Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tư tưởng đức trị của khổng tử và tư tưởng nhân chính của mạnh tử những điểm tương đồng và khác biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.1 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ VÀ
TƯ TƯỞNG NHÂN CHÍNH CỦA MẠNH TỬ
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
Tiểu luận Triết học

GVHD : BÙI XUÂN THANH
SVTH : VŨ MINH CHÂU
MSSV : 7701230351

[01/2014]


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 “ĐỨC” TRONG ĐỨC TRỊ VÀ “NHÂN” TRONG NHÂN CHÍNH 3
1.1 “Đức” trong đức trị ............................................................................................ 3
1.2 “Nhân” trong nhân chính ................................................................................... 4
1.3 Nhận xét ............................................................................................................ 6
CHƯƠNG 2 - TƯ TƯỞNG COI TRỌNG DÂN ..................................................... 7
2.1 Khổng Tử .......................................................................................................... 7
2.2 Mạnh Tử ............................................................................................................ 7
2.3 Nhận xét ............................................................................................................ 8
CHƯƠNG 3 - CHÍNH SÁCH TRỊ DÂN VÀ GIÁO HÓA DÂN ............................ 9
3.1 Khổng Tử: ......................................................................................................... 9
3.2 Mạnh Tử ............................................................................................................ 9
3.3 Nhận xét .......................................................................................................... 10
CHƯƠNG 4 - DƯỠNG DÂN ................................................................................. 11


4.1 Khổng Tử ........................................................................................................ 11
4.2 Mạnh Tử .......................................................................................................... 11
4.3 Nhận xét .......................................................................................................... 11
CHƯƠNG 5 - TỔNG LƯỢC ĐỨC TRỊ VÀ NHÂN CHÍNH ............................... 13
5.1 Đức trị ............................................................................................................. 13
5.2 Nhân chính ...................................................................................................... 13
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 15

Trang | 1


LỜI MỞ ĐẦU
Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và Trung
Quốc là những Trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn
minh ấy. Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông thời đó mà ý nghĩa của nó
vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức,chính trị- xã hội đó
là những tư tưởng triết học của Nho Gia.
Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo với hạt nhân là đường lối “Đức trị”. Tuy
nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối “Đức trị” mới được phát triển tương đối hoàn
chỉnh và trở thành đường lối nhân chính (chính trị nhân nghĩa). Tư tưởng nhân chính
của Mạnh Tử chính là một sự kế thừa và phát triển xuất sắc tư tưởng đức trị của
Khổng Tử. Qua bài tiểu luận “Tư tưởng đức trị của Khổng Tử và tư tưởng nhân
chính của Mạnh tử - Những điểm tương đồng và khác biệt” sẽ lần lượt đi xem xét
từng nội dung chính trong tư tưởng này và phân tích các luận điểm của Khổng – Mạnh
trong từng nội dung để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt. Cụ thể bài viết sẽ xem
các sự tương đồng và khác biệt trong 4 nội dung chính sau:
Chương I: “Đức” trong đức trị và “Nhân” trong nhân chính
Chương II: Tư tưởng coi trọng dân.
Chương III: Chính sách trị dân và giáo hóa dân.
Chương IV: Dưỡng dân.

Chương V: Tổng lược đức trị và nhân chính

Trang | 2


CHƯƠNG 1 - “ĐỨC” TRONG ĐỨC TRỊ VÀ “NHÂN” TRONG NHÂN CHÍNH
1.1 “Đức” trong đức trị
Trong triết học Khổng Tử, nhân là phạm trù luân lý đạo đức căn bản nhất mang
nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong đời mình, dù là luận thuyết việc trị nước cứu đời hay
dạy học, trước sau Khổng Tử đều nói nhiều đến đức nhân. Trong Luận Ngữ, phạm trù
"Nhân" được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà
"Nhân" được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Nhân” vừa là tu thân, vừa là ái nhân,
lại vừa là xử kỷ, vừa là tiếp vật. Ngoài ra “nhân” còn là Trung (yêu người, hết lòng
với người) và thứ (làm cho người những cái mình muốn và đừng làm cho người
những cái mình không muốn). Tựu chung, theo Khổng Tử “nhân” chính là đạo làm
người, là cái đích của sự tu thân sửa mình của mỗi người trong xã hội, đức nhân là cái
bền vững như núi sông. Do đó, nhân là phạm trù xuất phát mang tính nền tảng của
Khổng Tử trong quan niệm về đạo trị nước và trong chính sách cai trị của nhà cầm
quyền. Ông chủ trương xây dựng một học thuyết chính trị lấy nhân làm tư tưởng chủ
đạo, dùng lễ và chính danh để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Học thuyết Nho giáo của Khổng Tử rất chú trọng dạy đạo làm người. Tuy nhiên
phải nói đạo làm người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến.
Chúng ta đều biết trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi
của con ngươì, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong
mối quan hệ với nhà nước… đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Như
đã nói ở trên, đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc thị tộc, Khổng Tử đã gắn cho
học thuyết nhân một nội dung giai cấp khá rõ nét. Luận điểm: “Người quân tử có khi
phạm điều bất nhân, chứ chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân” của
Khổng Tử cho thấy ông không thừa nhận đức nhân của quần chúng lao động. Trong
suy nghĩ của ông, các đức đều có sẵn mầm mống và đầu mối như nhau trong tính trời,

