Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người. Vận dụng vào quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.01 KB, 32 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

"

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ </b>

---🙞🙜🕮🙞🙜---

<b>BÀI THẢO LUẬN </b>

<b>HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH </b>

<b>“Đề tài chính: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người. Vận dụng vào quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay”. “ Đề tài phụ: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ </b>

<b>nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay”. </b>

<b>Giảng viên giảng dạy </b> : Ngô Thị Huyền Trang

<b>Lớp học phần </b> : 2335HCMI0111

<b>Hà Nội, 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Contents

<b>ĐỀ TÀI CHÍNH: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI. VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH </b>

<b>VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY ... 2 </b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU ... 2 </b>

<b>CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI ... 3 </b>

<b>1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người. ... 3 </b>

<b>1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người ... 3 </b>

<b>1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người ... 5 </b>

<b>CHƯƠNG II. VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY ... 12 </b>

<b>2.1. Thực trạng sinh viên Đại học Thương mại học tập, tu dưỡng, rèn luyện hiện nay ... 12 </b>

<b>2.2. Vận dụng vào quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay ... 17 </b>

<b>KẾT LUẬN ... 21 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 22 </b>

<b>ĐỀ TÀI PHỤ: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN. VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ... 23 </b>

<b>CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN ... 23 </b>

<b>1.1. Nhà nước dân chủ ... 23 </b>

<b>1.2. Nhà nước pháp quyền ... 26 </b>

<b>1.3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh ... 27 </b>

<b>CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ... 29 </b>

<b>2.1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở việt nam hiện nay ... 30 </b>

<b>2.2. Đề xuất giải pháp, phương hướng ... 31 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>ĐỀ TÀI CHÍNH: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI. VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY </b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU </b>

Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Sinh thời, Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc trên thế giới. Người là một con người vĩ đại, cả cuộc đời và sự nghiệp của Người đã tạo nên huyền thoại, ghi dấu ấn mạnh mẽ không chỉ với riêng đất nước Việt Nam, con người Việt Nam mà cịn được cả thế giới ghi nhận và tơn vinh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam, dẫn dắt dân tộc Việt Nam đến tương lai tươi sáng. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và cuộc đời đấu tranh của mình, Người ln coi “con người” là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định của sự nghiệp cách mạng. Người cũng thường xuyên nhắc nhở rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mượn câu nói trên để chỉ ra tầm quan trọng của sự nghiệp trồng người.

<b>Chính vì vậy, nhóm 10 chúng em sẽ đi tìm hiểu về đề tài “Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người. Vận dụng vào quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay” để phân tích làm rõ tư tưởng của Hồ Chí </b>

Minh về con người và vận dụng vào chính sinh viên trong trường ở bối cảnh hiện nay. Vì cơ sở lý luận cũng như thời gian của chúng em còn hạn chế, bài thảo luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm 10 rất mong cơ và các bạn có những đóng góp, chia sẻ để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Chúng em xin cảm ơn!

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người. </b>

Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình, dịng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, tơn giáo...). Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải thích “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng bào cả nước; rộng hơn nữa là cả loài người”. Con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng xã hội.

Hồ Chí Minh cũng chỉ ra yếu tố sinh vật của con người. Con người là một “thực thể sinh vật xã hội” ln có mặt tích cực, tiêu cực, có xấu, có tốt trong bản thân… Song dù xấu hay tốt đều có “tình người”, có xu hướng vươn tới Chân - Thiện - Mỹ. Theo Người, “dân dĩ thực vi thiên”; “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Theo Người, trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành.

Trong thực tiễn, con người có nhiều chiều quan hệ: quan hệ với cộng đồng xã hội (là một thành viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với tự nhiên (một bộ phận không tách rời).

Xa lạ với con người trừu tượng, phi nguồn gốc lịch sử, Hồ Chí Minh nhìn nhận con người lịch sử - cụ thể về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, vị trí, đảng viên, cơng dân..., trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những cấu trúc kinh tế, xã hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.

<b>1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người </b>

1.2.1. Con người là mục tiêu của cách mạng

Con người là chiến lược đầu tiên trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong ba giai đoạn cách mạng (giải phóng dân tộc – xây dựng

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

chế độ dân chủ nhân dân – tiến dần lên xã hội chủ nghĩa) nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.

Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất là cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác; xóa bỏ sự bất cơng, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế - xã hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều kiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai cấp và xác lập một xã hội khơng có giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các giai cấp cần lao, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Phạm vi thế giới là giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.

Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con người; xóa bỏ các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho mọi người được hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát huy khả năng sáng tạo, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện theo đúng bản chất tốt đẹp của con người. Con người trong giải phóng con người là cá nhân mỗi con người. Phạm vi thế giới là giải phóng lồi người.

Các “giải phóng” đó kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc mở đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Sống cùng dân, hiểu dân, Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước học hành”. Ở Người, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng khổ và nô lệ lầm than, niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người. Người cũng đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Trong di chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

người”. Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. 1.2.2. Con người là động lực của cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”; “trong bầu trời khơng gì mạnh bằng sức mạnh đồn kết của nhân dân”. “Ý dân là ý trời”. “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Tức là nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng trí tuệ, quyền hành, lịng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng. Họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ mãi khơng ra”. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng.

Mối quan hệ giữa con người, mục tiêu con người, động lực con người: chăm lo cho con người, mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người, động lực tốt bấy nhiêu và ngược lại. Tuy nhiên Người cho rằng: “Không phải mọi con người đều trở thành động lực”. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam…và họ cần có sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lưc trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân, thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ, bảo thủ, rụt rè, khơng dám nói, khơng dám làm, khơng dám đề ra ý kiến, không dám đổi mới và sáng tạo.

<b>1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người </b>

1.3.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người

Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con người.

<i>Đầu tiên là quan điểm: Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. </i>

“Trồng người” là cơng việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là cơng việc của văn hóa giáo dục. “Trồng người” là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị cho tương lai. Đó là một sự nghiệp to lớn địi hỏi vừa phải có chiến lược cơ bản, lâu dài, vừa phải có chính sách và kế hoạch tồn diện, cụ thể, khoa học, gắn với chiến lược và chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Bởi vì, nếu sao nhãng việc trồng người, nhất định sẽ dẫn đến những bất cập, hơn nữa cịn là những suy thối về con người có thể gây những hậu quả khơn lường. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.

<i>Thứ hai, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người </i>

xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khơng phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Có nghĩa là khơng phải tất cả mọi người phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hồn chỉnh ngay một lúc, mà có nghĩa là, trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của người xã hội chủ nghĩa. Vì họ là những người đi đầu để có thể làm gương và lơi cuốn người khác cũng như toàn xã hội xây dựng con người mới. Đồng thời, họ cũng không ngừng được hoàn thiện, được nâng cao.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đơng). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên,.); Có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lịng nhân ái, vị tha, độ lượng. Cần được hiểu trước hết cần có những con người với những nét tiêu biểu của xã hội xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người đi trước, làm gương lôi cuốn người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến”.

1.3.2. Nội dung xây dựng con người

Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người tồn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện với những khía cạnh chủ yếu sau:

<i>Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy </i>

công nhân, nông dân, tri thức cách mạng cần nhận rõ rằng: Hiện nay, nhân dân lao động là người làm chủ đất nước. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc. Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Chính vì vậy cần phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Người từng thẳng thừng phê phán: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vơ tổ chức, vơ kỷ luật và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, đã là người làm chủ nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Tất cả mọi người phải biết gìn giữ của cơng, mỗi người ra sức góp cơng, góp của để xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ai cũng phải là một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần tập thể CNXH.

