Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Hoàn thiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.86 MB, 113 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

HÀ TRỌNG BAC

QUAN TRI QUOC GIA HIEN DAI

LUẬN VAN THAC SĨ LUAT HOC

<small>Hà Nội - 2023</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ĐẠI HỌC QUOC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

HÀ TRỌNG BÁC

<small>Chuyên ngành: Quan trị nha nước và phòng, chống tham nhũng</small>

<small>Mã số: 8380101.09</small>

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh

<small>Hà Nội - 2023</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CAM ĐOAN

<small>Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các</small>

kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bat kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, vi dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tat cả các mơn học và đã thanh tốn tat cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại Học Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại Học Luật xem xét dé tơi có thé bảo vệ Luận văn.

<small>Tơi xin chân thành cảm ơn!</small>

NGƯỜI CAM ĐOAN

Hà Trọng Bắc

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>MỤC LỤC</small>

LOT CAM 8970908... ..35ồ... i

DANH MỤC CAC KÝ HIỆU, CÁC CHU VIET TẮTT...--- V

DANH MỤC CAC BANG, BAN DO, HÌNH VE, DO THỊ,... vi 987102525... :::ạ ... |

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VE PHAP LUAT ĐĂNG KY BIEN PHAP BAO DAM DAP UNG YÊU CAU QUAN TRI QUOC GIA HIỆN ĐẠI... 6

<small>1.1. Khái niỆm...--- 2111111111122 11 11H 1kg ng vn 6</small>

1.1.1. Khái niệm về đăng ký biện pháp bảo đảm và pháp luật về đăng ký biện

<small>pháp bảo đảm ... - --- G11 TH ng TH 6</small>

1.1.2. Khái niệm về quan trị quốc gia hiện đại...-- 2-52 5 s+zs>se2 10

1.2. Vai trò của pháp luật đăng ky biện pháp bảo dam trong quản trị quốc gia

<small>hiện ỞạI...--- 20211111111 112223011 1111 n ng ng HT ren 13</small>

1.2.1. Vai trò của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm trong thúc đây sự phát triỀn của QUOC gỉ a...---¿- ¿St SESE+ESESEESEEEE121121521111111215 11111111111 xe 13

1.2.2. Vai trò của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm trong việc giảm thiểu nguy cơ về tham nhđng...- 2-2-5 22522 E+EE£EE£EEEEEEEEEEEEEEEEEEE12E1 2E EEerkrei 17

1.2.3. Vai trị của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm trong bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức trong xã hỘIi...- -.-- + + ssveseersseree 18

1.3. Các nội dung, đặc điểm và yêu cầu của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm trong nên quản trị quốc gia hiện đại...-.-- 2-2 5 s2 s5: 20

1.3.1. Các nội dung pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm trong nền quản tri quéc 1A NIG Mad... ee ---1... 20

1.3.2. Đặc điểm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo dam trong nền quan trị quốc gia hiện đặi...--- +22 225E2SE+EE£EEEEEEEEEEE12112112112112717171. 1.1.1 xe. 24

1.3.3. Yêu cầu của nền quản trị quốc gia hiện đại đối với pháp luật về đăng ký

<small>biện pháp bảo đảm ... ..- - 6 + 1111911211 91191 H1 ng nh TH ghi ng nệt 29</small>

<small>li</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

1.4. Kinh nghiệm pháp luật quốc tế về đăng ký biện pháp bảo đảm và khả

<small>nang ap dung tai Viét Nam... ... 36</small>

1.4.1. Về pháp luật về đăng ký biện pháp bao đảm bang động san va bằng bat

<small>GONG SAN... ee ... 37</small>

1.4.2. Về đối tượng của đăng ký biện pháp bảo đảm...--- 5+: 37 1.4.3. Về cơ chế đăng ký biện pháp bảo đảm ...--2- 2-2 5 s+cxccseei 38

1.4.4. Về hệ thống các cơ quan thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm... 39

1.4.5. Đánh giá khả năng áp dụng pháp luật quốc tế về đăng ký biện pháp bảo

Tiểu kết Chương 1...- Ư2 2 2 E+SE+EEặEEặEEEEEE2E12E127171 7171.2121. xe, 44 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỊ HÀNH PHÁP

LUẬT VE ĐĂNG KÝ BIEN PHAP BAO DAM TẠI VIỆT NAM... 45

2.1. Quá trình hình thành, phát triển pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm

<small>đì 80 4120001777777 ...a.a... .ABạẰắI. sa 45</small>

<small>2.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc ...---- --- 6 +1 ng ng Hi 45</small>