lòng người, nhưng chỉ kẻ quân tử biết mệnh trời nên mới có thể tự tu thân sửa mình
giữ gìn tâm tính để có đạo cao, đức sáng. Trái lại, kẻ tiểu nhân vì không hiểu mệnh
trời nên không biết tồn tâm dưỡng tính, đưa đến hậu quả hư cả tâm, mất cả tính; do

Trang | 3


vậy, họ không có đức. Điều đó có nghĩa, đức nhân chỉ là đức của người quân tử và
triết lý tu thân sửa mình mà Khổng Tử đưa ra chỉ dành riêng cho giai cấp thống trị.
Để thực hiện điều nhân Khổng Tử cho rằng con người phải có lễ. Lễ là các quy
phạm đạo đức hợp thành một hệ thống quy tắc xử thế. Trong học thuyết chính trị của
mình ông gắn chặt nhân với lễ: “Nhân” là nội dung của lễ, “Lễ” là hình thức của
Nhân, “ Chính danh” là con đường đạt đến điều Nhân. Theo ông, để thiên hạ được ổn
định, được chính danh, được theo mệnh, phải trở về với Lễ và đó chính là nhân. Nhân
phải được ước thúc, quy định bởi lễ. Theo Khổng phu tử, lễ đặt con người vào quan hệ
tôn tộc theo thứ bậc, đặt con người vào quan hệ đẳng cấp. Lễ là con đường, là mục
đích vươn đến và khả năng hiện thực hóa điều nhân, đưa xã hội từ xã hội Tiểu Khang
小 小 vươn đến xã hội Đại Đồng 小小. Theo ông, nếu xã hội không có lễ, con người sẽ
không có đạo đức nhân nghĩa, không có trật tự, không có sự uy nghiêm, không có
lòng thành kính.
Suy cho cùng mà nói, học thuyết “Lễ” của Khổng Tử nhằm bổ sung vào chổ
thiếu sót của tư tưởng “đức trị” mang đầy nội hàm về phân biệt đẳng cấp của ông. Để
thủ tiêu đấu tranh giai cấp, ông đòi hỏi kẻ trên phải tôn trọng kẻ dưới, kẻ dưới phải
kính trọng kẻ trên và phải thành kính trong khi thực hiện lễ. Do đó, “lễ trị” thực chất
chỉ là nền chuyên chính của giai cấp thống trị đối với quần chúng nhân dân lao động.
1.2 “Nhân” trong nhân chính
Mạnh Tử đã phát triển và làm rõ hơn nội dung của nhân trong tư tưởng của
Khổng Tử. Ổng khẳng định: “Hễ làm người thì phải làm nhân. Nói cho hợp nghĩa,
nhân tức là đạo làm người vậy”. Vẫn khẳng định nhân là thương người, nhưng Mạnh
Tử chú trọng hơn đến nền tảng của đức nhân. Theo ông, đầu mối của nhân là “lòng

trắc ẩn”, nhân đứng đầu trong tứ thiện đức và là đỉnh cao của tháp ngà đạo đức của
con người, từ đó làm nảy sinh các đức tính khác. Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát
triển tư tưởng của Khổng Tử về “tính tương cận, tập tương viễn” và đi đến luận điểm
nổi tiếng: “Nhân tính chi thiện giã” (cái bản tính của người ta vốn thiện). Qua thuyết
tính thiện cho thấy Mạnh Tử tin con người đều có thể trở thành người tốt. Ông nói:
“Phàm những vật đồng loại đều có tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại người
Trang | 4