<i>Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã luận giải </i>

về cần một cách sâu sắc và hệ thống: Người nêu định nghĩa ngắn gọn “Cần tức là lao động

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai”. Nói đến cần là nói đến thái độ nghiêm túc trong công việc và hiệu quả do cần mang lại thì vơ cùng to lớn. Nếu con người ta biết cần“thì việc gì, dù khó mấy cũng làm được”. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong xã hội ta, khơng có nghề nào là thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ”. "Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi". Nhắc đến tiết kiệm, Người căn dặn chúng ta phải tiết kiệm tiền bạc, của cải và thời cơ, không phải chỉ biết tiết kiệm cho mình mà phải tiết kiệm cho người khác nữa. Người nói: "Thời giờ cũng phải tiết kiệm như của cải... Tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người. Khơng nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ người khác". Bởi vì: "Của cải nếu

<i>hết, cịn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, khơng bao giờ kéo nó trở lại được". </i>

Bác nêu mối quan hệ mật thiết và tác động hỗ trợ lẫn nhau giữa Cần và Kiệm: “Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm, thì “làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng khơng có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra chừng ấy, khơng lại hồn khơng. Kiệm mà khơng Cần, thì khơng tăng thêm, khơng phát triển được. Mà vật gì đã khơng tiến tất phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, khơng tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt”. Bác yêu cầu: “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà”.

<i>Có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng. Dân tộc Việt Nam từ lâu </i>

đã hình thành lịng u nước trong lịch sử và có một nền văn hiến lâu đời, với truyền thống anh hùng bất khuất, đoàn kết thuỷ chung và tình nghĩa đồng bào sâu nặng. Đây là một nét tiêu biểu trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung và những anh hùng khác".

Chủ nghĩa quốc tế được coi là một trong những phẩm chất đạo đức cốt yếu nhất của chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tưởng Hồ Chí Minh là rất rộng lớn và sâu sắc, bao gồm sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đồn kết với giai cấp vơ sản trên tồn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơ vanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Hồ Chí Minh ln khuyến khích tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, giúp đỡ các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

<i>Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương. </i>

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ muốn hồn thành tốt nhiệm vụ cần phải có phương pháp làm việc khoa học; việc lớn hay việc nhỏ đều phải được xem xét, nghiên cứu tỉ mỉ, chính xác, xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch, biện pháp sát thực và tổ chức hoạt động thực tiễn một cách khoa học. Phương pháp làm việc khoa học gắn với cuộc đời, sự nghiệp vĩ đại của Người có giá trị định hướng quan trọng trong bồi dưỡng và xây dựng phương pháp làm việc đối với đội ngũ cán bộ hiện nay, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới. Phong cách quần chúng, phong cách dân chủ và phong cách nêu gương trong tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của cách mạng và của dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chun mơn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.

1.3.3. Phương pháp xây dựng con người

<i>Đầu tiên, mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng </i>

cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân, chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ” (làm những việc có lợi cho nước, cho dân). Truyền thống nêu gương của những cán bộ cốt cán phải được thể hiện thơng qua lời nói, việc làm và trách nhiệm. Chính những hành động và lời nói của cán bộ cốt cán sẽ khiến nhân dân tin tưởng, kính trọng và yêu mến họ, đồng thời đoàn kết chặt chẽ quanh Đảng, giúp quần chúng thực hiện tốt chính sách của Đảng. Đối với trách nhiệm, cán bộ cốt cán cần phải cao

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thượng tinh thần trách nhiệm, đồng thời dũng cảm đón nhận và chịu trách nhiệm với những sai lầm, khuyết điểm của mình, khơng đổ lỗi cho người khác hay cho hoàn cảnh bên ngoài. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi những người đứng đầu và nòng cốt của Đảng là "cốt cán", và khi nói đến nêu gương, ơng ln nhắc đến việc cán bộ phải "ba cùng" với nhân dân. Cán bộ nòng cốt cần phải thật thà, chân thành, đồng hành cùng nhân dân. Nếu chỉ "một cùng", "hai cùng" hay "hai cùng rưỡi" thì sẽ khơng thể đạt được thành cơng. Những cán bộ nịng cốt "ba cùng" với nhân dân mới có thể đạt được thành cơng.

Văn hóa phương Đơng cho thấy “một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Người nhận thức rằng: Đối với các dân tộc phương Đơng thì “một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Do vậy, khi địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng ra sức tự hoàn thiện để trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn. Điều trên áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cực kỳ quan trọng, vì “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Cán bộ, đảng viên phải luôn là gương mẫu, trở thành tấm gương sống về đức và tài, toàn tâm, toàn ý, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục sự cách mạng, phục vụ nhân dân.