2.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến may ...---Ư-2- 2+c++c++Exerxerkerkerrerreereee 46 2.2. Thực trạng pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm tại Việt Nam ... 48

2.2.2. Ton tại, hạn chế...--.-Ư--+22+++tttEEE t1... 51 2.2.3. Nguyên nhân của tồn tai, hạn chế...-- 2-2 2 s+zs++x+xz+zzzzzcxee 55

2.3. Thực trạng thi hành pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm tại Việt

<small>01... 56</small>

2.2.1. Kết quả dat QUOC ...--- Ư5S S< 212 2E 1E 191121121211111211 21.111 c0. 56 2.3.2. Tôn tại, hạn CỀ... -- tt SE+EEEEEESEEEEEESEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEETErErrerkskee 66

2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế...-- 2-2-2 s++++x+xz+xzzszcxee 73 Tiểu kết Chương 2... .-- 2 2 2 E+SE+EEặEEeEEEEEEEE121121127171 7171.11.11 1xeE 75 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUÁ

THỰC HIỆN PHAP LUẬT VE DANG KÝ BIEN PHÁP BẢO DAM ĐÁP

UNG YÊU CAU QUAN TRI QUOC GIA HIỆN ĐẠI ... 71

<small>1H</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm đáp nhăm ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại ...-- 2-2-2 + s+x£x+xzxeczsee 77

3.1.1. Thể chế hóa pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm đáp ứng nhu cầu

đăng ký trong thực tiỄn...-- ¿+ 2x52 2E St E2 1212121112111 211. 11111. crreg 77

3.1.2. Đồng bộ hệ thống pháp luật về bao đảm thực hiện nghĩa vụ va đăng ký

<small>bién phap AO daM ... cece a... 78</small>

3.1.3. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, chuyên đổi số của nền kinh té...79

3.1.4. Tăng cường tính cơng khai, minh bạch của tài sản thông qua hệ thống

<small>đăng ký biện pháp bảo đảm... .- ..-- - c1. E931 11 911 19119 11 1 ng vn S0</small>

3.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm .... 80 3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm ... 80 3.2.2. Đơn giản hóa quy trình, thủ tục về đăng ký biện pháp bảo đảm ... 87 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký biện pháp

3.3.1. Đổi mới về tô chức, hoạt động hệ thông cơ quan thực hiện cơng tác

<small>đăng ký biện pháp bảo đảm...- -ó- <5 + 119v 1 ng ng nnriệt s9</small>

3.3.2. Nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan, tổ

<small>chức hữu quan trong công tác đăng ký biện pháp bảo đảm... .- 91</small>

3.3.3. Xây dựng, triển khai Hệ thống thông tin cơ sở quốc gia về đăng ký biện

<small>PhApP DAO MAM 011 ... 91</small>

3.3.4. Tang cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về đăng ký biện

<small>pháp bảo đảm... - cv TH HH Thu TH nh HH nghệ 93</small>

3.3.5. Đổi mới hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về đăng ký biện

<small>pháp bảo đảm ...-- -- Gv HH TH HH 953.3.6. Xây dựng chức danh “Đăng ký viên” và tăng cường năng lực cho cáccán bộ đăng ký biện pháp bảo đảm _...- .- 55+ ‡S*++cssssssssss 96</small>

Tiểu kết Chương 3...--- 2 2 2+SE£SE£EEEEEEEEE2E121121121171 7171.21.2111. Xe, 98

.$ez000.907 7 . :::‹: ... 99

DANH MỤC TAI LIEU THAM KHAO ...---25- 52555: 101

<small>1V</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIET TAT

<small>STT Ký hiệu Nguyên nghĩa</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

DANH MỤC CAC BANG, BẢN DO, HÌNH VE, DO THỊ

Sơ đồ 2.1. Hệ thống các cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm tại Việt Nam

Bảng 2.4. Kết quả đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gan liền với đất giai đoạn 2019-2022 [4]...---¿--¿©-z+c+++zs+cxzzxees 61 Bảng 2.5. Kết quả đăng ký biện pháp bảo đảm băng tài sản là động sản khác

<small>[lai0iv020202ã10777. ... 62</small>

<small>VỊ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

MỞ ĐÀU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả đã trở thành tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tại Việt Nam, đây

