, pháp luật có ba chức năng cơ
bản sau:
- Chức năng điều chỉnh: Đây là chức năng đảm bảo điều chỉnh các quan
hệ xã hội theo những quy phạm pháp luật. Điều chỉnh pháp luật là hướng họat
động của các tổ chức, tập thể và cá nhân theo quy định của Nhà nước, nhằm
thực hiện các quy phạm pháp luật. Đối tượng điều chỉnh cuả pháp luật là các
quan hệ xã hội đã được Nhà nước sắp xếp, tổ chức theo một trật tự nhất định.
Pháp luật quy định cho các bên tham gia quan hệ pháp luật các quyền và

9

nghĩa vụ nhất định. Đồng thời đó cũng là cơ sở của để có thể điều chỉnh lại
các quy phạm pháp luật cho phù hợp với thực tiễn.

- Chức năng bảo vệ: Pháp luật đảm bảo cho các quan hệ xã hội đã được
xác lập trong sự quản lý của Nhà nước không bị xâm hại bất luận từ hướng
nào. Để ngăn chặn và xử lý người vi phạm pháp luật, Nhà nước ban hành
những các quy phạm pháp luật có chế tài, quy định về hành vi vi phạm, các
loại hình phạt, mức độ xử phạt, trật tự xét và quyết định, biện pháp xử phạt và
thi hành các quyết định xử phạt. Pháp luật quy định chức năng thẩm quyền
cho các cơ quan thực hiện ngăn chặn và xử phạt.
- Chức năng giáo dục: Pháp luật được thể hiện thông qua sự tác động
pháp luật vào ý thức của con người, hình thành ở con người những tư tưởng
tình cảm tốt đẹp. Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đề cao chức năng
này.
Ở nước ta vai trò của pháp luật được ghi nhận ở Điều 12, Hiến pháp
năm 1992 là: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Pháp luật và pháp chế là hai khái niệm không đồng nghĩa với nhau,
nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau,
không có pháp luật sẽ không có pháp chế và ngược lại không có pháp chế thì
pháp luật cũng chẳng có nghĩa gì. Pháp chế đòi hỏi chủ thể pháp luật phải triệt
để, tuân theo chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật. Pháp luật chỉ
điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội dựa trên cơ sở có pháp chế vững
chắc. Ngược lại, pháp chế chỉ được củng cố và tăng cường khi có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với cơ sở kinh tế và xã hội.
Thực tiễn họat động xã hội, ý thức xã hội luôn tác động đến quá trình
hình thành văn bản pháp luật và thực hiện pháp luật.
1.1.2. Vai trò của đạo đức đối với đời sống xã hội

10

Để tồn tại và phát triển, con người ngay từ thời nguyên thủy đã có quan
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau trong tổ chức bầy đàn, thị tộc, bộ lạc… Họ sống

có tổ chức và tuân theo những quy ước chung của cộng đồng đó (quy ước
chung chứ chưa phải là pháp luật). Đó chính là các quan hệ đơn giản của xã
hội ban đầu chưa có giai cấp, theo tiến trình phát triển của loài người ngày
càng trở nên phong phú và phức tạp, đòi hỏi mỗi cá nhân sống trong cộng
đồng phải thường xuyên tự giác điều chỉnh hành vi, thái độ cuả mình trong
cách giao tiếp, ứng xử sao cho phù hợp với những chuẩn mực, quy tắc của xã
hội, không vi phạm đến nhu cầu, lợi ích của người khác. Trong trường hợp
đó, cá nhân được tập thể, cộng đồng coi là người có đạo đức. Ngược lại,
những cá nhân biểu hiện thái độ, hành động chỉ vì lợi ích của người khác, của
cộng đồng… bị xã hội chê trách, phê phán, thì cá nhân đó bị coi là người
thiếu đạo đức.
Như vậy, đạo đức là một hiện tượng xã hội - là một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc
sống con người, của xã hội loài người. Trong đời sống của mỗi người, quy
luật xã hội tất yếu đòi hỏi họ phải tự ý thức được ý nghĩa, mục đích, hành vi,
hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và nhu cầu trong tương lai. Những
hành vi, hoạt động đó bao giờ cũng bị chi phối bởi các mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, của dân tộc… nhằm đảm bảo quyền
lợi cho tất cả các thành viên vươn lên một cách tích cực, tự giác, tạo thành
động lực phát triển của xã hội. Đó chính là những quy tắc, chuẩn mực trong
hành vi, hành động đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự giác thực hiện. Dựa vào đó ta
có thể đánh giá được hành vi của người nào đó có đạo đức hay phi đạo đức.
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc thù theo cách hiểu
như sau:

