Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

truyền thông truyền thông đại chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.6 KB, 105 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>CHƯƠNG 1. TRUYỀN THÔNG - TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG…..………..1</b>

<i>1.1. Các khái niệm cơ bản...1</i>

<i>1.1.1. Truyền thông và truyền thông liên cá nhân...1</i>

<i>1.1.2. Truyền thông đại chúng...3</i>

<i>1.1.3. Các phương tiện truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng.. . .3</i>

<i>1.1.4. Đại chúng và công chúng khán thính giả...6</i>

<i>1.1.5. Mối quan hệ giữa truyền thơng đại chúng và dư luận xã hội...12</i>

<i>1.2. Vài nét về lịch sử truyền thông...15</i>

<i>1.2.1. Một số dạng truyền thông cổ truyền...15</i>

<i>1.2.2. Phát minh khoa học kỹ thuật trên lĩnh vực thông tin và sự ra đời của truyềnthông đại chúng trên thế giới...15</i>

<i>1.2.3. Sự xuất hiện của truyền thông đại chúng tại Việt Nam...20</i>

<i>1.3. Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến đời sống xã hội...27</i>

<b>CHƯƠNG 2. BẢN CHẤT, QUY LUẬT CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI...30</b>

<i>2.2.3. Dư luận của xã hội...37</i>

<i>2.3. Quy luật của DLXH theo phân loại của Hadley Cantril...39</i>

<b>CHƯƠNG 3. CÁC HÀNH VI VÀ CHỨC NĂNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI...41</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>3.2.4. Chức năng của DLXH ở cấp độ vĩ mô...45</i>

<i>3.2.5. Chức năng của DLXH ở cấp độ vi mơ...46</i>

<b>CHƯƠNG 4. Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI CỦA DƯ LUẬN XÃHỘI... 50</b>

<i>4.1.Một số quan điểm về DLXH...50</i>

<i>4.2. Cấu trúc của dư luận xã hội...55</i>

<i>4.3.Các giai đoạn hình thành và biến đổi của DLXH...56</i>

<i>5.1. Ảnh hưởng của truyền thông đến DLXH...59</i>

<i>5.1.1. Các kênh và phương tiện truyền thông...59</i>

<i>5.1.2. Các dạng ảnh hưởng...61</i>

<i>5.2. Ảnh hưởng của DLXH đến truyền thông đại chúng...64</i>

<i>5.2.1. DLXH là sự kiện của truyền thông đại chúng...64</i>

<i>5.2.2. DLXH là tác nhân làm thay đổi truyền thông đại chúng...65</i>

<b>CHƯƠNG 6. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRA DƯ LUẬN XÃHỘI... 67</b>

<i>6.1. Giai đoạn chuẩn bị...67</i>

<i>6.2. Giai đoạn thu thập thông tin...68</i>

<i>6.3. Giai đoạn xử lý thông tin...72</i>

<i>6.4. Giai đoạn báo cáo kết quả...73</i>

<b>CHƯƠNG 7. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA DƯ LUẬN XÃ HỘI...75</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>7.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin thu được...75</i>

<i>7.2. Xây dựng công cụ điều tra DLXH...76</i>

<i>7.3. Các phương pháp thu thập thông tin về DLXH...77</i>

<i>7.4. Tiến hành điều tra thử...82</i>

<i>7.5. Các tổ chức nghiên cứu DLXH...84</i>

<b><small> CÂU HỎI ÔN TẬP ……….85</small></b>

<small> TÀI LIỆU THAM KHẢO………...87</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CHƯƠNG 1. TRUYỀN THÔNG - TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG</b>

<b>1.1.Các khái niệm cơ bản.</b>

<i><b>1.1.1. Truyền thông và truyền thông liên cá nhân</b></i>

<b>* Truyền thông (communication) </b>

Là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ một tổ chức nào mang tính xã hội. Là q trình truyền đạt thơng tin: thơng qua lời nói, chữ viết ( ngơn ngữ), cử chỉ điệu bộ, hành vi ( thể hiện thái độ hoặc cảm xúc). Có nhiều loại truyền thơng khác nhau, bao gồm: truyền thông liên cá nhân ( giữa người này và người khác), truyền thông tập thể ( trong 1 cơ quan, tập thể, ….với nhau), truyền thông đại chúng.

Khi đề cập đến truyền thông liên cá nhân ( interpersonal communication) thì người ta thường nhắc tới cơng thức nổi tiếng của Lasswell: “ Ai nói? nói cái gì? cho ai? bằng kênh nào? Và hiệu quả như thế nào?” Nhưng sau này thì người ta nhận ra mơ hình này chỉ mang tính một chiều ( người phát tin – transmitter và người nhận tin – receiver)

<b>Người phát tin Người nhận tin</b>

<b>Kênh truyền tin</b>

Mơ hình mới theo chu kỳ được ra đời bởi nhà ngơn ngữ học Roman Jacobson, mơ hình theo dạng vịng trịn khép kín: phát tin ( emission), truyền tin ( transmission), nhận tin ( reception) và phản hồi ( feedback). Mơ hình này cho rằng: một thơng điệp, sau khi được phát ra, luôn gây ra một phản ứng nào đó về phía người nhận, và người nhận tin sẽ cho một thông điệp phản hồi gởi về lại cho người phát tin , lúc đó người nhận tin cũng trở lại thành một người phát tin.

Giai đoạn phát tin ( emission): thơng tin sẽ được mã hóa để truyền đạt đến người nhận ( thông qua ngôn ngữ, cử chỉ,…).Tuy nhiên trong quá trình phát tin sẽ xảy

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

ra hiện tượng “ bị nhiễu” ( do người phát tin chưa làm chủ được ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ không truyền tải hết được nội dung của thông tin cần truyền đạt)

Giai đoạn truyền tin(transmission): thông tin được truyền đi một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các kênh truyền thông hoặc thông qua người thứ 3

Giai đoạn nhận tin ( reception): sau khi thu nhận thơng tin thì người nhận tin bắt đầu giải mã thơng tin và giải thích nội dung thông điệp của thông tin ( bị chi phối bởi khung quy chiếu gồm trục nhận thức và trục cảm xúc: kiến thức và kinh nghiệm sống của mỗi người).

Giai đoạn phản hồi ( feedback): sau khi người nhận thơng tin nhận thơng tin thì phản hồi lại người phát tin về thơng tin mình đã nhận.

Mơ hình truyền thông theo chu kỳ của Jakobson đã nêu lên được tính chất cơ bản của bất kỳ q trình truyền thông nào, điều này ngụ ý rằng người làm báo phải ln đặt vào vị trí của người đọc ( “viết cho ai?”). Tuy nhiên có một sự liên hệ giữa truyền thông liên cá nhân và truyền thông đại chúng, những người hướng dẫn truyền thơng có vai trị quan trọng trong việc truyền đạt thơng tin, do đó mà Judith Laza đã đưa ra mơ hình truyền thơng 2 giai đoạn:

Theo đó thì mơ hình truyền thơng khơng theo quy luật “từ trên xuống dưới” mà theo quy luật “chiều ngang”: người ta thường tranh luận, trò chuyện về một thơng tin nào đó với người cùng giới, cùng tần lớp, cùng mơi trường xã hội…mà ít khi hỏi trực tiếp những người có vị thế xã hội cao hơn. Do đó, truyền thơng đại chúng có hiệu quả khi có sự can thiệp của truyền thơng liên cá nhân.

<b> * Truyền thông liên cá nhân</b>

Trong xã hội lồi người, truyền thơng lại càng là một điều kiện tiên quyết để có thể hình thành nên một “xã hội” hoặc “ cộng đồng”. Sở dĩ người ta có thể sống với nhau, giao tiếp và tương tác được với nhau trước hết là nhờ hành vi truyền thông. Người ta gọi đây là truyền thông liên cá nhân, nghĩa là truyền đạt thông tin giữa người này với người khác. Sự truyền thông này trước hết được thể hiện thơng qua lời nói hoặc chữ viết, tức là thông qua ngôn ngữ, nhưng cũng có thể thơng qua cử chỉ, điệu bộ, hay hành vi để biểu thái độ hoặc cảm xúc. Vì thế, có thể có hai cách thức truyền thống: truyền thơng bằng lời nói, và truyền thơng khơng bằng lời nói.

Người ta thường phân biệt ba loại truyền thơng như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Truyền thông liên cá nhân ( giữa người này với người khác),

- Truyền thông tập thể ( tức là truyền thông trong nội bộ một cơ quan, một cơng ty, một tổ chức đồn thể, hay một nhóm xã hội nào đó).

<b>- Và truyền thông đại chúng</b>

<i><b>1.1.2. Truyền thông đại chúng</b></i>

Truyền thông đại chúng ( mass communication) là q trình truyền đạt thơng tin một cách rộng rãi hướng đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền hình, phát thanh,Internet.a

Truyền thơng đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm 3 yếu tố cấu thành: hoạt động truyền thông ( tìm tin, chụp hình, biên tập,….), những người làm cơng tác truyền thơng ( biên tập viên, phóng viên,….), và công chúng ( các tần lớp khác nhau trong xã hội).

Phương tiện truyền thông ( mass media) là yếu tố rất quan trọng trong truyền thơng đại chúng, đó là những công cụ hay những kênh ( công cụ kỹ thuật) mà ta có thể thực hiện q trình truyền thơng. Do đó, q trình truyền thơng là q trình xã hội – q trình truyền tải thơng tin ra công chúng thông qua các phương tiện ấy.

<i><b>1.1.3. Các phương tiện truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng.</b></i>

<b>Phương tiện truyền thông (media) là việc vận dụng các khả năng của cơ thể,</b>

sử dụng những phương tiện có sẵn trong thiên nhiên, những công cụ nhân tạo để diễn tả và chuyển tải những thông tin, thông điệp từ bản thân đến người khác hay từ nơi này sang nơi khác.

Phương tiện truyền thông cũng được hiểu như các kênh truyền thơng qua đó tin tức, giải trí, giáo dục, dữ liệu hoặc tin nhắn quảng cáo được phổ biến. Phương tiện truyền thông bao gồm tất cả phát thanh truyền hình và phương tiện truyền thơng hẹp vừa như báo, tạp chí, truyền hình, đài phát thanh, bảng quảng cáo, gửi thư trực tiếp, điện thoại, fax, và internet.

Tài liệu lưu trữ dữ liệu được chia thành ba loại lớn theo phương pháp ghi:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

 Magnetic, như đĩa mềm, đĩa, băng,

 Quang học, chẳng hạn như vi phim

 Magneto-Optical, như đĩa CD và DVD.

Khởi đầu sự giao tiếp của con người thông qua các kênh truyền thông được thiết kế, ví dụ khơng phải là các hoạt động hát hoặc thơng qua cử chỉ, lịch sử của nó bắt đầu với những bức tranh điêu khắc, bản đồ được vẽ và viết.