được xem là nội dung quan trọng và mang tính cấp thiết, được đặt ra trong tiến trình xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đặc biệt, điều này càng cấp thiết hơn

khi Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế

-xã hội giai đoạn 2021-2030. Đây là thời điểm có ý nghĩa quan trọng, quyết định và tạo tiền dé dé Việt Nam thực hiện khát vọng đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Trong đó, trọng tâm là nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa gắn với việc cải cách thế chế pháp luật trên một số lĩnh vực nhằm tạo ra các bước đột phá dé bảo vệ tốt hơn lợi ich của

Nhà nước, quyên và lợi ich hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

ĐKBPBĐ là thiết chế pháp lý rất quan trọng hiện nay nham thúc day sự vận hành an toàn, minh bạch, công khai của tai san, cua nguồn vốn trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện ĐKBPBĐ không chỉ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm mà

<small>còn là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán</small>

trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và làm phát sinh giá trị pháp lý của giao dịch bảo đảm đối với người thứ ba. Nếu các thơng tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm được công khai, minh bạch

sẽ giúp cho các tổ chức, cá nhân có điều kiện dé nhận biết, đánh giá và phòng ngừa rủi ro khi nhận bảo đảm băng tài sản. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật

về ĐKBPBĐ là nhăm hoàn thiện thé chế pháp luật dân sự - kinh tế - hành chính, trên cơ sở tơn trọng quyền tự do giao kết, thực hiện hợp đồng của các

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

chủ thể trong xã hội và bảo đảm tính an tồn pháp lý cho các giao dịch là hết

sức cần thiết dé góp phần lành mạnh thị trường tài chính - tiền tệ, ngăn chặn

các hình vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là ngăn ngừa, phịng chống tham

nhũng cả trong khu vực cơng lẫn khu vực tư ở lĩnh vực tín dụng nói riêng và

ngăn ngừa những tác động tiêu cực đối với sự ổn định và phát triển môi

trường đầu tư ở Việt Nam nói chung. Chính điều này sẽ góp phần nâng cao

<small>hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản trị nhà nước hiện đại tại Việt Nam. Đặc</small>

biệt, trong giai đoạn hiện nay khi cơng tác về phịng, chống tham nhũng luôn

<small>được Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định là một trong những nhiệm vụ quan</small>

trọng, vừa cấp bách, vừa khó khăn, lâu dài, phức tạp thì việc hồn thiện quy định của pháp luật về đăng ký tài sản, về ĐKBPBĐ sẽ góp phần nâng cao

<small>hiệu quả của việc minh bạch hóa các tài sản, các giao dịch trong xã hội.</small>

Tuy nhiên, qua nghiên cứu, hiện nay các hệ thống pháp luật Việt Nam về DKBPBD cịn chưa được hồn thiện như: các quy định của pháp luật chưa

được pháp điển hóa trong một đạo luật; việc phân biệt thầm quyền đăng ký

giữa các cơ quan ĐKBPBĐ khiến cho người dân, doanh nghiệp gặp khơng ít khó khăn; việc xây dựng và vận hành Hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về BPBĐ vẫn chưa được triển khai, thực hiện; việc chuyên đôi số, ứng dụng

công nghệ số trong lĩnh vực ĐKBPBĐ cịn có nhiều nội dung chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đồng bộ, thống nhất, tính liên thơng, chia sẻ, kết nối cịn chưa cao;... Nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế này đó là việc hệ

thống pháp luật về ĐKBPBĐ chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu trong quản trị quốc gia hiện đại, đặc biệt là tính cơng khai, minh bạch và trách

<small>nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này. Chính vì vậy,</small>

điều này khiến cho hệ thống pháp luật về ĐKBPBĐ chưa thực sự đáp ứng

được nhu cầu đăng ký trong thực tiễn hiện nay, chưa đáp ứng được việc xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại và việc xây dựng, phát triển Chính phủ

<small>điện tử mà Việt Nam hướng tới.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Chính vì lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp

luật về đăng ký biện pháp bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện

đại” dé làm đề tài luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đề tài mà tác giả lựa chọn là một vấn đề mang tính thời sự, được nhiều nhà quản lý, nhà khoa học, các cá nhân và tô chức trong xã hội cũng như các

cơ quan báo chí quan tâm. Vấn đề nghiên cứu pháp luật về ĐKBPBĐ được đề

<small>cập trong các luận văn thạc sỹ, các cơng trình nghiên cứu khoa học, bài báo...</small>

trong nhiều năm qua, có thể liệt qua qua một số cơng trình như:

<small>- Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp (2021), Nội dung cơ bản của</small>

Nghị định số về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Số chuyên đề, Nhà xuất bản Tư

<small>pháp, Hà Nội;</small>

<small>- Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp (2021), Xây dung Nghị</small>

định số ve ĐKBPBĐ, Số chuyên đề, Nxb.Tu pháp, Hà Nội;

- TS.Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định cua Bộ luật Dân sự năm 2015, Sách chuyên khảo, Nxb.Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội;

<small>- Bùi Đức Giang (2017), Giao dịch bảo đảm nhìn từ quy định mới, Tạp</small>

chí Ngân hàng số 18, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;

<small>- Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp (2017), Hoàn thiện pháp</small>

luật về đăng ký tài sản, Số chuyên đề, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội;

- Tống Thị Thu Trang (2015), ĐKBPBĐ tiên vay theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;

- Trần Thu Hương (2015), Pháp luật về giao địch bảo đảm và thực tiễn

áp dung trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phan A

Châu, Luận văn Thạc sĩ Luật hoc, Khoa Luật - Dai hoc Quốc gia Hà Nội;

<small>- Phung Bá Dang (2011), DKBPBD va thứ tự uu tiên thanh toán khi xử</small>

<small>ly tài san bảo dam trong pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật hoc,</small>

<small>Trường Đại học Luật Hà Nội;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Tran Đông Tùng (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc mở rộng

phạm vi đăng ký và cung cấp thông tin về tinh trạng pháp lý của động san, Đề

tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Bộ Tư pháp.

Các dé tài nghiên cứu cũng trên đã cơ bản đề cập đến một số van dé bat

cập, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật về DKBPBD và những khó khăn,

vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực mà đề tài đó nghiên cứu, đóng góp một phần quan trọng cho quá trình nghiên cứu nhằm hoản thiện pháp luật về ĐKBPBĐ tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay,

chưa có bất kỳ một dé tài nào có sự nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật về

ĐKBPBĐ đặt trong mối quan hệ với quản tri nhà nước hiện đại, quản tri tốt.

Chính vì vậy dé tài mà tác gia lựa chọn có tính mới, hoan tồn khơng có sự

<small>trùng lặp với những cơng trình đã thực hiện nghiên cứu trước đây.</small>

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của Luận văn của tác giả là các vấn đề lý luận, pháp luật về ĐKBPBĐ, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật và hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan có thầm quyên trong thực tiễn

tại Việt Nam đặt trong mối quan hệ với quan tri tốt, quan tri quéc gia hién dai.

4. Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích mà tác giả hướng tới nghiên cứu đề tài là đưa ra một số giải pháp nham hoàn thiện các quy định của pháp luật về ĐKBPBĐ nhằm đáp ứng

quản tri quốc gia hiện đại trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam.

<small>5. Nhiệm vụ nghiên cứu</small>

Dé dat được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn của tác giả sẽ tập

trung vào nghiên cứu một số vấn đề như sau:

- Một số van dé lý luận chung về DKBPBD trong quản trị quốc gia hiệnđại; mối liên hệ giữa ĐKBPBĐ và quản trị quốc gia hiện đại; kinh nghiệmquốc tế về ĐKBPBĐ;

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

- Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng quy

định pháp luật về ĐKBPBĐ tại Việt Nam hiện nay;

- Giải pháp hoàn thiện pháp luật về DKBPBD nhằm đáp ứng quản trị

quốc gia hiện đại tại Việt Nam.

<small>6. Phương pháp nghiên cứu</small>

<small>Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện</small>

chứng và duy vật lich sử của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ

Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, bám sát đường lối, chủ trương của Đảng,

pháp luật của Nhà nước nhằm đảm bảo tính khoa học và thực tiễn của đề tài. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học thống kê, so sánh, phân tích dé tài thực hiện Luận văn này.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn được nghiên cứu một cách tổng quan có hệ thống các quy định của pháp luật về ĐKBPBĐ đặt trong mối quan hệ với quản trị quốc gia

<small>hiện đại, có giá trị tham khảo cho các nhà quản lý, nhà nghiên cứu cũng như</small>

các chủ thé tiến hành thực hiện các giao dịch dân sự có bảo đảm trên thị trường kinh tế hiện nay. Đặc biệt, việc hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung

và pháp luật về ĐKBPBĐ nói riêng sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu

quả của cơng tác quản trị quốc gia hiện đại của các cơ quan quản lý nhà nước. 8. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham

khảo, kết cau của Luận văn gồm ba Chương:

- Chương 1: Lý luận về pháp luật đăng ký biện pháp bao đảm đáp ứng yêu cầu quản tri quốc gia hiện đại

- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về đăng ký biện

<small>pháp bảo đảm tại Việt Nam</small>

<small>- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp</small>

luật về đăng ký biện pháp bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

CHUONG 1: LÝ LUẬN VE PHÁP LUAT ĐĂNG KÝ BIEN PHÁP BAO DAM ĐÁP UNG YÊU CÂU QUAN TRI QUOC GIA HIỆN ĐẠI

<small>1.1. Khai niém</small>

1.1.1. Khái niệm về đăng ky biện pháp bảo đảm va pháp luật về dang ký

<small>biện pháp bảo đảm</small>

Trong thời gian qua, tại Việt Nam, Nhà nước đã có nhiều đưa ra nhiều

giải pháp để đa dạng hóa các kênh và hình thức động viên nguồn lực nhằm

phát triển cho kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để có được một nguồn lực về vốn

được bền vững thì giải pháp cơ bản và lâu dài là phải thực hiện được việc

phát triển cũng như hoản thiện các công cụ tạo lập ra vốn thơng qua hoạt động của thị trường vốn. Vì lẽ đó, việc hồn thiện khung pháp lý về ĐKBPBĐ có ý nghĩa rất quan trọng, cần thiết trong việc mở rộng tín dụng một cách an tồn và hiệu quả. Trong thời gian qua, trước những yêu cầu của thực tiễn, pháp luật Việt Nam về ĐKBPBĐ đã ngày càng được hoàn thiện, tạo tiền đề quan trọng cho các cá nhân, doanh nghiệp thuận lợi trong việc tiếp cận với các

nguồn tín dụng và an tồn pháp lý trong giao dịch dân sự, kinh tế.

Theo quy định của pháp luật của các quốc gia theo hệ thống án lệ

như Mỹ, Canada, khái niệm giao dịch bảo đảm được hiểu là tồn bộ các

<small>giao dịch, khơng phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập</small>

một quyền lợi được bảo đảm đối với các tài sản riêng hoặc tải sản cô định, chang hạn như hang hóa, giấy tờ có giá hoặc các tài sản vơ hình khác,...; là

giao dịch được thiết lập thông qua một thỏa thuận bảo đảm (là thỏa thuận

trong đó quy định về hoặc tạo lập nên một lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ và

bên bảo đảm). Chính vì thế giao dịch bảo đảm theo khái niệm trong luật án

lệ không bị giới hạn về loại hình của giao dịch mà được xác định căn cứ

vào mục đích của việc thiết lập giao dịch. Do đó, các giao dịch bảo đảm

khơng chỉ gồm những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật dân

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

sự truyền thống, mà còn bao gồm cả các giao dịch khác như: bảo lưu quyền

sở hữu trong mua trả chậm, trả dần; chuyên nhượng quyên đòi nợ; quyền

cầm giữ; thuê tài sản... Đối tượng của các giao dịch này là các động sản,

bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vơ hình. Ở các nước theo trường phái

<small>pháp luật thành văn như Pháp, Đức, Nhật Bản lại khơng có khái niệm giao</small>

dịch bảo đảm như nêu trên, mà giao dịch bảo đảm được hiểu là các biện

pháp bảo đảm cụ thé như cam có, thế chấp, bảo lãnh. Các nội dung nay được quy định tập trung chủ yếu trong BLDS và các văn bản quy phạm

pháp luật hướng dẫn thi hành.

Hiện nay, trong khoa học pháp lý khái niệm về ĐKBPBĐ chủ yếu được hiểu là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch về dân sự - kinh tế. Mặc dù thiết chế ĐKBPBĐ tại Việt Nam ngày càng

phát triển, tuy nhiên từ góc nhìn của pháp lý thì vẫn chưa có một khái niệm cụ thé có thể định nghĩa cụ thể về ĐKBPBĐ. Tại Điều 292 BLDS năm

2015 đã bỏ điều khoản về định nghĩa “giao dich bảo đảm” và bổ sung thêm

hai biện pháp bảo đảm mới là “cầm giữ tài sản”, “bảo lưu quyền sở hữu tải

sản”. Tuy nhiên, chế định ĐKBPBĐ không phải là chế định mới mà đã

<small>được quy định tại BLDS năm 2005, nhưng khơng phải ở góc độ là một biện</small>