ta lại nghi ngờ rằng bản tính chẳng giống nhau? Bậc thánh nhân với ta đều là một loại,
tức đều có tâm tính hết thảy giống nhau.”
Chính vì vậy, trong tư tưởng Mạnh Tử, đức nhân không chỉ là đức của riêng
người quân tử như quan điệm của Khổng Tử. Mạnh Tử cho rằng, đức nhân vẫn luôn ở
bên cạnh ta. Nếu ta đối xử thành thật trong các quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng –
vợ…và lòng ta không muốn hoạn nạn cho người khác, khi ấy ta đã là người có nhân.
Từ đó ông khẳng định sức mạnh vô địch của nhân nghĩa: “ Đối với người nhân dẫu kẻ
địch có đông cũng chẳng làm gi được mình. Này, nếu một vị quốc quân thích làm
nhân chính, trong thiên hạ chẳng ai địch nổi”. Không ai địch nổi người nhân đức là ý
niệm chính trị mà Mạnh Tử suốt đời tin tưởng theo đuổi.
Nếu Khổng Tử gắn chặt “nhân” với “lễ” thì theo Mạnh Tử, nhân là lương tâm
của con người, “nhân” gắn chặt với “nghĩa”. Nghĩa là con đường chính đại, là làm
việc theo lẽ phải, không lầm đường lạc lối. Ông nói: “Nhân là lương tâm của con
người, nghĩa là con người, nghĩa là con đường chính đại của người. Những ai bỏ qua
con đường chính đại của mình mà chẳng theo, những kẻ để thất lạc lương tâm của
mình mà chẳng biết tìm nó lại, thật đáng thương hại thay!...Người học vấn đạo lý chỉ
có cái mục đích này mà thôi: tìm lại cái lương tâm thất lạc của mình”. Từ đó cho thấy,
Mạnh Tử muốn dùng nghĩa để khôi phục nhân. Bản tính con người là thiện nhưng sở
dĩ bất thiện là do hoàn cảnh, nhất là do không biết tồn tâm dưỡng tính để dục vọng
tầm thường, tức cái phần ti tiện nhỏ nhen như thú tính, che lấp mất phần cao đại, quý
báu là tính thiện. Muốn giữ gìn đức nhân, con người phải có nghĩa. Nếu như đức nhân

thể hiện trong mối quan hệ của ta với người khác thì đức nghĩa thể hiện trong khi ta tự
vấn lương tâm. Mạnh Tử rất quan tâm đến nghĩa và đề cao nghĩa nhằm thi hành đức
nhân. Theo ông, lòng hổ thẹn là đầu mối của đức nghĩa. Nghĩa là điều nên nói, là việc
nên làm. Nói điều gì đó, làm việc gì đó mà lương tâm không cắn rứt thì điều nói, việc
làm đó là điều nghĩa. Trái lại, điều gì đó, việc gì đó không hợp với đạo lý nên không
nói, không làm, cảm thấy lương tâm thoải mái, thì điều đó, việc đó là bấ tnghĩa. Như
vậy, nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, cho dù điều đó
có hay không đem lại lợi ích cho người thực hiện. Gắn chặt nhân với nghĩa, Mạnh Tử
khẳng định, kẻ tự xưng là người nhân nhưng chẳng thi hành điều nhân thì chẳng qua
Trang | 5


như một hạt lúa lép vô dụng: “Trong các thứ hột, lúa ngũ cốc là quý nhất. Nhưng lúa
mà hột chẳng chín, thì chẳng bằng thứ cỏ đề bái. Cũng như thế, người ta chỉ quý điều
nhân ở chỗ công phu thành thục mà thôi”. Nhân gắn liền với nghĩa nên bất nhân gắn
liền với bất nghĩa. Đạo làm người không được phạm điều bất nhân và bất nghĩa:
“Người ta trước phải phân định những việc mình không nên làm, sau mới cần biết tới
những việc mà mình phải làm”. Theo Mạnh Tử, cái quan trọng với mỗi người không
phải là chức vụ và quyền lợi, mà là tu dưỡng điều nhân, làm điều nghĩa.
Như vậy, trong bốn đức lớn của con người, do tư đoán, vốn có ở tâm con người
là nhân, nghĩa, lễ, trí, Mạnh Tử ít đề cập tới trí và lễ, mà đặc biệt đề cao nhân và
nghĩa, kết hợp chúng thành phạm trù nhân nghĩa. Theo ông, trên mọi lĩnh vực của đạo
làm người cũng như trong mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, xét tới
cùng, đều có hai mặt nhân nghĩa. Nhân nghĩa cần thiết cho tất cả mọi người từ quần
chúng nhân dân đến nhà cầm quyền. Khi nhà cầm quyền đem nhân nghĩa ứng dụng
vào việc trị nước thì thành nhân chính. Nếu đem lòng nhân mà thi hành nhân chính thì
mọi việc sẽ trôi chảy, xã hội sẽ ổn định, thái bình.
1.3 Nhận xét
Như vậy, so sánh chữ nhân của 2 nhà tư tưởng, nhìn chung đều mang nội hàm
tích cực là ái nhân, là đạo làm người. Tuy nhiên, có 2 điểm khác cơ bản:

 Chữ nhân của Khổng Tử còn mang đậm tính giai cấp. Điều này là khó tránh
khỏi bởi vì dẫu sao ông cũng xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Đối với Mạnh Tử,
ông không gắn nhân với người quân tử mà bất kỳ ai, chỉ cần “ đối xử thành thật
với mọi người…và lòng không muốn hoạn nạn cho người khác, khi ấy ta đã là
người có nhân”.
 Với nhược điểm là tính giai cấp của chữ “nhân” trong tư tưởng đức trị của ông,
sợ lòng “dân” khó thuận, Khổng Tử đã chủ trương dùng lễ để thi hành nhân.
Trong khi đó, Mạnh Tử lại chủ trương dùng con đường chính đạo – nghĩa – để
tìm lại cái lương tâm bị thất lại (nhân) trong mỗi con người.
 Phạm trù “Nhân” của Mạnh Tử là sự phát triển phạm trù “Nhân” của Khổng Tử
theo hướng duy tâm hóa , nhưng hàm chứa những điểm tiến bộ.
Trang | 6


CHƯƠNG 2 - TƯ TƯỞNG COI TRỌNG DÂN
2.1 Khổng Tử
Khổng Tử - có nói rằng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Câu ấy có
nghĩa là: Dân làm quý, xã tắc là thứ, vua làm khinh.
Quan điểm tư tưởng đó có bắt nguồn từ tư tưởng trọng dân, vì dân của Khổng Tử. Câu
chuyện dưới đây sẽ minh chứng cho điều đó:
Khi Tử Cống xin Khổng Tử dạy bảo về đường lối trị quốc và quản lý, Khổng Tử
đáp: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hỹ”. Nghĩa là trước tiên phải có đầy đủ lương
thực (yếu tố vật chất), thứ đến là phải có đầy đủ quân đội vũ khí và sự tín nhiệm của
dân. Tử Cống lại hỏi: “Nếu trường hợp bất đắc dĩ mà phải bỏ một trong ba điều đó thì
nên bỏ thứ nào?”. Khổng Tử đáp: “Bỏ binh”. Tử Cống hỏi tiếp: “Nếu như trong hai
điều còn lại mà phải bỏ một thì bỏ thứ nào?”. Khổng Tử đáp: “Bỏ lương thực”. Khổng
Tử cho rằng bỏ ăn thì chết song xưa nay ai cũng chết, nhưng không có lòng tin của
dân chúng thì quốc gia không thể đứng vững và tồn tại lâu dài.
Đoạn đối thoại này của Khổng Tử đã nói một cách rõ ràng rằng: So sánh “túc
binh”, “túc thực”, và “dân tín” thì “dân tín” là quan trọng nhất. Trong những tình

huống cấp thiết có thể có thể bỏ binh, bỏ lương thực, điều đó có thể làm cho quốc gia
nảy sinh ra một số khó khăn nhất định về vật lực, tài lực nhưng không bao giờ được
làm mất đi lòng tin của nhân dân. Tại sao “dân tín” lại quan trọng đến như vậy? Bởi vì
“dân vô tín bất lập”. Không có sự tín nhiệm của dân chúng thì một quốc gia, một chế
độ sẽ không tồn tại lâu dài được. Khi một chế độ mất đi lòng tin của dân chúng, thì
cho dù vật chất có đầy đủ, quân đội vững mạnh thì đó cũng chỉ là một con hổ giấy mà
thôi. Ngược lại, một chế độ thực sự vì dân và được sự tín nhiệm của dân thì dù trong
hoàn cảnh khó khăn dân chúng vẫn tin theo để đưa đất nước vượt qua khó khăn đó.
2.2 Mạnh Tử
Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng “dân tín”, coi đó là điều quan trọng nhất không
thể bỏ được trong phép trị nước, thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: “Kiệt
và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng…hễ được dân chúng tự
Trang | 7