Đế quốc Ba Tư (trung vào Iran ngày nay) đã đóng một vai trị quan trọng trong lĩnh vực truyền thơng. Nó được biết đến với thư hoặc hệ thống bưu chính thực sự đầu tiên, được cho là đã được phát triển bởi các hoàng đế Ba Tư Cyrus Đại đế (c. 550 BC) sau cuộc chinh phục của ơng về phương tiện truyền thơng. Vai trị của hệ thống như một bộ máy thu thập tình báo cũng là tài liệu, và dịch vụ đã được (sau này) được gọi là angariae, một thuật ngữ trong thời gian đó để chỉ một hệ thống thuế. Cựu Ước (Esther, VIII) có đề cập đến hệ thống này:. Ahasuerus, vua Mê-đi, sử dụng người đưa thư để truyền các quyết định của mình

Các thơng tin liên lạc (communication) từ có nguồn gốc từ communicare gốc Latin. Nó cũng được đế quốc La Mã mô tả như là thư hay hệ thống bưu điện, để tập trung kiểm soát của đế chế từ Rome. Điều này cho phép thư từ cá nhân và cho người dân Rome thu thập kiến thức về các sự kiện ở nhiều tỉnh phổ biến rộng rãi. Hệ thống bưu chính nâng cao hơn sau đó xuất hiện trong các Caliphate Hồi giáo và đế quốc Mông Cổ trong thời Trung Cổ.

Công nghệ truyền thông đã khiến giao tiếp ngày càng dễ dàng hơn so với lịch sử. Hôm nay, trẻ em được khuyến khích sử dụng cơng cụ truyền thơng trong trường học và dự kiến sẽ có một sự hiểu biết chung về các cơng nghệ có sẵn khác nhau. Internet được cho là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong phương tiện truyền thông để liên lạc. Các công cụ như e-mail, Skype, Facebook vv, đã đưa con người đến gần với nhau và tạo ra các cộng đồng trực tuyến mới. Tuy nhiên, một số có thể lập luận rằng một số loại phương tiện truyền thông có thể gây cản trở giao tiếp mặt đối mặt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Trong một xã hội tiêu dùng theo định hướng lớn, phương tiện truyền thơng điện tử(ví dụ như TV) và phương tiện in (chẳng hạn như báo chí) là quan trọng để phân phối phương tiện truyền thơng quảng cáo. Cơng nghệ càng tiên tiến hơn thì xã hội được tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện truyền thông càng mới hơn.

Bên cạnh vai trị "quảng cáo", phương tiện truyền thơng ngày nay là một công cụ để chia sẻ kiến thức trên tồn thế giới. Phân tích sự tiến hóa của mơi trường trong xã hội, Popkin tìm ra vai trị quan trọng của các phương tiện truyền thơng, bằng cách xây dựng kết nối giữa chính trị, văn hóa và đời sống kinh tế và xã hội: ví dụ tờ báo định kỳ đã có cơ hội đầu tiên là quảng cáo và thứ hai là cập nhật các hoạt động đối ngoại hiện nay hoặc tình hình kinh tế đất nước. Trong lúc đó, Willinsky đã phát huy vai trị của cơng nghệ hiện đại như là một cách để truyền tải văn hóa, giới tính, vượt qua các rào cản quốc gia. Ông đã thấy internet là một cơ hội để thiết lập một hệ thống công bằng và bình đẳng các kiến thức: internet có thể được truy cập vào bởi bất cứ ai, bất kỳ thơng tin được cơng bố có thể được đọc và tham khảo ý kiến của bất cứ ai. Do đó, internet là một giải pháp bền vững để vượt qua những "khoảng cách" giữa các nước phát triển và đang phát triển tức là cả hai sẽ có được một cơ hội để học hỏi lẫn nhau. Canagarajah đang giải quyết vấn đề liên quan đến quan hệ bất bình đẳng giữa các nước Bắc và Nam, khẳng định rằng các nước phương Tây có xu hướng áp đặt ý tưởng của mình vào việc phát triển đất nước. Vì thế, internet là cách để thiết lập lại sự cân bằng, bởi ví dụ tăng cường cơng bố báo, tạp chí học thuật từ các nước đang phát triển. Christen là một trong những người đã tạo ra một hệ thống cung cấp truy cập đến tri thức và bảo vệ quán và văn hóa của người dân. Thật vậy, trong một số xã hội truyền thống, một số giới tính có thể khơng có quyền truy cập vào một loại nhất định của tri thức do đó tơn trọng những phong tục giới hạn phạm vi phổ biến nhưng vẫn cho phép việc truyền bá kiến thức. Trong q trình phổ biến này, phương tiện truyền thơng sẽ đóng một vai trị "trung gian", đó là nói dịch một nghiên cứu học thuật sang một định dạng báo chí, có thể truy cập bởi đối tượng cư sĩ (Levin). Do đó, phương tiện truyền thơng là một hình thức truyền thông hiện đại nhằm phổ biến kiến thức trong tồn bộ thế giới, khơng phân biệt bất kỳ hình thức phân biệt đối xử.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Phương tiện truyền thông, thông qua các phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc tâm lý, đã giúp kết nối mọi người khơng bị giới hạn bởi vị trí địa lý. Nó cũng giúp trong các khía cạnh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tư và các hoạt động khác mà có một phiên bản trực tuyến. Tất cả các phương tiện truyền thông nhằm ảnh hưởng đến hành vi của con người được bắt đầu thông qua truyền thông và các hành vi dự định được diễn đạt bằng tâm lý. Do đó, sự hiểu biết và truyền thơng tâm lý là nền tảng trong việc tìm hiểu những tác động xã hội và cá nhân của phương tiện truyền thông. Các lĩnh vực mở rộng của phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc tâm lý kết hợp các bộ môn được thành lập theo một cách mới.

Thời gian thay đổi dựa trên sự sáng tạo và hiệu quả có thể khơng có một mối tương quan trực tiếp với công nghệ. Các cuộc cách mạng thông tin được dựa trên những tiến bộ hiện đại. Trong thế kỷ 19, những thơng tin "bùng nổ" nhanh chóng vì các hệ thống bưu chính, tăng khả năng tiếp cận báo chí, cũng như các trường được "hiện đại hóa". Những tiến bộ đã được thực hiện do sự gia tăng của người dân được xoá mù chữ và giáo dục. Các phương pháp giao tiếp mặc dù đã thay đổi và phân tán trong nhiều hướng dựa trên mã nguồn của tác động văn hóa xã hội của nó. Những thành kiến trong các phương tiện truyền thơng có ảnh hưởng đến tơn giáo thiểu số, dân tộc có hình thức phân biệt chủng tộc trong các phương tiện truyền thông và chứng cuồng sợ Hồi giáo (Islamophobia) trong giới truyền thông.

<b>Truyền thông đại chúng được hiểu chung là một q trình có định hướng</b>

nhằm truyền đạt thơng tin đại chúng tới những đối tượng mục tiêu đại chúng bằng các phương tiện truyền thông đại chúng để phục vụ mục đích đã được đề ra.

<b>Các phương tiện truyền thơng đại chúng hay các phương tiện thông tin đại</b>

chúng là các phương tiện được sử dụng để truyền đạt thông tin một cách đại chúng, rộng rãi, tức là có khả năng đưa thông tin tới đối tượng đại chúng mục tiêu.

Ví dụ: báo in, tạp chí, phát thanh, truyền hình, sách, internet...

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Cần phân biệt giữa nội dung truyền thông và phương tiện truyền thông. Theo đó phương tiện truyền thơng đại chúng là một yếu tố trung gian có khả năng chứa đựng nội dung truyền thông đại chúng, chúng khác biệt với bản thân nội dung truyền thơng đại chúng.

Ví dụ: phim hay video là nội dung truyền thơng đại chúng, chúng chỉ có thể được hiểu là phương tiện truyền thông đại chúng nếu như chúng được gắn thêm ý nghĩa phương tiện: Phim truyền hình, video phát tán qua internet là các phương tiện truyền thơng đại chúng.

<b>5 loại hình của truyền thơng đại chúng là: báo in, phát thanh, truyền hình, báo điệntử, quan hệ công chúng</b>

<i><b>1.1.4. Đại chúng và công chúng khán thính giả</b></i>

Trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thơng đại chúng (trong đó có báo chí), giới nghiên cứu trên thế giới đi theo ba hướng chính: nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận (ứng xử của người đọc, người xem, người nghe đối với các phương tiện truyền thông đại chúng); nghiên cứu nội dung thông điệp của truyền thông và nghiên cứu ảnh hưởng (hay tác động) của truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội.

Càng ngày, người ta càng quan tâm đầu tư cho nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận, coi đó là một hình thức, phương pháp để kiểm tra, đánh giá hiệu quả của việc đầu tư cho hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng, dù từ nguồn nào, nhà nước hay tư nhân.

Ngày nay, giới kinh doanh và giới báo chí (kể cả báo chí khơng kinh doanh) đều ngày càng coi trọng chiến lược phát triển thị trường, phát triển khách hàng - đối tượng sử dụng sản phẩm. Đối với báo chí, khi đề cập đối tượng tác động - đối tượng sử dụng sản phẩm, giới nghiên cứu thường dùng thuật ngữ công chúng - người tiếp nhận (bạn đọc báo, người xem truyền hình, người nghe đài, người truy cập báo điện tử). Bài viết này xem xét vấn đề từ những cách tiếp cận của giới nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>.Nghiên cứu vai trò người tiếp nhận:</b>

Nhiều tác giả, nhiều cơng trình nghiên cứu mới về tác động của truyền thông đại chúng, liên quan trực tiếp đến nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận: Denis

<i>McQuail (1983, 1994, 2005), Alvin Toffler (1996), Philip Breton và Serge Proulx(1996), Loic Hervouet (1999), Pertti Alasuutari (1999), Andy Ruddock (2000), E.P.</i>

Prôkhôrôp (2001), Schudson M.(2003), Claudia Mast (2003), Susana Hornig Priest (2003),... Về cách tiếp cận vấn đề, dù khác nhau ở mức độ và góc độ tiếp cận (góc độ kĩ thuật, gócđộ biểu trưng của nền văn hố, góc độ tác động tư tưởng - chính trị của các media) nhưng giới nghiên cứu đều coi nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận là một bộ phận, một khâu không thể thiếu trong khi nghiên cứu truyền thông đại chúng như một quá trình và đều đề cao vai trị tích cực, chủ động, tác động trở lại của người tiếp nhận.

Nghiên cứu công chúng thực sự đã trở thành một chuyên ngành (audience research), của nghiên cứu truyền thông. ở Việt Nam, lĩnh vực này còn khá mới mẻ, nhưng cũng đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu báo chí, truyền thơng, bởi tính thiết thực của vấn đề. Trước hết là từ bình diện xã hội học. Nghiên cứu lý thuyết về xã

<i>hội học cơng chúng có Mai Quỳnh Nam (1996, 2001), Trần Hữu Quang (2006),... Hướngnghiên cứu khảo cứu thực nghiệm, xuất hiện nhiều hơn: Đỗ Thái Đồng (1982), Mai VănHai (1992), Vũ Tuấn Huy (1994), Trần Hữu Quang (1998), Trương Xuân Trường(2001), Đài Truyền hình Việt Nam (2002), Đài Tiếng nói Việt Nam (2001, 2005),... Từ</i>

bình diện tâm lý học có một số cơng trình của Viện Tâm lý học (2002), Lê Ngọc Hùng

<i>(2000), và một số tác giả khác.</i>

<i>Từ bình diện báo chí học, đáng chú ý có: Tạ Ngọc Tấn (2001), Nguyễn VănDững (2002, 2006), Đài Tiếng nói Việt Nam (2003), và một số tác giảkhác,...Trong Truyền thông đại chúng (2001), khi bàn về cơ chế tác động, về hiệu quả</i>

xã hội của truyền thông đại chúng, Tạ Ngọc Tấn đã phân tích sự phụ thuộc của hiệu quả xã hội đối với sự tiếp nhận của cơng chúng. Việc nghiên cứu, nắm rõ tính chất, đặc điểm, nhu cầu của đối tượng tác động bao giờ cũng là một trong những yếu tố

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

hàng đầu bảo đảm hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng. Một số nghiên cứu khác chọn các nhóm cơng chúng đặc trưng theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp hoặc giới tính,... hoặc nghiên cứu nhóm cơng chúng của một loại hình báo chí: nghiên cứu thính giả của đài, nghiên cứu bạn đọc của một tờ báo, v.v...