11

“Đạo đức là một hình thái kinh tế xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện

bởi niềm tin các nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [34,
tr.19].
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà
nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi, hành động của mình sao cho
phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và tiến bộ chung của xã hội, trong mối quan hệ
giữ con người với con người, giữa cá nhân với xã hội.
Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác
trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng
xã hội, với tự nhiên và cả với bản thân mình [4, tr.6].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh những quan hệ xã hội hiện thực trên cơ sở kinh tế. Sự phát triển của đạo
đức xã hội từ thấp đến cao như những nấc thang giá trị về sự văn minh của
con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật chất và thông qua đấu
tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng tiến bộ, phong phú và
hoàn thiện hơn.
Đạo đức là toàn bộ những quy tắc chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử giữa con người với con người trong xã hội. Chúng được thể
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Đạo đức không chỉ là quan hệ xã hội mà còn là lòng tự trọng, sự tự ý thức về
danh dự, nhân phẩm của mỗi con người, ý thức đạo đức là cơ sở hình thành
các quy tắc xử sự của con người trong xã hội, ở đó những giá trị chuẩn mực
đạo đức được hình thành và chi phối hành vi ứng xử của con người.
Khi đề cập đến vấn đề đạo đức, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về
nguồn gốc và bản chất của nó. Tiêu biểu là:

12

Chủ nghĩa duy tâm thần học và tôn giáo cho rằng: Nguồn gốc của đạo
đức là từ tôn giáo, hay nói cách khác là tôn giáo sinh ra đạo đức. Vì vậy, bản
chất của đạo đức là bản chất tôn giáo. Từ quan điểm này đi đến khẳng định từ

bỏ tôn giáo là từ bỏ đạo đức, và tin tưởng rằng sự điều chỉnh hành vi, cách
ứng xử của đạo đức con người trong đời sống xã hội là do sự sắp đặt, an bài
của thượng đế. Cái thiện, cái ác là hiện thân của đấng tối cao, là quyền uy của
chúa trời. Cái ác, cái vô lương tâm lại bắt nguồn từ tổ tông. Thậm chí không ít
các nhà đạo đức phương Tây hiện đại cũng mắc phải sai lầm căn bản là tìm
cội nguồn bản chất của đạo đức trong bản năng sinh vật, trong siêu nhiên hoặc
tâm lý cá nhân một cách cực đoan, hoặc trong cái tôi tuyệt đối tự do. Do đó,
muốn giáo dục đạo đức cho con người thì nhất định phải giáo dục nội dung
tôn giáo.
Cũng có một số học giả khác lại cho rằng, con người là một thực thể tự
nhiên tiến hóa từ động vật, nên mang “bản chất động vật”…, nhưng khi
chuyển sang con người thì mang “bản chất cá nhân, bản năng” có ý nghĩa
vĩnh viễn là cơ sở “đạo đức vị kỷ”.
Các quan điểm trên đây hoàn toàn không có cơ sở khoa học, nó mang
màu sắc duy tâm hoặc theo thuyết tiến hóa tầm thường, không xuất phát từ
các điều kiện khách quan, đặc thù của xã hội loài người.
Triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ nguồn gốc và bản chất đích thực của
đạo đức, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao
động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm của
qúa trình sản xuất vật chất, của các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo
đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển,
ngày càng nâng cao, phong phú đa dạng.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh và chịu sự chi phối
của tồn tại xã hội. Vì vậy, tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay
đổi theo cho phù hợp. Sự nảy sinh, phát triển và hoàn thiện của đạo đức cũng

13

có nguồn gốc từ phương thức sản xuất xã hội, và như vậy mỗi phương thức
sản xuất xã hội làm nảy sinh một dạng đạo đức tương ứng.