nhiên sẽ được thiên hạ…hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng”. Ông nói:
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng
nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc
nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Từ đó, Mạnh Tử chủ
trương thi hành một chế độ “báo dân” và khuyến cáo các bậc vua chúa: “Nếu người
bực trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình
buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bực quốc trưởng
mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng
có bề hưng vượng đó”.
2.3 Nhận xét
“Trọng dân” – tư tưởng không bao giờ là lịch sử. Không khó gì để nhận ra tư
tưởng này đúng đắn cho đến tận bây giờ với quá nhiều minh chứng trong lịch sử. Rất
nhiều các nhà chính trị tài ba đã áp dụng tư tưởng này từ dựng nước đến xây dựng bảo
vệ tổ quốc đem lại kết quả không chỉ là thành công mà còn là tiếng thơm muôn đời. Ở
đây Mạnh Tử đã kế thừa tư tưởng dân tín của Mạnh Tử và cụ thể hóa nó bằng cách

chủ trương thi hành chế độ “báo dân”.

Trang | 8


CHƯƠNG 3 - CHÍNH SÁCH TRỊ DÂN VÀ GIÁO HÓA DÂN
3.1 Khổng Tử:
Khổng Tử quan niệm: “Không giáo hóa dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là
tàn ngược”. Khổng Tử chủ trương giảm hình, coi nhẹ hình còn vì ông thật sự không
bao giờ tin vào bá đạo: “có thể (dùng sức mạnh) bắt được vị nguyên soái, chứ chí
hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi. Khổng Tử cho
việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự nghiệp của thánh vương Nghiêu, Thuấn
chưa chắc đã làm được như vậy.
Tuy nhiên trong lĩnh vực huấn luyện kỹ năng thực hành cho dân, Khổng Tử
không tránh khỏi những hạn chế xã hội. Trung Hoa thưở ấy là xã hội nông nghiệp, thế
mà Khổng Tử không dạy cách làm ruộng làm vườn. Khi Phàn Trì xin ông dạy cách
trồng cây thì ông đã trách rằng: “Gã Phàn Trì chí nhỏ hẹp lắm thay! Người bề trên chỉ
cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì dân chúng bốn phương sẽ đem đến phục dịch mình. Cần
chi phải học nghề cày cấy” (Luận ngữ; Tử Lộ). Khổng Tử coi việc làm ruộng là của
kẻ tiểu nhân, còn kẻ sỹ “hà tất phải học làm ruộng”. Đây là tư tưởng xem thường công
việc chân tay của Khổng Tử. Không chỉ xem thường kẻ lao lực, Khổng Tử còn không
tin vào khả năng nhận thức của họ. Khổng Tử viết “Dân khả sự do chi, bất khả sự tri
chi”, đây là chủ trương “ngu dân” của Khổng Tử. Tuy nhiên, ông chủ trương “hữu
giáo vô loài”, đây là mâu thuẫn tư tưởng thân dân và lập trường quý tộc của ông. Về
sau tư tưởng này được Mạnh Tử khắc phục.
3.2 Mạnh Tử
Chủ trương phải giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hóa dân. Cũng như
Khổng Tử, Mạnh Tử trước sau tôn sùng “Vương đạo” phản đối “Bá đạo”. Mạnh Tử
coi việc giảm hình phạt phải là một chính sách của nhân chính. Ông nói: Vua cần phải
thi hành phép cai trị nhân – đức đối với dân: Giảm hình phạt, bớt thuế-liễm, khiến dân

siêng lo việc cày sâu cuốc bẫm, làm vườn tược”. Theo Mạnh Tử cần phải nhẹ hình
phạt bởi nếu “dân khờ khạo mà phạm luật nước, đó không phải là tội của họ, mà chính
là tội của nhà cầm quyền chẳng biết giữ gìn, giáo hóa họ”.
Trang | 9