Khi nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận, giới nghiên cứu đều coi công chúng không chỉ là đối tượng tác động, mà còn là lực lượng xã hội quyết định vai trò, vị thế xã hội của sản phẩm báo chí – truyền thơng. Sức mạnh của tờ báo, trước hết thể hiện ở “sức mạnh của công chúng, của dư luận xã hội mà nó tạo ra”.

<b>Nghiên cứu tâm lý tiếp nhận:</b>

Nghiên cứu tâm lý tiếp nhận đã có từ lâu trong các lý thuyết văn học. Trong nghiên cứu báo chí, tâm lý học báo chí là chuyên ngành khoa học mới, một lĩnh vực của khoa học tâm lý nghiên cứu đặc điểm của tâm lý con người và các nhóm người khi họ tham gia vào hoạt động truyền thông với tư cách là những người cung cấp, khởi xướng, chuyển tải và tiếp nhận thông tin, giúp cho việc cải tiến và nâng cao hiệu quả của q trình truyền thơng.

Rơsin X.K (Nga) từng chỉ rõ đối tượng của tâm lý học báo chí, từ nghiên cứu những đặc điểm phẩm chất nhân cách của người truyền tin và ảnh hưởng của chúng tới hiệu quả của quá trình truyền thơng; đến nghiên cứu khán giả, thính giả, độc giả...với những đặc điểm tâm lý, xã hội, chính trị...của họ có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành thái độ đối với thông tin và người truyền tin; nghiên cứu kênh, phương tiện, phương pháp truyền thông; và, nghiên cứu hiệu quả của truyền thông thể hiện ở sự thay đổi ý kiến, lập trường, hành vi của công chúng về những vấn đề mà các phương tiện thơng tin đại chúng đã nói tới (Theo Đỗ Xuân Hà, tr. 389). Tuy nhiên, trong nghiên cứu công chúng, người ta quan tâm khảo sát khâu quan trọng nhất: tâm lý người tiếp nhận, thông qua các dạng, hình thức và cách mà họ tiếp nhận thơng tin báo chí.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Nội dung nghiên cứu cơng chúng – người tiếp nhận được xác định trên ba bình diện. Nghiên cứu nhân học xã hội là tìm hiểu các thơng số về lứa tuổi, giới tính, học vấn, mức sống, địa bàn sống, phong tục tập quán, tôn giáo, v.v...(trong xã hội học gọi là những biến số độc lập). Từ những biến số này làm cơ sở để tìm hiểu những thơng

<i>số khác của đối tượng. Nghiên cứu thực trạng nhận thức của công chúng, bao gồmnhận thức, thái độ, hành vi của công chúng đối với vai trị, sự tác động của các loại</i>

hình báo chí đối với đời sống xã hội, thể hiện qua đánh giá của công chúng đối với

<i>những vấn đề này. Nghiên cứu thói quen và sở thích của cơng chúng có nhiều cấp độ:cơng chúng lựa chọn loại hình báo chí nào? chọn chương trình (hay chun mục)</i>

nào? chọn phương thức tác động nào (thời điểm ra báo, giờ phát sóng, tần số,...)? họ chọn thể loại nào? họ thích nhà báo nào, phong cách nào? v.v... (Báo Phát thanh, NXBVHTT, 2002, tr. 103-105).

Khái niệm tâm lý tiếp nhận bao gồm các nội dung về các dạng tiếp nhận (cảm tính hay lý tính), các phương pháp tiếp nhận và các hình thức tiếp nhận... theo các quy luật tâm lý vốn có của con người (Đỗ Xuân Hà). Dựa vào khái niệm này, giới nghiên cứu thường khảo sát các dạng tiếp nhận, các phương pháp tiếp nhận và các hình thức tiếp nhận của cơng chúng đối với từng loại hình báo chí. Tâm lý tiếp nhận của cơng

<i>chúng có ảnh hưởng, tác động tích cực trở lại đối với hoạt động báo chí.</i>

<b>Nghiên cứu mơ thức tiếp nhận:</b>

Một cách chung nhất, mô thức tiếp nhận được hiểu là những mơ hình,

<i>cách thức, mức độ và mục đích sử dụng của cơng chúng trong tiếp nhận thơng tin báo chí.Chẳng hạn, người dân thường đọc báo ở đâu, vào lúc nào, ở mức độ nào, với ai, thường</i>

thích những nội dung nào, để làm gì, v. v...

Chúng tơi khái qt mơ thức tiếp nhận bằng sơ đồ dưới đây:

Mô thức tiếp nhận là công cụ thao tác chủ yếu được sử dụng khi nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận của các phương tiện truyền thông.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Chẳng hạn, với những nội dung của mô thức nghiên cứu này, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đọc lướt là một cách thức tiếp nhận phổ biến của người đọc báo trên khắp thế giới, chỉ khác nhau ở mức độ, tuỳ theo tờ báo và tuỳ theo đặc điểm của người đọc. Theo Loic Hervouet (Tổng giám đốc Trường đại học báo chí Lille), “người xem đọc báo ít, xem lướt nhiều”, “hứng thú đọc ngày nay khơng cịn như trước kia nữa, từ một xã hội khơng có nhiều thứ để đọc, chúng ta đã chuyển sang một xã hội dư thừa ấn phẩm, đến mức có thể bội thực”; “độc giả của tờ báo bình dân Bild ở Đức chỉ đọc 1/8 nội dung tờ báo; độc giả của tờ Le Monde ở Pháp chỉ đọc 20% nội dung”. “Một cuộc thăm dò

<i>thực hiện theo yêu cầu của tờ Ouest France (miền tây nước Pháp), tờ báo có số lượngbản in lớn nhất nước Pháp, cho thấy: trong số 410 chi tiết thơng tin có trên mặt báo,</i>

độc giả chỉ để mắt đến 39 chi tiết, gồm 23 đầu đề và 16 bài báo, họ chỉ đọc 13 bài báo từ đầu đến cuối, thông thường là các bài báo ngắn”. Với người Pháp, theo Loic Hervouet, trong trường hợp khả quan nhất thì số lượng bài báo được đọc cũng chỉ nhỉnh hơn

<i>10% tổng số các bài báo” (Viết cho độc giả, Hội Nhà báo Việt Nam, 1999, tr.12-13).</i>

Chúng tôi cũng đã thực hiện một cuộc điều tra xã hội học tại Hà Nội (tháng 8/2006), và nhận diện được 6 nhóm mơ thức tiếp nhận của cơng chúng Hà Nội. Riêng đối với báo in, kết quả về cách thức tiếp nhận của bạn đọc cho thấy đọc lướt cũng là một thói quen phổ biến của người dân: chỉ 37,3% đọc kĩ đối với báo in và 19,1% đối với

<i>báo mạng, còn lại là đọc lướt. Mức độ tiếp nhận có thể thấy ở mức độ mua báo: Tỉ lệ giađình mua hàng ngày (trong tổng số gia đình được điều tra) toàn thành phố là36,6%. Về cách thức mua và sử dụng báo: 28,4% số hộ gia đình có mua báo thường</i>

đặt mua dài hạn qua bưu điện, và có tới 60,4% mua tại các sạp báo, chỉ có 6,8% mua từ người bán báo dạo. Về mục đích đọc báo, nghe đài, xem truyền hình,...kết quả phần báo in cho thấy: 68,5% số người trả lời đọc báo để theo dõi tin tức thời sự – chính trị, 50,9% để giải trí; 39,9% đểhọc tập, mở mang kiến thức; 5,7% để tìm đối tác, việc làm, v.v...

Nghiên cứu những mô thức tiếp nhận này, theo chúng tơi là điều có ý nghĩa đối với các cơ quan báo chí và người làm báo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>Cách tiếp cận mới về người tiếp nhận:</b>

Từ đầu thập niên 1980, giới nghiên cứu truyền thông thế giới thường sử dụng khái niệm "phi đại chúng hố" thơng tin đại chúng. Đây có thể coi là một cách tiếp cận

<i>mới khi nghiên cứu về công chúng – người tiếp nhận.</i>

<i>Trong "Đợt sóng thứ ba” A. Toffler đã đưa ra dự báo về "sự chia nhỏ truyềnthông", là hiện tượng "thơng tin đại chúng bị phi đại chúng hố". Thành tựu mới của ơng</i>

là phân tích sâu sắc về “giải truyền thơng đại chúng” mà bản chất là q trình chia nhỏ công chúng giữa các phương tiện truyền thông, là “truyền thông mới, chia nhỏ người xem” và chúng ta đang ở vào “thời đại của truyền thơng nhóm nhỏ”. Điều này được hiểu là: nếu trước đây người ta truyền thông đồng loạt những thông tin cùng một chương trình đến với đơng đảo cơng chúng thì nay xuất hiện nhu cầu đa dạng hố thơng tin đến từng nhóm nhỏ và những khả năng đáp ứng nhu cầu đó. "Ngày nay thay

<i>thế tình trạng mọi quần chúng đều nhận cùng những thơng tin như nhau, các nhóm bịchia nhỏ hơn đang nhận và phát đi cho nhau những lượng lớn hệ hình ảnh của họ".</i>

Tình trạng này cũng đúng với nhận định của hai nhà nghiên cứu truyền thông nổi tiếng người Pháp là Philippe Breton và Serge Proulx trong “Bùng nổ truyền thông - Sự ra đời một ý thức hệ mới” - cơng trình được coi là “một cách nhìn mới đối với truyền thơng”- đã phân tích sâu sắc "ảnh hưởng của các media", trong đó có vấn đề "khảo sát khâu tiếp nhận”. Thành tựu mới của các tác giả là phân tích vai trị tích cực (chủ

<i>động) của “người tiếp nhận tích cực”. "Tác động xã hội của các thông điệp không thể bịthu hẹp xuống chỉ còn là một cơ chế dẫn dắt công luận một cách thuần tuý, cũngkhông thể thu hẹp xuống chỉ còn là một hiệu quả tức thời làm thay đổi ý kiến và tháiđộ các cá nhân". "Cơ chế dẫn dắt công luận một cách thuần tuý" mà hai ông đề cập là</i>

cơ chế thông tin được truyền đi một chiều một cách rộng rãi tới mọi đối tượng. Nghĩa là ngày nay truyền thông phải mềm dẻo, linh hoạt, không phải "một chiều" mà "đa chiều", phải tính đến từng nhóm nhỏ cơng chúng - đối tượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Sự ra đời, tồn tại và phát triển mỗi cơ quan báo chí, cũng như từng chuyên mục, đều phải dựa vào việc xác định được cơng chúng và hiệu quả tác động của nó tới công chúng. ở những nước phát triển, nghiên cứu cơng chúng báo chí đã trở thành cơng việc thường xuyên, có tổ chức, có hệ thống và được coi là công việc không thể thiếu khi tiến hành bất cứ một hoạt động truyền thơng nào.