Tuy nhiên, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, cũng như nhiều hình
thái ý thức xã hội khác, đều có tính độc lập tương đối. Có thể có những yếu tố
đạo đức phát triển sớm hơn hoặc tồn tại lâu bền hơn khi phương thức sản
xuất, những điều kiện vật chất xã hội đã thay đổi. Tính độc lập tương đối của
đạo đức còn thể hiện ở chỗ, đạo đức là một hệ thống các giá trị bao gồm các
giá trị đạo đức mới hình thành để đáp ứng nhu cầu khách quan của đời sống
xã hội hiện thời. Đối với các đạo đức mới hình thành xuất phát từ nhu cầu tiến
bộ xã hội thì có giá trị tích cực… Ngược lại, các hiện tượng đạo đức hình
thành từ nhu cầu xã hội không lành mạnh, phản động thì những hiện tượng
đạo đức ấy mang tính tiêu cực, phản động… Như vậy, đạo đức luôn mang
tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc, với bản chất và đặc trưng đó đạo
đức có vai trò và chức năng quan trọng trong đời sống xã hội.
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, mỗi giai cấp có địa vị, vai trò,
lợi ích khác nhau và đối kháng nhau. Ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu
được lợi ích của mình, hiểu được những cách thức, biện pháp bảo vệ và khẳng
định lợi ích giai cấp. Ở xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị luôn luôn tìm mọi
cách làm cho đạo đức của mình trở thành yếu tố thống trị trong đời sống xã
hội. Do đó, đồng nghĩa với việc đạo đức của giai cấp bị trị luôn luôn phải chịu
sự thống trị của giai cấp khác mà trở nên kém phát triển. Đạo đức còn mang
tính nhân loại, nó được biểu hiện ở những quy tắc đơn giản và hết sức thông
thường nhưng lại cần thiết để đảm bảo trật tự cho cuộc sống thường nhật của
con người. Biểu hiện cao hơn trong tính nhân loại của đạo đức ở những giá trị
đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
Những giá trị đạo đức phổ biến như: Sự công bằng, tính trung thực, tôn trọng,
lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, khiêm tốn… là những giá trị mà ở xã hội
nào, thời đại nào cũng có, cũng rất cần thiết. Song, do bối cảnh lịch sử khác

14

nhau, do lý tưởng đạo đức khác nhau, sẽ đưa đến những cách hiểu khác nhau

về các giá trị đạo đức phổ quát này…
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, có ba kiểu đạo đức của giai cấp bóc
lột là: Đạo đức chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản. Đạo đức xã hội
chủ nghĩa là đạo đức mới, đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản, có tính
nhân văn sâu sắc, mang tính nhân loại phổ biến… Nền đạo đức ấy vừa kế
thừa có chọn lọc, vừa phê phán và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất được
nhân loại sáng tạo ra trong lịch sử. Đó là một nền đạo đức của tương lai, mà
mọi giá trị đạo đức đều được quần chúng nhân dân lao động sáng tạo ra. Nhân
dân lao động vừa là chủ thể, vừa là động lực, vừa là đối tượng của mọi sáng
tạo các giá trị đạo đức.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã
hội thông qua một số chức năng chính sau đây:
- Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo
đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại. Sự phản ánh của
đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác.
Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới của con người.
Nếu xét dưới góc bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, mang tính thứ
hai, được quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét ở góc độ xã hội học thì hệ
thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn - hoạt động của
con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần, vừa
mang tính hành động.
Khi được trang bị đầy đủ những tri thức về đạo đức, con người mới
phân biệt rõ cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác trong cuộc sống
để hướng tư duy và hành động của mình theo thiên hướng tốt đẹp, đúng đắn
trong thực tiễn. Chỉ có nhập cuộc vào đời sống đạo đức thực tiễn đó, mỗi
người mới nâng cao thêm về nhận thức đạo đức một cách sâu sắc và phong
phú.