<i>Thứ hai, biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh đã viết trong bài </i>

thơ “Nửa đêm” (Nhật ký trong tù): “Hiền, dữ của con người không phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Theo Người, các cháu mẫu giáo, tiểu học như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Tức là, con người chúng ta sinh ra bản chất vốn là tốt, nhưng sau ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống, mỗi người biết rèn luyện, phấn đấu mà hình thành những con người thiện, ác khác nhau. Nói như vậy để thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây dựng con người. Hồ Chí Minh ln đánh giá cao vai trị của nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà”. Trong giáo dục phổ thông, mỗi lớp đều treo biển về câu nói của Người. Đó chính là “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đại vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần ở cơng học tập của các em”.

Toàn Đảng, toàn dân và tất cả mọi lực lượng cần phải quan tâm, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Người viết: “chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Đảng, toàn dân. Cơng tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ”. Gia đình, nhà trường và xã hội phải chăm sóc, bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thanh thiếu nhi trở thành lực lượng nối tiếp thành niên, đều là cơng dân tốt, thành các đội xung kích cách mạng, là lực lượng hậu bị của Đảng nhằm kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho lý tưởng cộng sản.

Bởi nếu không chăm lo cho thế hệ trẻ, không tạo dựng một lực lượng kế tục có đức, có tài, sẽ khơng có những con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người nhấn mạnh “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, của trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương cho các em trước mọi việc”. Vì vậy, giáo dục phải kết hợp cả ba khâu giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội.

<i>Cuối cùng, chú trọng vai trị của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần chúng. </i>

Trong quá trình đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược trong lịch sử, tình hình đất nước lúc đó rất phức tạp, Đảng và nhà nước Việt Nam đã củng cố đoàn kết toàn dân tộc và đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc vượt qua những thử thách khó khăn. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Đảng, nhân dân cả nước đã bước vào cuộc chiến chống lại kẻ thù với tinh thần anh dũng và quả cảm. Với tư tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền tuyến với hậu phương, động viên lực lượng của toàn dân và khẳng định vai trò quan trọng của mình. Thơng qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CHƯƠNG II. VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY </b>

<b>2.1. Thực trạng sinh viên Đại học Thương mại học tập, tu dưỡng, rèn luyện hiện nay </b>

Giống như tất cả các bạn sinh viên trên toàn quốc. Hiện nay, các bạn sinh viên trường Đại học Thương mại đã và đang trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, con người vào trong quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng và cần thiết giúp cho sinh viên trở thành một cơng dân tốt, có trách nhiệm với gia đình, q hương, giúp sinh viên có một cái nhìn đúng đắn và triệt để hơn trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay. Và chính nhờ vào việc học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt những năm qua, sinh viên trường Đại học Thương mại đã đạt được những thành tích xuất sắc ở khơng chỉ trong học tập mà còn trong đời sống và xã hội.

2.1.1. Ưu điểm

Sinh viên Đại học Thương mại được học tập, tiếp thu tinh thần yêu nước, phấn đấu vì độc lập dân tộc và có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu:

Sinh viên Đại học Thương mại có lịng u nước nồng nàn và ý thức tự tôn dân tộc,

<i><b>luôn biết ơn những thế hệ đi trước, ln có tư tưởng cống hiến cho đất nước. Đa số sinh </b></i>

viên tự nhận thức rõ ràng luôn ý thức được phải trung thành với Tổ quốc, với Đảng và kiên trì tu dưỡng xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động trước khó khăn thử thách. Sinh viên có tinh thần tự cường dân tộc, có ý chí vươn lên thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Ngồi ra, cơng tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh được Bộ Giáo dục và nhà trường quan tâm. Các sinh viên học tập tại trường đều được học tập và nghiên cứu sâu sắc các bộ mơn lý luận chính trị về tư tưởng Hồ Chí Minh , Chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngồi ra, sinh viên tích cực tham gia các cuộc thi tìm hiểu về phong cách đạo đức lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hàng kỳ học, có các bạn sinh viên đi học cảm tình Đảng với mục tiêu trở thành Đảng viên, góp phần vào công cuộc xây dựng phát triển đất nước xã hội chủ nghĩa. Nhà trường treo nhiều biểu ngữ vừa có tác dụng tun truyền đạo đức Hồ Chí Minh, vừa là lời nhắc nhở hằng ngày hưởng sinh viên học tập và làm theo lời Bác.

Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung:

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Sinh viên đều có ý thức tập thể, thể hiện trong việc ln hồn thành cơng việc trong tập thể, teamwork. Sống vì tập thể, có kỷ cương, kỷ luật, có đóng góp các ý kiến nhằm phát triển các câu lạc bộ, hay hình ảnh trường Đại học Thương mại. Ngồi ra tinh thần đoàn kết với bạn bè cũng được nêu cao trong quá trình học tập giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện, giúp đỡ những bạn có hồn cảnh khó khăn.

Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tơn trọng kỷ cương, có ý thức bảo vệ môi trường:

Ý thức “cần, kiệm” được thể hiện qua số việc sinh viên Thương Mại dành được học bổng trong những năm gần đây. Đây chính là kết quả của sự cần cù, siêng năng lao động, làm việc có kế hoạch, có năng suất cao thì mới gặt hái được thành tích xuất sắc. Khơng những có đức tính cần cù, siêng năng mà rất nhiều sinh viên đại học Thương Mại cịn có ý thức tiết kiệm của công cho nhà trường và cho chính bản thân. Điển hình như một số bạn có ý thức đóng cửa khi ra khỏi phịng điều hòa, tắt lại vòi nước khi thấy bị rò rỉ,... Đấy là những việc làm rất rất được khen ngợi và tuyên dương. Đây tuy đều là những hành động nhỏ bé nhưng rất đáng được tuyên dương.

Đồn Thanh niên trường Đại học Thương mại có kết hợp với Viện huyết học máu Trung ương tổ chức các hoạt động hiến máu và vận động sinh viên tham gia hiến máu với thông điệp : “Một giọt máu trao đi – một cuộc đời ở lại; Hiến máu cứu người – Một nghĩa cử cao đẹp”. Đây là một trong những hành động rất thiết thực và ý nghĩa, góp phần giáo dục thể hệ trẻ thanh niên về tấm lòng nhân ái đối với cộng đồng và xã hội… Ngoài ra trường và các bạn sinh viên cũng có nhiều hoạt động qun góp ủng hộ những hồn cảnh khó khăn khơng chỉ với những sinh viên trong trường mà cịn những nơi có thiên tai lũ lụt... Không những vậy, gần như các khoa, viện trong trường đều có các câu lạc bộ, đội thanh niên tình nguyện với mong muốn đem yêu thương, đem những nụ cười, đem sự ấm áp đến với những nơi vùng sâu vùng xa những vùng khó khăn,... Điển hình như Đội TNTN Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế (EVF) đã tổ chức thành rất nhiều hoạt động đi tình nguyện xa như: Mùa hè xanh, Trung thu cho em… Gần đây nhất là chuyến đi Đông ấm tại Hà Giang mặc dù thời tiết và địa hình rất khó khăn, nhưng EVF đã mang đến vùng đất địa đầu của Tổ quốc tình yêu thương, sẻ chia gắn kết tới những mảnh đời cịn nhiều khó khăn ở nơi đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Bên cạnh đó, sinh viên ý thức được việc bảo vệ môi trường, gìn giữ quan cảnh trường học, bên ngồi xã hội. Các bạn sinh viên tích cực tham gia vào các hoạt động tham gia giao thông an toàn, kỷ luật trở thành một người văn minh, có lối sống lành mạnh, khơng tham gia vào các tệ nạn xã hội ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình và nhà trường. Sinh viên Đại học Thương mại là những người lao động chăm chỉ, là những người năng động, sáng tạo:

Sinh viên Đại học Thương mại được biết đến là những sinh viên năng động sáng tạo. Tất cả các bạn sinh viên đều rất tích cực tham gia các sự kiện lớn nhỏ trong, ngoài trường. Hằng năm sinh viên tham gia vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật, tham gia vào các cuộc thi lớn như: Tài năng trẻ Logistic, Dự án khởi nghiệp…và đạt được nhiều kết quả cao. Sinh viên sáng tạo, phát triển bản thân giành được nhiều học bổng từ các tập đoàn lớn ở Việt Nam.

Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, năng lực ngoại ngữ và thể lực:

Trong học tập sinh viên Đại học Thương mại không ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho lượng kiến thức thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cơ mà tự mình đọc sách nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Dễ thấy tại thư viện, chúng ta luôn thấy được hình ảnh đơng đúc của các bạn sinh viên tự học, tìm hiểu tiếp thu thêm kiến thức ngồi giờ lên lớp.

Ngồi việc nâng cao trình độ chun môn, các bạn sinh viên nhận thức được trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và trở thành cơng dân tồn cầu thì cần bổ sung các kỹ năng mềm, và đặc biệt là năng lực ngoại ngữ ( sinh viên Đại học Thương mại cần các chứng chỉ tiếng anh, tin học… là điều kiện cần để tốt nghiệp). Các bạn sinh viên tham gia tích cực vào các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao do nhà trường, khoa tổ chức. Ngồi giờ lên lớp thì chúng ta dễ thấy đông đúc các bạn sinh viên rèn luyện thể thao tại sân trường. Sinh viên trường Đại học Thương mại có tinh thần quốc tế trong sáng, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa của các quốc gia trên thế giới:

Trường Đại học Thương mại hiện đang có nhiều các bạn sinh viên, cũng như giảng viên đến từ các quốc gia khác. Sinh viên đều rất hòa đồng, ham học hỏi và giúp đỡ các bạn sinh viên nước ngoài học tập tại trường. Hàng năm, Đại học Thương mại có các chương

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

trình trao đổi sinh với các bạn sinh viên đến từ các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc…Các bạn sinh viên trường mình đều rất quan tâm đến, vừa là cơ hội, vừa là trải nghiệm giúp các bạn được giao lưu, học hỏi và tiếp cận với nền giáo dục , nền văn hóa từ các quốc gia phát triển trên thế giới. Như gần đây nhất trường Đại học Thương mại, có 5 bạn sinh viên đã giành được học bổng du học tiếng Hàn tại trường Đại học Kookmin - 1 ngôi trường đại học danh tiếng của Hàn Quốc.

Đây là những ưu điểm của việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào q trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện của sinh viên Đại học thương mại ngày nay. Tất cả các bạn sinh viên cần gìn giữ những giá trị mà mình lĩnh hội được ngoài ra cần nhận thức được và phát triển hơn nữa vì sự nghiệp giáo dục trồng người và vì sự phát triển của đất nước.

2.1.2. Hạn chế

Ngoài những ưu điểm, bên cạnh đó việc học tập rèn luyện và tu dưỡng của sinh viên Đại học Thương mại ngày nay vẫn tồn tại những hạn chế nhất định:

Nhiều bạn sinh viên chưa có ý chí học tập, quyết tâm vượt qua thử thách: Khơng ít những sinh viên đã và đang có những quyết định thiếu ý chí, nghị lực. Các bạn luôn đưa ra lý do để biện minh cho những hành động đó của mình, mà khơng tìm cách để giải quyết nó. Chẳng hạn như khi gặp một vấn đề khó giải quyết, có những sinh viên chưa quyết tâm cố gắng để hoàn thành, đạt được mục tiêu một cách tốt nhất mà vẫn còn thờ ơ, chưa thực sự quan tâm đến vấn đề mà mình mắc phải

Thiếu trung thực, gian lận trong học tập, thi cử: Tình trạng lười học, ngủ trong giờ học, trốn học vẫn cịn diễn ra khá nhiều. Các bạn có suy nghĩ, “thi rồi học”, thậm chí, nhiều bạn khơng học. Thay vào đó, các bạn sử dụng “phao” dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói về tiết kiệm, một bộ phận sinh viên, chưa có ý thức đóng cửa khi phịng bật điều hịa, … gây lãng phí cho nhà trường. Không chỉ vậy, sinh viên Đại học Thương mại cịn có những hành vi như học hộ, thi hộ vì chỉ nghĩ đến việc mong muốn đạt thành tích cao mà khơng quan tâm đến việc học thật, thi thật. Bên cạnh đó, cịn một bộ phận sinh viên cịn ích kỷ, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân mà quên đi lợi ích tập thể. Chưa phát huy được “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến.

</div>

×