Báo chí cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn luôn quán triệt nguyên tắc tính quần chúng, được thể hiện cả ở nội dung và hình thức, cả ở mục đích và phương thức hoạt động. Trong phương thức hoạtđộng, điều cốt lõi là phải dựa vào quần chúng để làm báo, tạo điều kiện để quần chúng tham gia, giám sát, đánh giá hiệu quả của báo chí, coi tờ báo là công cụ để quần chúng phát huy quyền dân chủ, quyền tự do ngôn luận đúng luật pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, báo chí nước ta cũng chịu sự tác động khắc nghiệt của quy luật thị trường, của việc giành và giữ công chúng – khách hàng.

Trong cuộc chiến không kém phần quyết liệt với báo điện tử ngày nay, báo in rõ ràng cần phải đổi mới không chỉ nội dung mà cả hình thức thơng tin và cách tiếp

<i>cận bạn đọc. Claudia Mast (2003) trong Truyền thông đại chúng - công tác biên tập,coi trọng một dạng hoạt động đặc biệt: “Tiếp thị thông qua hoạt động quan hệ công</i>

chúng, tổ chức các cuộc tiếp xúc với độc giả, thính giả và khán giả, đánh giá các kết quả điều tra”, nhằm “nâng cao thêm tình cảm của cơng chúng đối với các phương tiện truyền thông”. Đặc biệt, “cần phải có kiến thức để giành và giữ lấy công chúng, chứ không phải chỉ biết biên tập”.

Đối với các cơ quan báo chí, cơng chúng – người tiếp nhận cần được coi là một trong những phạm trù thao tác trong hoạt động báo chí, phải nghiên cứu công chúng như việc nghiên cứu thị trường của bộ môn khoa học marketing trong kinh tế.

<i><b>1.1.5. Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội.</b></i>

‘Theo PGS. TS Mai Quỳnh Nam, cách hiểu phổ biến nhất để hiểu về truyền thơng: Đó là hoạt động chuyển tải và chia sẻ thơng tin. Q trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng liên kết với nhau. Đây là một quá trình phức tạp

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

qua nhiều khâu. Các khâu này chuyển đổi tương đối linh hoạt để hướng tới sự thay đổi nhận thức và hành vi của các cá nhân và các nhóm.[1]

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự ra đời của phương tiện truyền thơng hiện đại là sự hình thành hệ thống các kênh thông tin đại chúng như một thiết chế xã hội quan trọng của xã hội hiện đại. Truyền thông đại chúng ngày nay được hiểu như là tồn bộ những kỹ thuật lan truyền thơng tin tới những nhóm xã hội lớn, mà chủ yếu bằng báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc các phương tiện khác như sách, áp phích…

Truyền thơng đại chúng mang nhiều vai trò và chức năng trong đời sống xã hội. Thế nhưng, dưới cái nhìn của xã hội học, cơ chế tác động qua lại giữa truyền

<i>thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong việc hìnhthành và thể hiện dư luận xã hội.</i>

<i>Dư luận xã hội – theo góc độ xã hội học – là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản</i>

ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng, sự kiện xã hội, đại diện cho lợi ích xã hội. Những lợi ích này phải có tính cấp thiết trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại.[2]

Dư luận xã hội được hình thành dưới sự tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống này và bằng con đường giao tiếp, bằng hoạt động thảo luận trao đổi về nội dung các thông tin mà công chúng tiếp thu được để hình thành nên dư luận xã hội. Giao tiếp là một dạng cơ bản của con người, để thực hiện các mối liên hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được hình thành từ đó. Mối liên hệ này càng được củng cố thì dư luận xã hội càng trở nên chín chắn

Dư luận xã hội là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội. Vì vậy, với việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, các phương tiện truyền thơng mới có thể làm tốt chức năng “tổ chức tập thể, cổ động tập thể”, mới góp phần tạo nên động lực tinh thần, tạo nên sức mạnh cho các hành động xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Các phương tiện truyền thông đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội, đồng thời hệ thống này cũng là kênh thể hiện dư luận xã hội. Để thực hiện được vai trị đó, các phương tiện truyền thông đại chúng sử dụng những phương pháp sau đây để thể hiện dư luận xã hội:

- Phản ánh trực tiếp, bằng cách cho in các bức thư của người đọc, người nghe, người xem, hoặc các lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công chúng trên các trang báo hoặc trên sóng phát thanh, truyền hình.

- Cho in trên báo, hoặc phát trên sóng phát thanh và truyền hình các bài phát biểu của các nhà báo cộng tác với đại diện của các tầng lớp nhân dân, hoặc các tổ chức, đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó, có kèm theo lời bình luận của các cộng tác viên, hoặc của các ban biên tập.

- Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề nào đó, các nhà báo viết bài rồi cho in hoặc phát trên sóng phát thanh, truyền hình.

Thực tiễn hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng cho thấy trong các vấn đề được báo chí đưa ra cơng luận dẫn tới sự tranh luận của quần chúng, nghĩa là các thơng tin đó trở thành điểm khởi đầu cho sự đánh giá của dư luận xã hội, đều có các tính chất:

1) nó phản ánh được lợi ích xã hội 2) nó có tính cấp bách

3) nó tạo nên sự tranh luận.

Các yếu tố quan niệm chung về định hướng giá trị, bề dày của kinh nghiệm chính trị, tính tích cực chính trị – xã hội, trình độ học vấn của cơng chúng có ý nghĩa

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

rất quan trọng nhằm tập hợp các cá nhân vào dịng truyền thơng và qua hệ thống này, để họ thể hiện ý kiến của cá nhân và của nhóm xã hội mà bản thân họ là một thành viên. Sự thống nhất giữa ý kiến của nhóm với ý kiến chung của xã hội là nhân tố quan trọng để tạo nên mối liên kết xã hội, nhằm đảm bảo tính bền vững của dư luận xã hội.

Tính khách quan và chân thực của nội dung thơng tin có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành dư luận xã hội. Uy tín của nguồn tin phụ thuộc vào tính chất khách quan và chân thực của thông tin. Đây là nhân tố xác định thái độ của công chúng đối với chủ đề được báo chí gợi ý đề xuất, từ đó tạo nên mối liên hệ xã hội trên cơ sở những lợi ích chung để công chúng tiến hành thảo luận và đánh giá. Mức độ chín muồi trong sự đánh giá của dư luận xã hội về một chủ đề nào đó là cơ sở tạo nên hành động xã hội của các nhóm. [3]

Các giai đoạn hình thành dư luận xã hội với tác động của hệ thống truyền thông đại chúng diễn ra theo những bước sau đây:

Công chúng làm quen với vấn đề được báo chí gợi ý, hoặc đề xuất

Bằng cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu về một chủ đề nào đó nhằm kích thích lợi ích xã hội về chủ đề đó. Việc trình bày các quan điểm khác nhau trong cách nhìn nhận đánh giá để tạo nên cơ sở cho tranh luận.

Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng.

Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng có mối liên hệ ngược. Nghĩa là các phương tiện này không chỉ tạo nên dư luận xã hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng có tác động trở lại đến hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng. “Trong hoạt động truyền thơng có thể xảy ra hiện tượng khơng có phản hồi. Nghĩa là các thông tin phát ra không tạo nên sự quan tâm của cơng chúng. Vì vậy, thang đo về sự phản hồi là một chỉ báo căn bản cho thấy hiệu quả hoạt động

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội.

Mức độ và cường độ dư luận trong đời sống xã hội được tăng cường với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động tổ chức và quản lý các q trình xã hội, trong đó hệ thống truyền thơng đại chúng có ảnh hưởng to lớn. Tác động của truyền thông đại chúng đối với dư luận xã hội rất toàn diện. Khi xem xét mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, cũng như tìm hiểu về vai trị và ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đối với dư luận xã hội, cần xem xét và phân biệt các yếu tố đặc thù của mỗi kênh truyền thông và tác động của nó đến từng nhóm cơng chúng trong xã hội

<b>1.2. Vài nét về lịch sử truyền thông.</b>

<i><b>1.2.1. Một số dạng truyền thơng cổ truyền</b></i>

Dạng thức, loại hình truyền thơng là những khái niệm được dùng để khu biệt các mơ hình, mơ thức, cách thức tổ chức liên kết các yếu tố hoạt động truyền thơng; nhờ đó, kế hoạch, hoạt động truyền thông được lập ra theo những tiêu chí nhất định và những tiêu chí này làm cơ sở cho hoạt động kiểm tra, giám sát và đánh giá kế hoạch hay chiến dịch truyền thông.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, sẽ có các cách phân loại khác nhau cho dạng thức hay loại hình truyền thơng.

- Căn cứ vào kênh chuyển tải thơng điệp có truyền thơng trực tiếp và truyền thông gián tiếp và các dạng thức truyền thông khác nhau;

- Căn cứ vào mức độ phạm vi tác động, ảnh hưởng của truyền thơng, có thể phân chia thành truyền thông nội cá nhân, truyền thông liên cá nhân, truyền thơng nhóm và truyền thơng đại chúng;

- Căn cứ vào mục đích và phương thức tổ chức hoạt động truyền thơng, sẽ có các loại hình truyền thơng: Thông tin - giáo dục - truyền thông; tuyên truyền; truyền thông thay đổi hành vi; truyền thông - vận động xã hội…

<i><b>1.2.2. Phát minh khoa học kỹ thuật trên lĩnh vực thông tin và sự ra đời của truyềnthông đại chúng trên thế giới</b></i>

Cách mạng khoa học - kỹ thuật, còn được gọi là Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, Cách mạng khoa học - kỹ thuật thế kỷ XX<small>[1]</small>, Cách mạng kỹ thuật lần thứ hai., Cách mạng khoa học - kỹ thuật sau Thế chiến thứ hai, Cách mạng thông tin là một khái niệm nói về những phát triển mang tính vượt bậc và bước ngoặt củakhoa học và kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ 20, hoặc sau khi Thế chiến thứ hai (1939-45) kết thúc. Trên thực tế, "Cách mạng khoa học - kỹ thuật" là một khái niệm mới ra đời trong thế kỷ 20 và nội dung của khái niệm này có nhiều điều chưa được thống nhất trong giới học giả nói chung.

<i>Học giả người Anh J. D. Bernal vào năm 1939 đã giới thiệu khái niệm "Cáchmạng khoa học - kỹ thuật" trong tác phẩm "The Social Function of Science" (Chứcnăng xã hội của khoa học) để mơ tả vai trị mới của khoa học - kỹ thuật trong tiến</i>

trình phát triển của xã hội. Bernal đã vận dụng thuyết về lực lượng sản xuất của Các Mác để minh chứng rằng khoa học đang trở thành một "lực lượng sản xuất" trong xã hội<small>[5]</small>. Lý luận của Bernal đã được áp dụng trong giới khoa học ở các nước thuộc khối

<i>xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm Văn minh ở ngã tư đường của học giả người Séc Radovan</i>

Richta (1969) trở thành chuẩn mực cho các nghiên cứu về chủ đề này.<small>[6]</small> Tuy nhiên,

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

trong nội bộ giới trí thức Xơ Viết cũng có nhiều quan điểm khơng hồn tồn giống nhau về khái niệm này.