15


Để sống và hoạt động cho sự tiến bộ bản thân và xã hội xứng đáng với
trách nhiệm và nghĩa vụ, mỗi con người đều cần phải có những phẩm chất,
năng lực đạo đức. Vì vậy, thời đại nào cũng cần có nhu cầu tri thức nhất định
về đạo đức để làm nền tảng cho cuộc sống.
- Chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của đạo đức góp phần rất to
lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Chỉ có thông qua một quá
trình giáo dục những phẩm chất đạo đức của con người, những nhân cách tốt
đẹp của con người mới được dần dần hình thành con người mới, đủ tư chất tốt
đẹp để xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Cùng với quá trình giáo dục thì quá trình tự giáo dục giúp con người
càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, nghĩa vụ, ý thức danh dự và các
phẩm chất đạo đức cần thiết của cá nhân đối với những người khác trong cộng
đồng xã hội. Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi trên cơ sở
những chuẩn mực đạo đức xã hội. Chỉ có thông qua một quá trình giáo dục
những phẩm chất đạo đức của con người, những nhân cách tốt đẹp của con
người mới được dần dần hình thành. Điều đó hun đúc cho họ tình cảm nhân
đạo, tình yêu thương giữa con người với con người, với cộng đồng xã hội, xác
định đúng trách nhiệm cá nhân trước cuộc sống và xã hội. Chính nhờ chức
năng giáo dục mà những tấm gương đạo đức cao cả, đức hy sinh cho đất nước
của những anh hùng, lãnh tụ cách mạng có sức lôi cuốn, thuyết phục thế hệ
trẻ không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, vươn
tới và hành động theo cái “chân - thiện - mỹ” vì con người, vì sự tiến bộ xã
hội.
Đặc biệt, giáo dục đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra khả năng
quan trọng trong việc hình thành con người mới, có đủ tư cách tốt đẹp để xây
dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Ở đây tính tích cực trong mỗi con người
được nhân lên càng làm cho họ hiểu rõ vai trò to lớn của những giá trị đạo

16


đức như: Danh dự, công lý, hạnh phúc và các phẩm chất đạo đức khác. Điều
đó, hun đúc cho họ tình cảm nhân đạo, tình yêu thương giữa con người với
con người và cộng đồng xã hội. Nhờ quá trình giáo dục và tự giáo dục mà con
người định hướng được hành vi, việc làm của mình trong các mối quan hệ
ứng xử và học tập được ở những tấm gương đạo đức cao cả, như xả thân vì
nghĩa, hy sinh quên mình cho đất nước, kiên cường đấu tranh cho chân lý…
góp phần làm cho xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tiến bộ. Chính vì
vậy mà khi xem xét nhân cách, người ta coi đạo đức và năng lực là hai mặt cơ
bản hợp thành trong một cá nhân. Nhiều quan điểm cho rằng, đạo đức là gốc
của nhân cách, vì thế có câu “Tiên học lễ, hậu học văn” hoặc như tục ngữ
phương Tây thường nói: “Người thành đạt trong học thức mà không thành đạt
trong đạo đức coi như không thành đạt”.
Những người cộng sản mà tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là
những người sáng tạo nên những giá trị đạo đức cách mạng cao cả để các thế
hệ chúng ta học tập và noi theo. Đó là đức hy sinh quên mình, tinh thần chiến
đấu dũng cảm vì độc lập của Tổ quốc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của
nhân dân và vì lý tưởng cao đẹp của giai cấp vô sản, của dân tộc.
Như vậy, đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, đạo đức là
vấn đề được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng
tồn tại và phát triển hài hòa. Sống trong xã hội, con người ai cũng phải suy
nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và
phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó
đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng.
Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã hội không thể thiếu vai trò
của đạo đức. Và khi xã hội loài người xuất hiện giai cấp, có áp bức, bất công,
chiến đấu cho cái thiện, đẩy lùi cái ác trở thành ước mơ, khát vọng, thành
động lực chủ yếu thúc đẩy nhân loại vươn tới. Đạo đức trở thành mục tiêu và
động lực của sự phát triển xã hội.