Có một điều nhất quán giữa Khổng – Mạnh trong chủ trương nhẹ hình là cả hai
ông đều xem chính hình và thưởng phạt khéo có thể giúp cho sự giáo hóa dân chúng.
Mạnh Tử, cũng xem trọng giáo hóa như Khổng Tử, nhưng cái mới ở ông là rất quan
tâm đến việc quảng bá giáo dục, thông qua việc xây dựng hệ thống trường học rộng
khắp. Ông chủ trương hình thành một mạng lưới trường học đa dạng từ làn xã đến
kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học; đó là tư tường, tự, học, hiệu, để
giáo hóa dân chúng. Như vậy, so với Khổng Tử, chủ trương giáo hóa của Mạnh Tử có
tính quảng bá và phổ cập hơn. Ngoài việc chú ý đề cao giáo dục đạo đức nhân luân
như Khổng Tử, Mạnh Tử còn thấy được trách nhiệm của người trị dân là phải dạy dân
cấy gặt, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất hơn.
Ông chỉ rõ: “Vua Thuấn đã cho ông hậu tắc việc dạy dân cấy gặt và gieo trồng năm
giống lúa chín, nhân dân nhờ đó mà sống”. Có thể thấy rõ quan điểm giáo dục và giáo
hóa dân của Mạnh Tử thể hiện một bước tiến so với Khổng Tử trước đó và là nội dung
quan trọng hợp thành đường lối chính trị nhân nghĩa mà Mạnh Tử đã cổ vũ suốt đời.
3.3 Nhận xét
Nhất quán với tư tưởng nhẹ hình và giáo hóa dân của Khổng Tử, nhưng Á Thánh
đã chứng tỏ rõ bản lĩnh của mình khi giải quyết khá vẹn toàn các mâu thuẫn trong nội
dung này của Khổng Tử:
 Có tư tưởng không chưa đủ, Mạnh Tử đề ra cụ thể con đường phải đi bằng cách
xây dựng một hệ thống trường học nói theo kiểu hiện nay “từ trung ương đến
địa phương” và đa dạng.
 Kinh tế luôn là cái cơ sở hạ tầng để xây lên các kiến trúc thượng tầng, vậy mà
Khổng Tử lại coi nhẹ - đúng hơn là xem thường. Mạnh Tử đã thấm nhuần sâu
sắc tư tưởng trọng nông, gắn giáo hóa dân với dạy dân làm nông nghiệp. Từ đó,

nhân dân có được một cuộc sống no đủ như thế đất nước mới hưng thịnh.

Trang | 10


CHƯƠNG 4 - DƯỠNG DÂN
4.1 Khổng Tử
Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết là phải làm cho dân no đủ. Ông coi trọng
việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hóa dân nữa. Dưỡng dân
còn phải biết “sử dân dĩ thời” tức là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể.
4.2 Mạnh Tử
Nếu Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc, nhưng mới
dừng lại ở những nguyên tắc có tính đường lối, thì Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến
các biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ. Mạnh Tử
đòi hỏi bậc minh quân phải “chế định điền sản mà chia cho dân cày cấy, cốt khiến cho
họ trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi sống vợ con, nhằm năm trúng mùa thì
mãi mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi nạn chết đói”, và “Thánh nhân cai trị thiên
hạ, phải làm cho dân có đậu thóc nhiều như nước lửa, khi đậu thóc nhiều như nước lửa
thì dân chẳng còn ai bất nghĩa nữa”.
Trên cơ sở “sử dân dĩ thời” của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất một đường
hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân, “nếu bậc
quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm xâu lúc cày
cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc…bực thánh nhân cai trị
thiên hạ khiến ai nấy đều co đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa vậy. Nếu
dân chúng có về phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì họ còn ăn
ở bất nhân làm chi”. Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa
đối với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường
lối nhân chính.
4.3 Nhận xét
Một lần nữa, chúng ta phải nghiên mình kính phục đối với 2 vị triết gia này,

trong thời đại của họ - “vương đạo” suy vi, “bá đạo” đang nổi lên lấn át “vương đạo”,
hầu hết các nhà tử tưởng đều đứng trên lập trường giai cấp, tầng lớp mình mà phê
phán xã hội cũ, xây dựng xã hội tương lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau.
Trang | 11


Cho dù là xuất thân từ tầng lớp quý tộc, Khổng Tử vẫn đặt dưỡng dân lên hàng đầu đủ
cho thấy tư tưởng rất tiến bộ so với với bấy giờ của ông.
Riêng đối với tôi, ở nội dung này Mạnh Tử đã thật sự làm cái gọi là phát triển và hiện
thực hóa tư tưởng dưỡng dân của Khổng Tử: đưa ra các chính sách kinh tế cụ thể,
thiết thực hướng tới đời sống của quần chúng nhân dân lao động.