Daniel Bell vào năm 1980 phản bác lại thuyết này, ông cho rằng xã hội sẽ tiến vào giai đoạn hậu công nghiệp với các ngành dịch vụ sẽ thay thế vai trò chủ đạo của các ngànhsản xuất vật chất trong nền kinh tế và điều đó sẽ dẫn đến một xã hội dịch vụ thay cho xã hội theo khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội.Lập luận của Bell được một số nhà khoa học ủng hộ, tỉ như Zbigniew Brzezinski (1976) với tác phẩm

<i>"Technetronic Society".Một số định nghĩa về tên gọi Cách mạng thông tin cũng nghĩ</i>

rằng cuộc cách mạng bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 với sự ra đời của vi mạch và chip, từ đó dẫn tới các thay đổi mang tính cách mạng trong đời sống với sự phát triển vượt bậc của máy vi tính, máy tính, các công nghệ điện tử viễn thông khác và dẫn tới ngành dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng hơn so với ngành sản xuất công nông nghiệp, và sản phẩm của những nhân công tay nghề cao chủ yếu là kiến thức và thông tin mà họ mang lại cho xã hội.

Giống như các bước tiến về khoa học kỹ thuật trong lịch sử, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế kỷ XX bắt nguồn từ những nhu cầu càng lúc càng tăng cao của con người trong suốt tiến trình lịch sử trong khi sức lực và khả năng (sinh học) của con người có hạn khơng thể đáp ứng tất cả các nhu cầu ngày càng tăng ấy, đồng thời tài nguyên thiên nhiên, vật liệu tự nhiên về số lượng và tính chất cũng có giới hạn, không thể đáp ứng những yêu cầu mới nảy sinh trong cuộc sống. Hơn thế nữa, trong cuộc sống hiện đại, các vấn đề về cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, bùng nổ dân số, chiến tranh càng ngày càng cấp bách đòi hỏi những bước phát triển kịp thời của kỹ thuật, công nghệ để khắc phục những khó khăn và đáp ứng các địi hỏi ngày càng gắt gao nhân loại. Đồng thời, do sống gắn bó chặt chẽ với các hiện tượng tự nhiên (gió, bão, mưa, sấm chớp, lũ lụt, động đất,...) và chịu nhiều ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực từ chúng, con người buộc phải đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học để hiểu rõ về tự nhiên nhằm khắc phục các tác hại và tận dụng các thuận lợi của tự nhiên cho mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Ngồi ra, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX cũng đã có nền tảng vững chắc từ những phát triển mang tính bước ngoặt về khoa học từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tỉ như lý thuyết nguyên tử hiện đại, cấu trúc về nguyên tử, thuyết tương đối và các thành tựu nổi bật khác trong vật lý, sinh học, hóa học,... Rất nhiều các phát minh lớn của thế kỷ XX như bán dẫn, tia laser, năng lượng hạt nhân, máy tính điện tử,... đều có liên quan đến những thành tựu khoa học này.

Cũng cần phải kể đến hai sự kiện mang tính bước ngoặt có tác dụng thúc đẩy việc đi sâu vào nghiên cứu khoa học. Thứ nhất, đó là cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-45), nó đặt ra yêu cầu phát triển các phương tiện chiến tranh tối tân hơn nhằm nâng cao tính cơ động, xây dựng mạng lưới chỉ huy và thông tin liên lạc hiệu quả (ra đa) cùng những vũ khí có sức sát thương lớn (bom ngun tử, tên lửa). Và thứ hai, đó là cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 đã gây ra sự khủng hoảng toàn diện về cả kinh tế lẫn chính trị, đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong đó có việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học - kỹ thuật theo chiều sâu nhằm giải quyết khủng hoảng và tiếp tục phát triển.

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại có thể được chia ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ thập niên 1940 tới giữa thập niên 1970. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ cuộc khủng hoàng dầu mỏ năm 1973 đến nay, với đặc điểm khoa học kỹ thuật phát triển theo chiều sâu thay vì chiều rộng, trọng tâm đặt nhiều về việc phát triển về nghiên cứu các loại công nghệ và cách mạng về công nghiệp được nâng lên hàng đầu.

So với cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại có nội dung phong phú, đa dạng và rộng lớn hơn rất nhiều. Sự phát triển vượt bậc không những diễn ra trong các ngành khoa học cơ bản (toán học, vật lý, sinh học, hóa học) mà cịn thể hiện ở việc phát sinh của nhiều ngành khoa học, kỹ thuật mới như khoa học vũ trụ, điều khiển học; ngoài ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật còn đi sâu vào những lĩnh vực mới (thế giới vi mơ, các vùng địa lý bí hiểm, bí mật của sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

sống...) và hình thành nên ra các kỹ thuật mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới mà các giai đoạn trước đó chưa từng tiếp cận hay hình dung được.

<i>Một đặc tính khác của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại là vai tròchủ đạo và định hướng của khoa học trong sự phát triển của cơng nghệ và sức sảnxuất. Nhìn lại giai đoạn cách mạng công nghiệp, khoa học không bắt kịp với kỹ thuật,</i>

không dẫn tới các tiến bộ kỹ thuật và các phát minh, cải tiến kỹ thuật cũng không bắt nguồn từ các phát kiến khoa học và các nhà phát minh thường là những người lao động thay vì các nhà khoa học. Tuy nhiên, trong cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, khoa học đã đi trước kỹ thuật rất xa, mở đường cho sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ, là nguyên nhân, nguồn gốc của các tiến bộ kỹ thuật, thâm nhập sâu

<i>sắc vào sự phát triển của sức sản xuất và đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.</i>

Điều này cũng có nghĩa là thời gian ứng dụng khoa học vào phát triển công nghệ và sản xuất càng ngày càng ngắn: trong khi từ nguyên lý máy ảnh đến chế tạo ra chiếc máy ảnh đầu tiên mất 100 năm, thì quá trình tương tự xảy ra đối với mạch vi điển tử chỉ mất 3 năm và tia la-de chỉ mất 2 năm. Đồng thời, hiệu quả kinh tế của việc đầu tư vào khoa học càng lúc càng lớn và lợi nhuận cao hơn so với nhiều lĩnh vực khác.

Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật như trên đã dẫn tới hiện tượng "bùng nổ thông tin", tức là số lượng thông tin, kiến thức khoa học, tài liệu khoa học và đội ngũ các nhà khoa học đã tăng nhanh một cách đột biến với tốc độ phát triển gấp nhiều lần so với quá khứ. Vốn kiến thức khoa học của nhân loại theo ước tính cứ 7 năm tăng gấp đơi, và số nhà khoa học cứ 10 năm thì lại tăng 2 lần. Một nửa số tài liệu khoa học xuất bản của nhân loại (tính đến cuối thế kỷ XX) được xuất bản trong 15-20 năm cuối cùng của thế kỷ này.

Trải qua nửa thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã đạt đựoc những tiến bộ phi thường tạo nên một bước "Đại nhảy vọt". Có thể khái quát bằng những lĩnh vực sau đây:

<i>Một là, trong lĩnh vực khoa học cơ bản đã đạt được những phát minh to lớn</i>

trong Tốn học, Vật lý, Hóa học và Sinh học. Dựa vào những phát minh to lớn của các

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

ngành khoa học cơ bản, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất để phục vụ cuộc sống của mình.

<i>Hai là, những phát minh to lớn về những công cụ sản xuất mới, trong đó có ý</i>

nghĩa quan trọng bậc nhất là sự ra đời của máy tính điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động.

<i>Ba là, trong tình trạng các nguồn năng lượng thiên nhiên đang ngày càng cạn</i>

kiệt, con người đã tìm ra được những nguồn năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng gió, năng lượng mặt trời,... trong đó năng lượng nguyên tử ngày càng được phổ biến và được sử dụng rộng rãi.

<i>Bốn là, sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình các vật liệu tự nhiên</i>

đang cạn dần trong thiên nhiên. Chất pơ-li-me đang giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong đời sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp.

<i>Năm là, cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp đã giải quyết được rất nhiều</i>

vấn nạn về lương thực, đói ăn kéo dài từ bao đời nay.

<i>Sáu là, những tiến bộ thần kì trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên</i>

lạc với những loại máy bay siêu âm khổng lồ, những tảu hỏa tốc độ cao,...và những phương tiện thông tin liên lạc, phát sóng vơ tuyến hết sức hiện đại qua hệ thống vệ tinh nhân tạo (Hệ thống Định vị tồn cầu GPS)

Là một bộ phận khơng thể tách rời khỏi sự phát triển của xã hội và con người, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đã đem lại sự thay đổi to lớn mang tính bước ngoặt trong sự phát triển của xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động, làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới có liên quan đến sự tiến triển của khoa học và công nghệ (công nghiệp tên lửa, điện tử, vi sinh...) và thay đổi hoàn toàn cơ cấu các ngành kinh tế ở nhiều khu vực. Trong khi cách mạng công nghiệp chứng kiến nền sản xuất từ thủ cơng chuyển sang cơ khí hóa, cách mạng khoa học - kỹ thuật cho thấy sự tự động hóa cao độ của nền sản xuất dựa trên việc điện tử hóa và ứng dụng các thành tựu mới nhất của cơng nghệ vào sản xuất. Ngồi ra, tất cả những thay đổi to lớn trong công nghệ và sản xuất đã tạo ra những thiết bị sinh hoạt, hàng tiêu dùng mới làm thay đổi hoàn toàn lối sống của con người trong xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i><b>1.2.3. Sự xuất hiện của truyền thông đại chúng tại Việt Nam</b></i>

Báo chí và Truyền thơng đang là ngành hấp dẫn hiện nay. Cử nhân Báo chí và Truyền thơng ra trường có thể trở thành phóng viên, biên tập viên, nhân viên quan hệ công chúng, chuyên viên quản trị truyền thông… Để đạt được mục tiêu này, các chương trình đào tạo ngành Báo chí & Truyền thông thường xuyên được cập nhật và nâng cao chất lượng với sự hỗ trợ của các chuyên gia trong và ngoài nước. Tuy nhiên, bên cạnh việc đào tạo nghề làm báo, các nhà đào tạo trong lĩnh vực này cần quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh nghiên cứu học thuật của ngành truyền thông (trong phạm vi báo cáo này từ truyền thông dành để chỉ lĩnh vực truyền thông đại chúng). Hiện nay, rất nhiều luận văn, luận án, báo cáo khoa học nghiên cứu truyền thơng trong nước có chung một số điểm yếu như: chưa có nền tảng lý thuyết vững chắc, chưa có các nghiên cứu thực nghiệm đáng tin cậy và chưa có sự kế thừa cũng như sự kết nối với các nghiên cứu truyền thông trên thế giới. Trong phạm vi báo cáo, người viết trình bày những khuynh hướng nghiên cứu truyền thông quốc tế trong thế kỷ XX và đầu XXI, đồng thời mạnh dạn đề xuất một số hướng thực hiện để các nghiên cứu trong nước “hội nhập” với lĩnh vực nghiên cứu truyền thông trên thế giới.