17

- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một phương thức để điều
chỉnh hành vi, sự điều chỉnh đó làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và
phát triển để đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và xã hội.Pháp luật và
đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội, nhưng sự
điều chỉnh hành vi của mỗi hệ thống lại khác nhau ở mức độ và phương thức
điều chỉnh.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị nên nó buộc mọi người phải
tuân theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng sự ngăn cấm
và cưỡng bức.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa các hành vi cá nhân. Phương
thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Nhưng chuẩn mực đạo
đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích.
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi. Trong đó
có chính trị, pháp quyền và đạo đức Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các
giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng biện pháp đặc trưng như ngoại giao,
kinh tế, hành chính, bạo lực… Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức
bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa hành vi con
người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý
thức khác, hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế cuả
đạo đức.
Trên cơ sở ý thức được những quan điểm đúng đắn của đạo đức tiến bộ,
ý thức đầy đủ vai trò của đạo đức, các chủ thể sẽ tự hướng hành vi hoạt động
cuả mình vào những nội dung được xã hội chấp nhận, tránh những hành vi
đạo đức mà dư luận xã hội lên án để hành động vì lợi ích chung của cộng
đồng, trong đó có lợi ích cá nhân…
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai
hình thức chủ yếu: xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi, khuyến khích
cái thiện, phê phán lên án mạnh mẽ cái ác.


18

Con người muốn làm điều thiện, tránh điều ác, muốn cho những hành
vi của mình được mọi người chấp nhận và không bị xã hội lên án thì phải nắm
vững những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ
bản. Từ đó, con người có thể tự do lựa chọn cho mình những hành vi phù hợp,
đồng thời mới có khả năng đánh giá đúng đắn các hiện tượng hành vi trong
quan hệ xã hội theo quan hệ xã hội theo quan niệm đạo đức tiến bộ của xã
hội. Vì vậy, công tác giáo dục đạo đức góp phần quan trọng vào việc định
hướng hình thành, phát triển nhân cách [4, tr.8].
Để đảm bảo cho xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp, tất yếu phải có một
hệ thống quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp cách này hay cách
khác lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy, chức năng điều chỉnh hành vi của
đạo đức gắn bó mật thiết với chức năng quản lý xã hội. Trong cuộc sống hiện
thực, con người có nhiều mối quan hệ đa dạng, phức tạp đòi hỏi phải được
giải quyết. Giải quyết mọi mối quan hệ không phải chỉ ở trong suy nghĩ mà
phải làm bằng hành động: làm hay không làm, làm bằng cách này hay làm
bằng cách khác… Đặc biệt, đối với các quan hệ xã hội có liên quan đến lợi
ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, chúng luôn mâu thuẫn
nhau, cho nên chủ thể đạo đức sẽ phải đấu tranh vô cùng quyết liệt, nếu không
dựa vào một hệ thống nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội thì cá nhân sẽ
gặp khó khăn trong việc lựa chọn, cân nhắc, điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi của các cá nhân do nhiều yếu tố của
các thiết chế xã hội tác động vào như: luật pháp, phong tục tập quán… nhưng
về phương diện đạo đức, là do dư luận xã hội lên án hay đồng tình, do lương
tâm thoải mái hay không thoải mái. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi chính
là quá trình đấu tranh giữa thiện - ác, tốt - xấu, giữa cái lương tâm và cái vô
lương tâm… Như vậy, chức năng định hướng và điều chỉnh của đạo đức luôn

gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức.