Trang | 12


CHƯƠNG 5 - TỔNG LƯỢC ĐỨC TRỊ VÀ NHÂN CHÍNH
5.1 Đức trị
Lòng tin mãnh liệt vào thiện đức của con người chính là cơ sở của đường lối đức
trị Khổng Tử.
Đức trị là dùng luân lý đạo đức điều hành xã hội. Mọi người trong xã hội đều
thấm nhuần và hành động theo các tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo.
Khổng Tử sống trong thời xuân thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống nhất bị phá
vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống trong nước Lỗ là
nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó. Nói một cách đơn giản là tư tưởng
đẳng cấp nghiêm ngặt và tư tưởng cải lương chính trị của ông phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ, xúc tiến xã hội phát triển.
Khổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý nghiêm ngặt, cho rằng nếu làm trái
với cấp trên hoặc trái với cha mẹ đều là tội nghiêm trọng. Theo lý luận này, Vương
quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung thành với vương quân. Mỗi
người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có thể là cha, có thể là thần tử...nhưng

đều cần phải duy trì ranh giới tông tôi nghiêm khắc. Như vậy nhà nước mới thái bình,
nhân dân mới có cuộc sống yên ổn.
5.2 Nhân chính
Không chỉ đơn thuần là dùng nhân nghĩa trong chính trị. Trong học thuyết chính
trị - xã hội của Mạnh Tử, công việc trị nước của nhà cầm quyền còn thể hiện ở các
chính sách kinh tế giáo dục…; trong đó, ông đặc biệt quan tâm đến việc đưa ra các
chính sách kinh tế chi tiết, cụ thể nhằm cứu vớt dân chúng.
Từ ý tưởng Nhân của Khổng Tử, Mạnh Tử phát huy thành Nhân chính, một học
thuyết xung phá cái bế tắc của Khổng Tử và làm cơ sở cho khái niệm dân chủ về sau.
Ông cho rằng đối với loại bạo chúa hại dân như Kiệt Trụ, có thể giết. Lúc đó không
phải giết vua mà chỉ là giết gã thất phu vô lại. Giết như thế là làm theo mệnh trời.
Nhưng kẻ giết bạo chúa mà lên ngôi cũng phải nổi tiếng là người hiền, được dân
chúng tin tưởng là khoan đại và nhân nghĩa.
Trang | 13


Ðối với vấn đề trị quốc, Mạnh Tử chủ trương dùng Nhân đức và Vương đạo.
“Người dùng đức thi hành nhân là bậc vương” (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu, Thượng).
Thang giá trị trong nước được xếp theo thứ bậc: “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh: Dân là quý, kế đó xã tắc, vua thì nhẹ” (Mạnh Tử, Tận tâm, Hạ). Vì thế, tâm
điểm của mọi sách lược chính trị phải là “trọng dân”. Ðược dân là được thiên hạ;
muốn “được dân” thì phải “được lòng dân”. Trọng dân tức là tôn trọng công bằng xã
hội để người dân nhận được cái họ đáng được hưởng từ quan quyền.
Tiêu chuẩn dùng để phán xét nhà cầm quyền là hạnh phúc của dân chúng. Mạnh
Tử chủ trương bớt hình phạt, nhẹ sưu thuế, dựa vào lòng dân trên cơ sở bản tính con
người vốn thiện. Chính nhờ thế mới có thể thiết lập sự ổn định chân chính cả xã hội
lẫn chính trị. Việc an bang tế thế chỉ có thể tiến hành hữu hiệu bằng cách tôn trọng các
nguyên tắc minh bạch.

Trang | 14



KẾT LUẬN
Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm
gốc, coi trọng vai trò của dân tuy đã thể hiện được những quan điểm nhân bản khá sâu
sắc. Đường lối đó nặng "đức" "nhẹ hình", khuyến khích người đời từ thường dân đến
bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử. Học thuyết “Đức trị”
của Khổng, Mạnh chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo và ngày nay
vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ còn tìm
được trong đó nhiều bài học bổ ích.

Trang | 15



×