Nghiên cứu truyền thông quốc tế và những trào lưu chính. Các nghiên cứu về truyền thơng đại chúng trên thế giới bắt đầu gây chú ý từ những cuối những 30 và đầu 40 của thế kỷ XX. Câu hỏi lớn được đặt ra cho giới nghiên cứu lúc bấy giờ là vai trò và tầm quan trọng của truyền thông đại chúng đối với xã hội. Định nghĩa của Harold Laswell về truyền thông đại chúng đúc kết trong câu nói nhiều người biết đến “Ai nói cái gì bằng kênh nào với ai với hiệu ứng thế nào” (who says what in which channel to whom with what effect) là một trong những vấn đề được thảo luận sôi nổi trong thời kỳ này. Nhiều nhà nghiên cứu trong giai đoạn này thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh khả năng tác động trực tiếp của truyền thông đến công chúng (Laswell, 1927; Hovland et. al., 1953). Hiệu ứng của truyền thông trong giai đoạn này được xem như “mũi kim tiêm” hoặc “viên đạn thần kỳ”, nghĩa là có sức mạnh vạn năng trong việc tác động đến nhận thức và hành vi của khán thính giả. Trong những năm 1950, do ảnh hưởng của những vấn đề chính trị (trong đó có cuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

chiến tranh lạnh), các nghiên cứu truyền thơng có xu hướng phục vụ cho nhu cầu của các nhà lãnh đạo nhằm đề cao hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội. Về phía giới nghiên cứu Mỹ, họ quan tâm đến các vấn đề như: hiệu ứng truyền thông gây ra nơi công chúng, truyền thông với sức mạnh tuyên truyền, hệ thống truyền thông của Liên bang Xơ Viết và các nước có thể gây rắc rối cho Mỹ. Về mặt kỹ thuật nghiên cứu, điểm nổi bật trong giai đoạn này là việc tiến hành nhiều nghiên cứu thực nghiệm, tinh lọc lại các kỹ thuật điều tra dư luận bằng bảng hỏi. Đây cũng là giai đoạn phát triển các lý thuyết như Thuyết về Nhóm Tham khảo và Q trình Truyền thơng Hai bước (Two-Step Flow) (Lazasfeld, Berelson & Gaudet, 1948), Thuyết Khuếch tán (Diffusion of Innovation) (Rogers, 1962), Thuyết Thiết lập Chương trình Nghị sự (Agenda Setting) (Mc Combs & Shaw, 1972). Do sự khác biệt về hệ thống chính trị, các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn này thường bị các quốc gia phương Tây cho rằng không chú trọng đến nghiên cứu truyền thông. Tuy nhiên, trên thực tế điều này khơng chính xác. Theo tác giả Nordenstreng, nghiên cứu truyền thông tại Liên bang Xô Viết được quan tâm và phát triển mạnh kể từ những năm 1950. Điểm khác biệt giữa các nhà nghiên cứu truyền thông Xô Viết và các nhà nghiên cứu phương Tây là họ quan tâm nhiều đến các vấn đề lý thuyết hơn là các nghiên cứu thực nghiệm. Nghiên cứu truyền thơng của hai phía khơng có sự liên thông và kế thừa lẫn nhau là do việc thiếu thơng tin gây ra bởi các rào cản chính trị cũng như các rào cản ngôn ngữ (Nordenstreng, 1969). Sự khác biệt giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới là tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa cũng dẫn đến những so sánh giữa các hệ thống và chính sách truyền thơng. Tác phẩm Bốn Lý thuyết Truyền thông (Four Theories of the Press) (Siebert, Peterson & Schramm, 1956) trở thành tài liệu tham khảo chính cho các nghiên cứu so sánh trong lĩnh vực truyền thơng chính trị, dù góc nhìn có phần hơi thiên vị (Park C. & Park M.J, 2000). Cũng trong giai đoạn này, các nghiên cứu truyền thông dựa trên phương pháp định lượng trở nên phổ biến.

Bước sang những năm 1980, các nghiên cứu truyền thông thuộc trào lưu thứ hai xuất hiện. Lúc này, chính trị và dư luận xã hội khơng cịn là mối ưu tiên hàng đầu. Những người làm truyền thông quan tâm hơn đến các ứng dụng của truyền thông trong việc đào tạo nhân lực, cung cấp kiến thức, xây dựng hình ảnh, thơng qua đó đạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

được các mục tiêu về phát triển kinh tế. Các nghiên cứu về hiệu quả truyền thơng xác định vai trị của Người Dẫn đường Dư luận (opinion leader) và Thuyết Truyền thông Hai bước (Two – Step) được vận dụng trong truyền thông để tác động đến công chúng.

Trong giai đoạn này, cụm từ “Tư bản chủ nghĩa” và “Xã hội chủ nghĩa” khơng cịn là trọng tâm của các nghiên cứu truyền thông mà thay vào đó là cụm từ “Các nước phát triển” và “Các nước đang phát triển”. Điều này cũng cho thấy yếu tố phát triển kinh tế trở thành một trong các tiêu chí cơ bản để phân tích và so sánh truyền thơng. Có một mối lo ngại xuất hiện trong thời kỳ này, đó là sự bất bình đẳng giữa nước giàu và nước nghèo trong lĩnh vực truyền thộng. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng dòng chảy thơng tin trên thế giới mang tính một chiều và không công bằng giữa các nước phát triển và đang phát triển (Merill, 1991). Để hướng đến một thế giới công bằng hơn về truyền thông, năm 1980, Ủy ban Truyền thông Quốc tế thuộc UNESCO xuất bản báo cáo khoa học có tên gọi “Nhiều tiếng nói, một thế giới” (Many Voices, One World). Báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng qt về truyền thơng và xã hội cũng như các vấn đề của truyền thông trên thế giới, ngoài ra báo cáo cũng đề xuất các giải pháp như tăng cường sức mạnh của các chính sách truyền thông, đào tạo các nhà báo chuyên nghiệp về cả kỹ năng, kiến thức lẫn đạo đức và tinh thần trách nhiệm với xã hội; đồng thời nâng cao tính độc lập, tự quyết, dân chủ của hệ thống truyền thông ở từng quốc gia.

Một xu hướng khác xuất hiện trong nghiên cứu truyền thông giai đoạn này là phân tích mối quan hệ giữa các phương tiện viễn thông với sự phát triển kinh tế – xã hội. Mối lưu tâm ở đây không tập trung vào các phương tiện truyền thông đại chúng mà tập trung vào mạng lưới truyền thơng có tính tương tác, ví dụ như điện thoại. Nhà nghiên cứu Hudson cho rằng việc sử dụng điện thoại có vai trị quan trọng trong việc nâng cao khả năng sản xuất của nền kinh tế và hội nhập với xã hội (Hudson, 1984). Về mặt hiệu ứng truyền thông, xu hướng nhấn mạnh vai trị của cơng chúng dần dần chiếm ưu thế. Thuyết Sử dụng và Hài lòng (Uses & Gratifications) bắt đầu nhìn nhận cơng chúng truyền thơng là chủ thể của hoạt động tiếp nhận nội dung truyền thông một cách chủ động theo nhu cầu của mình (Blumbler, Brown, 1972). Nhà nghiên cứu Stuart Hall theo trường phái Cultural Studies (tạm dịch là việc nghiên cứu các vấn đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

liên quan đến văn hóa một cách hệ thống) đề xuất cách hiểu thông điệp truyền thông theo cơ chế mã hóa và giải mã (Hall, 1997).

Thơng điệp truyền thơng cịn mang tính đa nghĩa và có rất nhiều cách hiểu. Cơng chúng thường giải mã thơng điệp theo quan điểm riêng của họ. Ngồi ra, họ cịn có cảm giác “thỏa mãn” khi có thể “chống lại” ý đồ truyền tải thông điệp của nhà truyền thông (Fiske, 1986). Sang những năm 1990, truyền thông khơng cịn là vấn đề của từng địa phương mà trở thành một trong các yếu tố quan trọng của q trình tồn cầu hóa. Mặt khác, bản thân q trình tồn cầu hóa cũng tác động một cách sâu rộng đến truyền thơng. Các nhà phân tích cho rằng các chính sách và quy định của từng quốc gia ít có khả năng chi phối đến các tổ chức và hoạt động truyền thông xuyên quốc gia. Trên thực tế, hoạt động của các tập đồn truyền thơng đa quốc gia đã có xu hướng tách rời khỏi sự điều khiển của một nước cụ thể. Cùng với những công nghệ mới, nhiều học giả đưa ra giả thiết truyền thơng tự sẽ tự quản lý chính mình chứ khơng cịn chịu sự chi phối của luật pháp từng quốc gia nữa (quản lý truyền thông trên Internet là một ví dụ). Ngồi ra, một số nhà nghiên cứu về truyền thông đề xuất đầu tư nhiều hơn cho hạ tầng kiến trúc của công nghệ nhằm phát triển thơng tin vì cả lợi ích kinh tế lẫn xã hội. Đến cuối thế kỷ XX, truyền thơng đóng vai trị quan trọng trong các hoạt động mang tính tồn cầu như vận động dân chủ, nhân quyền, bảo vệ mơi trường, sức khỏe người lao động, an tồn hạt nhân, ứng dụng kỹ thuật công nghệ truyền thông mới... Trong giai đoạn này có một điều đáng chú ý là các học giả xuất thân từ lĩnh vực kinh tế chính trị và nghiên cứu chính sách cơng bố các nghiên cứu về truyền thông nhiều hơn những nhà nghiên cứu có nền tảng đào tạo là truyền thơng.

Ngồi ra, các nhà nghiên cứu truyền thông trong thế kỷ XX cũng quan tâm đến việc tìm hiểu hoạt động của các hãng truyền thơng nói riêng và ngành cơng nghiệp truyền thơng nói chung. Theo McDowell (2005), những nghiên cứu này bao gồm nghiên cứu về ngành công nghiệp âm nhạc (Burnett, 1996; Negus, 1999), ngành công nghiệp truyền hình (Gershon, 1997; Sinclair, Jacka & Cunningham, 1996), ngành công nghiệp phim ảnh (Hoskin, McFayden, Finn, 1997; Wasko, 1994), viễn thông (Mansell, 1993). Ở tầm quốc gia, giới nghiên cứu truyền thông cũng khảo sát những

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

thay đổi của ngành công nghiệp truyền thơng cùng các chính sách, q trình tư nhân hóa, mua bán, sáp nhập, dân chủ và tự do hóa. Ở từng quốc gia cụ thể, các chương trình truyền thơng được mua lại từ các tập đồn lớn đều được địa phương hóa cho phù hợp với sự tiếp nhận của công chúng. Đây là một trong những căn cứ để các nhà lý thuyết nhận định rằng những nền văn hóa bản địa tiếp thụ các yếu tố văn hóa phương Tây thơng qua các phương tiện truyền thông đại chúng một cách chọn lọc và khơng lệ thuộc các cường quốc về mặt văn hóa. Bên cạnh đó, sự chủ động của cơng chúng trong việc tiếp nhận thông tin là một căn cứ khác để một số nhà nghiên cứu giảm bớt mối quan ngại rằng truyền thông của các nước phát triển sẽ “nơ lệ hóa” hoặc “điều khiển” người dân ở các quốc gia đang phát triển.