19

Những tri thức đạo đức và những phẩm chất đạo đức tiến bộ không
phải tự nhiên mà có, mà phải thông qua quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn
luyện trong lao động và đấu tranh bền bỉ hàng ngày, như Bác Hồ kính yêu của
chúng ta đã dạy rằng: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
Với các chức năng trên, đạo đức có vai trò to lớn trong đời sống xã hội.
Các lợi ích trong xã hội thường không giống nhau, thậm chí còn mâu thuẫn
với nhau. Xã hội ổn định hay xung đột tùy thuộc vào mối quan hệ giữa các lợi
ích của các lực lượng xã hội. Khi các lợi ích có sự nhất trí tương đối thì xã hội
ổn định, phát triển; khi các lợi ích của các lực lượng xã hội trái ngược nhau,
xâm phạm lẫn nhau, loại trừ nhau thì xã hội mất ổn định, trì trệ. Chính ở đây,
các chuẩn mực đạo đức sẽ giúp cho các chủ thể điều chỉnh hành vi của mình
theo những quy tắc xử sự đảm bảo cho sự cân bằng tương đối, không phá vỡ
xã hội. Tuy nhiên, khi mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội phát triển thành
xung đột đối kháng không thể điều chỉnh, thì chính những giá trị đạo đức tiến
bộ sẽ cổ động, động viên đông đảo lực lượng xã hội đấu tranh phá bỏ chế độ
cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Do vai trò của đạo đức với tính cách là
những giá trị phổ biến và tương đối bền vững so với sự vận động của tồn tại
xã hội, nên giai cấp thống trị luôn phải dựa vào đạo đức để duy trì địa vị địa
vị của mình một cách “hợp lẽ”. Ngược lại, giai cấp bị trị cũng bắt đầu cuộc
đấu tranh cải tạo xã hội của mình xuất phát từ những tình cảm đạo đức. Đạo
đức là “cái tâm” cho mọi cuộc đấu tranh thúc đẩy xã hội tiến bộ.
Khi cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới thành công, giai cấp
vô sản bắt tay vào xây dựng cho mình một chế độ xã hội mới do nhân dân lao
động làm chủ, thực thi quyền lực và lợi ích của nhân dân lao động. Khi đó,
giai cấp vô sản cũng tiến hành xây dựng cho mình một nền đạo đức mới cho

phù hợp với tồn tại xã hội mới.

20

Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức
cộng sản. Như chúng ta đã biết, xã hội loài người vận động và phát triển theo
một quá trình lịch sử tự nhiên từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái
kinh tế xã hội cao hơn. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội nên cũng phát triển theo logic tương ứng với sự thay đổi của tồn tại
xã hội, tức là đạo đức cũng có quá trình vận động phát triển từ thấp đến cao
mà đỉnh cao của sự phát triển đó là đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Sự thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khẳng định địa vị thống trị của
giai cấp công nhân về mọi mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và cả đạo
đức… Cụ thể là, các nguyên tắc đạo đức cộng sản trở thành cơ sở để Đảng
cộng sản và Nhà nước vô sản hoạch định chiến lược, sách lược, chính sách
kinh tế, chính trị,văn hóa, tư tưởng… Như vậy, đạo đức cộng sản xét theo góc
độ nào đó, vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp quyền. Đạo đức mới
được nảy sinh và củng cố trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đồng
thời, nó kế thừa và phát triển những tinh hoa đạo đức truyền thống của dân
tộc.
Đạo đức mới xã hội chủ nghĩa này đòi hỏi lợi ích cá nhân phải gắn với
lợi ích tập thể, lợi ích của quần chúng nhân dân lao động, vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của toàn nhân loại, vì sự tự do hạnh phúc của mỗi
người. Đạo đức cộng sản đã nhân đạo hóa một cách phổ biến mọi quan hệ xã
hội nhờ tính phổ biến của các giá trị nhân đạo, nội dung nhân đạo của đạo đức
cộng sản chính là tư tưởng về con đường và phương thức khẳng định sự tồn
tại, hạnh phúc và phát triển tự do của con người. Nội dung cao cả đó của đạo
đức cộng sản được thực hiện dựa trên những nguyên tắc cơ bản riêng đó là:
Thứ nhất: chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác của các cá nhân vì lý tưởng

cao quý của con người, được biểu hiện bằng tinh thần trách nhiệm, thái độ tôn
trọng lẫn nhau tạo điều kiện cho cá nhân phát triển vì lợi ích xã hội. Đây cũng

×