Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

trình bày quan điểm triết học mác lênin về con người và bản chất con người từ đó anhchị vận dụng vấn đề này vào việc hoàn thiện nhân cách của sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.62 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢIKHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC</b>

<b><small>BỘ MƠN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN</small></b>

<b>TIỂU LUẬN</b>

<b>Tên tiểu luận: “Trình bày quan điểm triết học Mác-lênin về con ngườivà bản chất con người ? Từ đó anh(chị) vận dụng vấn đề này vào việc</b>

<b>hoàn thiện nhân cách của sinh viên Việt Nam hiện nay”</b>

<b>Sinh viên thực hiện: Tạ Hoàng Nam</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU </b>

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>... 3</b>

<b>I. Con người và bản chất con người:...4</b>

<b>a) Khái niệm về con người:...4 </b>

<b>1. Bản tính tự nhiên của con người...4</b>

<b>2. Bản tính xã hội của con người...5</b>

<b>b) Bản chất của con người...6</b>

<b>1. Con người là thực thể sinh học - xã hội...6</b>

<b>2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người... 8</b>

<b>3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử... 9</b>

<b>4. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội...11</b>

<b>5. Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên...12</b>

<b>II. Liên hệ vấn đề này vào việc hoàn thiện nhân cách của sinh viên Việt Nam hiện nay...13</b>

<b>1. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên Việt Nam hiện nay...13</b>

<b>2. Liên hệ bản thân với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một sinh viên...15</b>

<b>III. Kết luận...16</b>

<b>IV. Tài liệu tham khảo ...16</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù triết học duy vật trước Mác coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng khơng vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí cịn là duy tâm. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà khơng thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn xã hội.Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp tinh thần và thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một cách vĩnh cửu và mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mácxít.

Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do? Chính nhờ những câu hỏi này nên em đã quyết định chọn chủ

<b>đề: Quan điểm về con người và bản chất con người trong triết học Mác Lênin.</b>

Thời gian môn học tuy ngắn ngủi, nhưng nhờ vào sự hướng dẫn tận tình của cơ Nguyễn Thị Như Ngọc mà em có thể hồn thành bài tiểu luận của bộ môn triết

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

học này. Em rất mong nhận được ý kiến và sự góp ý của cơ để bài tiểu luận này được thêm hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn!

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>I. Con người và bản chất con người:a) Khái niệm về con người:</b>

<b>Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất</b>

biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.

<b>1. Bản tính tự nhiên của con người:</b>

- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:

+<b>Thứ nhất: con người là kết quả của q trình tiến hóa và phát triển lâu dài của</b>

giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các lồi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>+ Thứ hai: con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự</b>

nhiên cũng "là thân thể vơ cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội lồi người, nó là mơi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi mơi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.

<b>2. Bản tính xã hội của con người:</b>

- Bản tính xã hội của con người được phân tích lừ các giác độ sau đây:

<b>+ Một là xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, lồi người khơng phải chỉ có</b>

nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà cịn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua lồi động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác -Lênin, nhờ đó có thể hồn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.

<b>+ Hai là xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của lồi người ln</b>

ln bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngồi mối quan hệ xà hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó.

 Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong q trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.

<b>b) Bản chất con người:</b>

<b>1. Con người là thực thể sinh học – xã hội:</b>

Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” . Điều đó có nghĩa rằng con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng khơng được tuyệt đối hóa điều đó. Khơng phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người,… đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên” . Về phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v… . Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hịa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.

Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” . Nếu con vật phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hình thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.

Trong hoạt động con người khơng chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà cịn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội lồi người”, con người khơng thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.

<b>2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân conngười:</b>

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Phoiơbắc đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, khơng có hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã khơng nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, ơng đã tuyệt đối hóa tình u giữa người với người. Hơn thế nữa, đó

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cũng khơng phải là tình u hiện thực mà là tình u đã được ơng lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội lồi người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.

<b>3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịchsử</b>

Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng khơng hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” . Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.

Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác định. Đó là tồn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội. Đó là những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên, tuân theo các q trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của mơi trường. Nó vừa tiếp nhận, thích nghi, hịa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.

Con người cũng tồn tại trong mơi trường xã hội. Chính nhờ mơi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Con người là

</div>

×