Nghiên cứu truyền thông của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

Mặc dù Việt Nam đã mở cửa và giao lưu với thế giới được một thời gian dài nhưng riêng trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thông, chúng ta chưa thật sự “hội nhập”. Khoảng cách giữa nghiên cứu truyền thông trong nước và quốc tế có thể được lý giải bởi các nguyên nhân sau:

i) Đào tạo báo chí & truyền thơng hiện nay được quan niệm là đào tạo Nghề. Vì vậy phần lớn thời gian của các chương trình đào tạo dành cho việc hoàn thiện các kỹ năng làm báo và làm truyền thông cho sinh viên chứ chưa chú trọng đến khía cạnh nghiên cứu;

ii) Nghiên cứu về báo chí nói riêng và truyền thơng nói chung của Việt Nam chịu ảnh hưởng của trường phái báo chí Xơ Viết (cả một thế hệ các nhà báo, các nhà đào tạo truyền thông được học tập và nghiên cứu ở Liên Xô). Đây là thế mạnh, nhưng cũng là điểm yếu vì các thế hệ sau trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thơng khơng có được kiến thức nền tảng từ các nước phương Tây (vốn đối nghịch với Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh);

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

iii) Tài liệu tham khảo chưa có nhiều. Hiện nay chỉ có một số ít sách tham khảo và giáo trình có sự kết nối và cập nhật thơng tin về nghiên cứu truyền thơng trên thế giới, ví dụ như tác phẩm Cơ sở Lý luận Báo chí (Nguyễn Văn Hà, 2011), Truyền thông – Lý thuyết và Kỹ năng cơ bản (Nguyễn Văn Dững, 2005), Xã hội học Báo chí (Trần Hữu Quang, 2000),…

iv) Rào cản về ngơn ngữ.Bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh chính trị, kinh tế trên thế giới có nhiều chuyển biến (khủng hoảng kinh tế tại các nước phát triển, mâu thuẫn tại khu vực Trung Đông, mâu thuẫn quyền lợi giữa các nước lớn, việc thay đổi chính quyền tại Trung Đơng và Bắc Phi,…), truyền thơng ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn và các mối quan tâm trong nghiên cứu truyền thơng đa dạng hơn. Trong đó, những nghiên cứu về truyền thông tại các quốc gia đang phát triển hoặc tại các quốc gia có những điểm khác biệt về chính trị – kinh tế so với các quốc gia Âu Mỹ, ví dụ như Việt Nam, được đánh giá là khá thu hút. Về phía Việt Nam, để cùng gia nhập vào dòng thảo luận chung về các vấn đề truyền thông trên thế giới, chúng ta có thể quan tâm đến một số hướng nghiên cứu sau:

i) Truyền thông trong mối tương quan với và chính trị và nhà nước(Communications in relations with politics and state): Với các nước tư bản phương Tây, truyền thơng đóng vai trị quan trọng trong các chiến dịch tranh cử và tuyên truyền, tạo điều kiện cho công dân tham gia và bày tỏ ý kiến, phát huy tính dân chủ; truyền thơng đưa ra các vấn đề để thảo luận về chiến tranh, hịa bình, chống khủng bố; là một trong các phương tiện thể hiện chính sách ngoại giao, đồng thời cũng tác động ngược trở lại đến các chính sách này; truyền thông đại chúng cũng là một trong các yếu tố quan trọng thúc đẩy tiến trình cách mạng ở một số quốc gia (Mc Quail, 2005). Ở nước ta, báo chí truyền thơng cũng đóng vai trị rất quan trọng trong các hoạt động chính trị và thúc đẩy cho xã hội trở nên công bằng, dân chủ hơn. Khả năng phản biện xã hội của báo chí, vai trị diễn đàn cơng dân của báo chí trong việc tạo ra một không gian thảo luận công cộng, ảnh hưởng của báo chí và các phương tiện truyền thơng mới đến nhận thức chính trị của người dân Việt Nam,… sẽ là những vấn đề nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu truyền thông trên thế giới (nếu được

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

thảo luận dựa trên cơ sở lý thuyết vững chắc và các nghiên cứu thực nghiệm khách quan, không áp đặt các suy luận chủ quan, hình thức).

ii) Truyền thơng và phát triển (Communications and Development): Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Chúng ta có rất nhiều vấn đề cần đương đầu như xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, bảo vệ mơi trường, chống tham nhũng,... Ở các quốc gia như Việt Nam, báo chí truyền thông được xem là công cụ hữu hiệu để đạt được các mục tiêu lớn liên quan đến phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Các nghiên cứu có thể thực hiện theo hướng này là: Cơ sở hạ tầng của truyền thơng, viễn thơng và vai trị đối với chất lượng sống cũng như khả năng sản xuất của nền kinh tế; Chính sách của nhà nước và các chủ trương truyền thông; Nội dung truyền thông về các vấn đề phát triển và khả năng tác động thực tế. Hiện nay, ở Việt Nam việc báo chí truyền thơng hoạt động vì các mục tiêu này được xem là đương nhiên và có phần được “tán dương” trong các nghiên cứu. Tuy nhiên, khi giới thiệu các kết quả nghiên cứu này với các nước phương Tây lưu ý rằng, truyền thông và phát triển là vấn đề có tính hai mặt. Một mặt, báo chí & truyền thông là công cụ hiệu quả, nhưng mặt khác, việc nhà nước điều khiển báo chí (dù với mục đích nào) cũng hạn chế sự độc lập và vai trị của báo chí.

iii) Truyền thông và các vấn đề văn hóa – xã hội (Communications and Cultural issues & Social concerns): Trong giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay, một trong các vấn đề được bàn cãi nhất là có hay khơng “sự xâm lăng” của văn hóa phương Tây thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng. Sự có mặt của các tên tuổi truyền thông phương Tây qua các tạp chí nhượng quyền, các kênh phát trên truyền hình cáp, phim ảnh, hàng hóa,… tại Việt Nam hiện nay ảnh hưởng như thế nào đến lối sống và văn hóa Việt Nam? Liệu văn hóa phương Tây do các tập đồn truyền thơng khổng lồ mang đến sẽ thắng thế, hay sẽ có một nền văn hóa “lai” (hybrid) trong đó có sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống và văn hóa phương Tây? Cơng nghệ truyền thơng mới, ví dụ như Internet, có khả năng giúp cho nền văn hóa bản địa tác động ngược trở lại văn hóa phương Tây? Bên cạnh các vấn đề về văn hóa, truyền thơng cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến các vấn đề xã hội như: tội ác, bạo lực, khiêu dâm, sự lệch lạc xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

hội, sự bất bình đẳng về giới tính, bất bình đẳng trong thông tin, chủ nghĩa tiêu dùng, …

iv) Truyền thơng trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia (Communications and Nation Branding): Nhờ vào truyền thông, mỗi quốc gia đều có khả năng xây dựng hình ảnh của mình để khơng bị “hịa tan” trong q trình tồn cầu hóa. Xây dựng hình ảnh quốc gia là một trong các khía cạnh nghiên cứu khá thú vị hiện nay của truyền thơng. Từ việc tìm hiểu các lý thuyết về việc xác lập một quốc gia (nation-states) đến việc xây dựng các chiến lược truyền thông và triển khai trên thực tế đều rất hữu ích khơng chỉ cho riêng giới nghiên cứu mà cịn cho chính các quốc gia.

v) Đạo đức và tính chuyên nghiệp của báo chí (ethics and professionalism): Ở góc độ hội nhập, các nghiên cứu về đạo đức và tính chuyên nghiệp của báo chí có thể hướng đến việc nâng cao chất lượng của các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước để có tiếng nói và uy tín trên thế giới; nhờ đó khơng phải chịu những bất cơng và thiên vị trong dịng chảy thơng tin tồn cầu.

vi) Nghiên cứu công chúng (Audience Research): Công chúng vốn đa dạng và cách sử dụng truyền thông cũng như tiếp nhận của công chúng rất khác nhau. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông như hiện nay cũng tác động đến thói quen và nhận thức của công chúng. Trong lĩnh vực nghiên cứu công chúng, các nhà nghiên cứu có thể quan tâm đến cả khía cạnh học thuật và khía cạnh áp dụng thực tế bằng việc xây dựng các bộ công cụ khảo sát. Bất cứ cơ quan truyền thông nào cũng muốn hiểu được cơng chúng của mình. Các nhà nghiên cứu truyền thơng trong nước có thể cung cấp các thơng tin về công chúng, cạnh tranh với dịch vụ khảo sát cơng chúng của các tập đồn truyền thơng nước ngồi (hiện nay ở Việt Nam chỉ có TNS Media thực hiện dịch vụ này).

vii) Phương pháp nghiên cứu truyền thơng (Research Methodology): Nghiên cứu, thảo luận về chính các phương pháp nghiên cứu truyền thông là điều cần thiết

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

hiện nay để thúc đẩy cho các nghiên cứu truyền thơng của Việt Nam có chỗ đứng trên thế giới.

Thực ra, các hướng nghiên cứu trên khơng phải hồn tồn mới. Ít nhiều thì các nghiên cứu tại Việt Nam đã bàn đến các vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, để hội nhập với thế giới, các nhà nghiên cứu cần đặt những mối quan tâm của mình trong bối cảnh thế giới hiện nay và q trình tồn cầu hóa chứ khơng chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước. Bên cạnh đó, các nghiên cứu truyền thơng hiện đại đều mang tính liên thơng với các ngành khác như chính trị học, kinh tế học, xã hội học,…; đồng thời ở hướng nghiên cứu nào cũng nên lưu ý đến sự phát triển của những công nghệ mới trong truyền thông.

<b>1.3. Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến đời sống xã hội</b>

Công nghệ truyền thông đã khiến giao tiếp ngày càng dễ dàng hơn so với lịch sử. Hôm nay, trẻ em được khuyến khích sử dụng cơng cụ truyền thơng trong trường học và dự kiến sẽ có một sự hiểu biết chung về các cơng nghệ có sẵn khác nhau. Internet được cho là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong phương tiện truyền thông để liên lạc. Các công cụ như e-mail, Skype, Facebook vv, đã đưa con người đến gần với nhau và tạo ra các cộng đồng trực tuyến mới. Tuy nhiên, một số có thể lập luận rằng một số loại phương tiện truyền thơng có thể gây cản trở giao tiếp mặt đối mặt.

Trong một xã hội tiêu dùng theo định hướng lớn, phương tiện truyền thơng điện tử(ví dụ như TV) và phương tiện in (chẳng hạn như báo chí) là quan trọng để phân phối phương tiện truyền thông quảng cáo. Cơng nghệ càng tiên tiến hơn thì xã hội được tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ thơng qua các phương tiện truyền thông càng mới hơn.

Bên cạnh vai trị "quảng cáo", phương tiện truyền thơng ngày nay là một cơng cụ để chia sẻ kiến thức trên tồn thế giới. Phân tích sự tiến hóa của mơi trường trong xã hội, Popkin tìm ra vai trị quan trọng của các phương tiện truyền thông, bằng cách xây dựng kết nối giữa chính trị, văn hóa và đời sống kinh tế và xã hội: ví dụ tờ báo định kỳ đã có cơ hội đầu tiên là quảng cáo và thứ hai là cập nhật các hoạt động đối ngoại hiện nay hoặc tình hình kinh tế đất nước. Trong lúc đó, Willinsky đã phát huy

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

vai trị của cơng nghệ hiện đại như là một cách để truyền tải văn hóa, giới tính, vượt qua các rào cản quốc gia. Ông đã thấy internet là một cơ hội để thiết lập một hệ thống công bằng và bình đẳng các kiến thức: internet có thể được truy cập vào bởi bất cứ ai, bất kỳ thơng tin được cơng bố có thể được đọc và tham khảo ý kiến của bất cứ ai. Do đó, internet là một giải pháp bền vững để vượt qua những "khoảng cách" giữa các nước phát triển và đang phát triển tức là cả hai sẽ có được một cơ hội để học hỏi lẫn nhau. Canagarajah đang giải quyết vấn đề liên quan đến quan hệ bất bình đẳng giữa các nước Bắc và Nam, khẳng định rằng các nước phương Tây có xu hướng áp đặt ý tưởng của mình vào việc phát triển đất nước. Vì thế, internet là cách để thiết lập lại sự cân bằng, bởi ví dụ tăng cường cơng bố báo, tạp chí học thuật từ các nước đang phát triển. Christen là một trong những người đã tạo ra một hệ thống cung cấp truy cập đến tri thức và bảo vệ quán và văn hóa của người dân. Thật vậy, trong một số xã hội truyền thống, một số giới tính có thể khơng có quyền truy cập vào một loại nhất định của tri thức do đó tơn trọng những phong tục giới hạn phạm vi phổ biến nhưng vẫn cho phép việc truyền bá kiến thức. Trong q trình phổ biến này, phương tiện truyền thơng sẽ đóng một vai trị "trung gian", đó là nói dịch một nghiên cứu học thuật sang một định dạng báo chí, có thể truy cập bởi đối tượng cư sĩ (Levin). Do đó, phương tiện truyền thơng là một hình thức truyền thông hiện đại nhằm phổ biến kiến thức trong tồn bộ thế giới, khơng phân biệt bất kỳ hình thức phân biệt đối xử.

Phương tiện truyền thơng, thơng qua các phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc tâm lý, đã giúp kết nối mọi người không bị giới hạn bởi vị trí địa lý. Nó cũng giúp trong các khía cạnh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tư và các hoạt động khác mà có một phiên bản trực tuyến. Tất cả các phương tiện truyền thông nhằm ảnh hưởng đến hành vi của con người được bắt đầu thông qua truyền thông và các hành vi dự định được diễn đạt bằng tâm lý. Do đó, sự hiểu biết và truyền thông tâm lý là nền tảng trong việc tìm hiểu những tác động xã hội và cá nhân của phương tiện truyền thông. Các lĩnh vực mở rộng của phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc tâm lý kết hợp các bộ môn được thành lập theo một cách mới.

Thời gian thay đổi dựa trên sự sáng tạo và hiệu quả có thể khơng có một mối tương quan trực tiếp với công nghệ. Các cuộc cách mạng thông tin được dựa trên những tiến bộ hiện đại. Trong thế kỷ 19, những thông tin "bùng nổ" nhanh chóng vì

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

các hệ thống bưu chính, tăng khả năng tiếp cận báo chí, cũng như các trường được "hiện đại hóa". Những tiến bộ đã được thực hiện do sự gia tăng của người dân được xoá mù chữ và giáo dục. Các phương pháp giao tiếp mặc dù đã thay đổi và phân tán trong nhiều hướng dựa trên mã nguồn của tác động văn hóa xã hội của nó. Những thành kiến trong các phương tiện truyền thơng có ảnh hưởng đến tơn giáo thiểu số, dân tộc có hình thức phân biệt chủng tộc trong các phương tiện truyền thông và chứng cuồng sợ Hồi giáo (Islamophobia) trong giới truyền thông.

<b>CHƯƠNG 2. BẢN CHẤT, QUY LUẬT CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI2.1. Những vấn đề cơ bản về DLXH </b>

<i><b>2.1.1. Định nghĩa</b></i>

* Thông tin: Thông tin là một khái niệm trừu tượng, tồn tại khách quan, có thể nhớ trong đối tượng, biến đổi trong đối tượng và áp dụng để điều khiển đối tượng. Thông tin làm tăng thêm hiểu biết của con người, là nguồn gốc của nhận thức. Thơng tin về một đối tượng chính là một dữ kiện về đối tượng đó, chúng giúp ta nhận biết và hiểu được đối tượng. Thơng tin có liên quan chặt chẽ đến khái niệm về độ bất định. Mỗi đối tượng chưa xác định hồn tồn đều có một độ bất định nào đó. Tính bất định này chưa cho biết một cách chính xác và đầy đủ về đối tượng đó.

* DLXH là một tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội, của cộng đồng xã hội hay xã hội nói chung, nó có tính phổ biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

tương đối, tính mạnh mẽ và bền vững nhất định đối với những vấn đề đụng chạm tới lợi ích chung, thu được được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.

- Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính tốn đến. Những người theo học ở Liên-xô trước đây thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực tiếp từ thuật ngữ tiếng Nga: “общŸcтвŸнноŸ мнŸниŸ). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng thuật ngữ “công luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: “public opinion”).

- Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên-xô trước đây (cũ) định nghĩa DLXH là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối

<i>với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K. Paderin: “Dư luận xã hội là tổng thểcác ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định(bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiệntượng, sự kiện đối với các tập thể, giai cấp, xã hội nói chung và thái độ công khaihoặc che đậy của các nhóm xã hội lớn, nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hộicó động chạm đến các lợi ích chung của họ”. </i>

- Young (USA): DLXH là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các vấn đề có tầm quan trọng được hình thành sau khi có sự tranh luận cơng khai.

- Trung Tâm Nghiên cứu DLXH thuộc Ban tư tưởng văn hoá Trung ương: DLXH là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự.

- Trung tâm Xã hội học (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh): DLXH là mọt hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị sự phán xét, đánh giá và thái độ của các nhóm xã hội đối với nhứng vấn đề có liên quan đến lợi ích của các nhóm trong xã hội. DLXH được hình thành qua các cuộc trao đổi thảo luận cơng khai.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<b>HÌNH 2.1. DƯ LUẬN CỦA XÃ HỘI</b>

<i><b>2.1.2. Đối tượng của DLXH</b></i>

<b>- Đối tượng của dư luận xã hội: không phải là mọi thực tế xã hội nói chung,</b>

mà là những vấn đề được cộng đồng xã hội quan tâm.

<b>– Chủ thể của dư luận xã hội là cộng đồng người hay nhóm người mang dư</b>

luận xã hội.

<i><b>2.1.3. Các tính chất của DLXH</b></i>

Thơng qua con đường hình thành DLXH ta có thể hình dung tóm tắt lại như sau: Khi một vấn đề nào đó nảy sinh trong xã hội và gây được sự quan tâm của cơng chúng thì một số người đầu tiên sẽ có ý kiến phán xét đánh giá của mình, sau đó các ý kiến được đưa ra thảo luận tronghóm của họ và giữa các nhóm với nhau. Cuối cùng trên cơ sở thảo luận của nhiều nhóm xã hội, DLXH dần dần được hình thành, định hình dưới dạng phán xét đánh giá thái độ của công chúng.

DLXH được hình thành có các đặc điểm sau:

<i><b> Tính cơng chúng,cơng khai.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Đây là đặc tính quan trọng nhất của DLXH. Nó được thể hiện trên hai phương

– Chủ thể của DLXH. – Đối tượng của DLXH. a) Chủ thể của DLXH:

Tính đặc thù của DLXH gắn liền với chủ thể của nó. Nhưng việc xác định chủ thể của DLXH là một trong những vấn đề gây tranh cãi gay gắt trong lý luận về DLXH. Có người coi “đám đơng”, “cơng chúng” thậm chí nhóm người bất kể nhóm lớn hay nhỏ đều là chủ thể của DLXH.

Các Mác đã nhiều lần gọi:”DLXH là dư luận nhân dân”, “…các đại biểu thường xuyên kêu gọi sự ủng hộ của dư luận nhân dân sẽ mang lại cho dư luận nhân dân quyền phát ngơn ý kiến thực của mình “.

Hay V.I.Lêninthường xun sử dụng khái niệm “DLXH” khi nói dến chủ nghĩa tư bản. Để vạch trần lời lẽ mị dân cua giai cấp tư sản về DLXH, Người đã viết:”Đối với những kẻ tự do, DLXH tất yếu sẽ phải là dư luận của bọn tư sản chứ không phải là dư luậncủa nông dân và công nhân”.Nhưng sau cách mạng Tháng Mười khi dùng khái niệm DLXH, Lênin lại viết là “DLXH của những người lao động”. Tóm lại, ta có thể khẳng định chủ thể của DLXH là các nhóm trong xã hội mà lợi ích của họ có mối quan hệ nhất định với các vấn đề diễn ra trong xã hội và dược đưa ra thảo luận công khai. Trong một số trường hợp chủ thể của DLXH có thể là toàn thể nhân dân, toàn bộ cộng đồng hoặc đại đa số. Dưới điều kiện của CNXH phát triển có thể khẳng định một cách tương đối rằng DLXH XHCN chính là dư luận nhân dân. b) Đối tượng của DLXH:

Ta thấy DLXH nảy sinh trước các vấn đề cấp bách và có ý nghĩa xã hội được mọi người quan tâm và nó là sản phẩm của sự thảo luận, trao đổi giữa các ý kiến. Như vậy, ta có thể nói rằng đối tượng của DLXH là các sự kiện, hiện tượng, quá trình đang diễn ra trong xã hội gây được sự quan tâm của mọi người bởi mối quan hệ của chúng đến lợi ích của nhóm xã hội đó. Song khơng phải tất cả mọi sự kiện, hiện tượng diễn ra đều trở thành đối tượng của DLXH mà chỉ có những sự kiện,hiện tượng có đủ các điều kiện sau mới được coi là đối tượng của DLXH:

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<b>Tính lợi ích trong DLXH: * Thứ nhất, các sự kiện, hiện tượng xã hội đang</b>

diễn ra phải được xem xét trong mối quan hệ mật thiết với lợi ích của các nhóm

– Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của đơng đảo người dân. Ví dụ: các chủ trương chính sách của Đảng – Nhà nước về miễn giảm thuế nông nghiệp, về cải cách chế dộ tiền lương…

– Lợi ích tinh thần được đề cập đến khi các vấn đề diễn ra đụng chạm đến hệ thống giá trị,chuẩn mực, các phong tục tập quán, khuôn mẫu hành vivà ứng xử văn hố của nhóm xã hội, của cộng đồng.

-Lợi ích là điều kiện cần để thúc đẩy tạo ra DLXH, còn điều kiện đủ ở đây chính là nhận thức của nhóm về lợi ích của mình trong mối quan hệ với sự kiện, hiện tượng đang diễn ra.

* Thứ hai, để trở thành đối tượng của DLXH các sự kiện, hiện tượng đó cịn phải là các vấn đề mang tính chất cơng chúng và được thơng tin một cách rộng rải cho người dân thông qua các con đường chính thức và cơng khai. Các con đường chính thức đó là các kênh thơng tin của Nhà nước, chính quyền, các đồn thể có trách nhiệm liên quan đến vấn đề và qua các kênh thông tin đại chúng (TTĐC). Trong xã hội hiện đại thì các kênh TTĐC đặc biệt có ý nghĩa trong việc góp phần hình thành DLXH. Chính vì vậy nơi nào có mật độ tập trung cao các phương tiện TTĐC (chẳng hạn như khu vực đơ thị) thì nơi đó DLXH có điều kiện hình thành và phát triển tốt hơn.

<i><b>Tính lan truyền</b></i>

DLXH được coi như một biểu hiện của hành vi tập thể, một hiện tượng được các nhà tâm lý học xã hội và xã hội học rất quan tâm. Cơ sở của bất kỳ một hành vi tập thể nào cũng là hiệu ứng phản xạ quay vịng trong đó khởi đầu từ phản ứng của một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ sẽ gây nên chuỗi kích thích của các cá nhân khác, nhóm khác. Để duy trì chuỗi kích thích này ln ln cần có những nhân tố tác động lên cơ chế hoạt động tâm lý của cá nhân và nhóm .

Đối với DLXH các nhân tố tác động có thể được coi là các thơng tin bằng hình ảnh, âm thanh sống động trực tiếp có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thơng tin này, các nhóm cơng chúng khác nhau sẽ được lơi cuốn vào q trình bày tỏ sự

</div>

×