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ về dân sự. Ngoài ra, BLDS năm 2015 cũng đã quy định DKBPBD là một thiết chế đăng ký về “quyền” chứ không

chỉ là hình thức ghi nhận và thé hiện sự thỏa thuận của các chủ thé trong

<small>giao dịch dân sự có bảo đảm như BLDS năm 2005.</small>

Về lý luận, có nhiều cách hiểu cũng như định nghĩa khác nhau đối với thuật ngữ “đăng ký”. Trong Từ điển Tiếng Việt thì đăng ký được hiểu là ghỉ vào số của cơ quan quản lý để chính thức cơng nhận cho hưởng quyên lợi

hay làm nghĩa vụ [26, Tr34]. Theo cuốn Từ điển Luật học, đăng ký việc cam có là (cơ quan nhà nước có thẩm quyền) cơng nhận và chứng thực về phương diện pháp lý quan hệ dân sự được đảm bảo bằng tài sản cẩm cố.

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Đăng ký việc cẩm cố là một thủ tục được pháp luật quy định. Đối với tài sản

mà pháp luật quy định phải đăng ký quyên sở hữu, thì việc dùng tài sản đó

cam cơ dé bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sẽ phải được đăng ký tại cơ quan nhà

nước có thẩm quyền là thủ tục bắt buộc [27, Tr235]. Còn trong cuốn Từ điển

Giải thích thuật ngữ hành chính của Nhà xuất bản Lao động (xuất bản năm 2002) lại đưa ra định nghĩa khác: “Đăng ký: Thể thức ghi chép vào số sách

nhà nước đặt ra như: đăng ký kết hôn, đăng kỷ kinh doanh, đăng kỷ chứng khoan,... Những sự kiện được ghi chép vào số là không thé chối cãi được”

[24. Tr232]. Hiện nay, BLDS năm 2015 khơng cịn khái niệm cụ thé về giao dịch bảo đảm, tuy nhiên có thể hiểu giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự

được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện BPBĐ

thực hiện nghĩa vụ gồm: thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, đặt cọc, tín chấp và cam giữ tài sản. Như

vậy, có thể thay BPBD là một phương thức dé đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận giữa các bên trong giao kết hợp đồng.

Ngoài ra, trong hướng dẫn của Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại quốc tế (UNCITRAL) thì: “Giao dich bảo đảm được hiểu là giao dịch xác

lập các lợi ích bảo đảm. Mặc dù việc chuyển nhượng tuyệt đối khoản phải thu không bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên dé thuận tiện cho việc dẫn chiếu các giao dịch bảo đảm sẽ bao gom cả việc chuyển nhượng các khoản

<small>phải thu ” [51].</small>

Theo tác giả Hồ Quang Huy thì: “Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp ly được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo dam. Giao dich bảo đảm đã đăng ký có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể

từ thời điểm đăng ký. Việc đăng ký là điều kiện dé giao dịch bảo dam có hiệu lực

chỉ trong trường hợp pháp luật quy định và thông tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có thẩm quyên cung cấp là chứng cứ chứng minh quyển, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo dam đối với tài sản bảo dam” [23].

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022

của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm (sau đây gọi là Nghị định số

99/2022/NĐ-CP) quy định về khái niệm PKBPBD là việc cơ quan đăng ky

ghi, cập nhật vào Số đăng kỷ hoặc vào Cơ sở dit liệu về biện pháp bảo đảm về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình

hoặc của người khác hoặc đồng thời bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình

và của người khác đối với bên nhận bảo đảm.

Các định nghĩa nêu trên dù được diễn đạt theo nhiều cách thức khác nhau, nhưng có thé thấy nội hàm của hoạt động DKBPBD có đặc điểm như sau: (i) Đăng ký là hành vi ghi vào số của cơ quan nhà nước có thầm quyền; (ii) Dang ký làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người thực hiện đăng ký và (iii) Những thông tin được ghi vào số của cơ quan đăng ký có thâm quyên là

chứng cứ khách quan, khơng thê chối cãi.

Từ phân tích nêu trên, có thê hiéu DKBPBD là một thủ tục về pháp lý,

<small>được thực hiện theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc</small>

đăng ký sẽ chỉ là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong một số trường hop nhất định do pháp luật quy định và việc ĐKBPBĐ sẽ có giá trị pháp lý đối kháng với bên thứ ba kế từ thời điểm việc đăng ký được thực hiện.

Trong khoa học pháp lý, đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái

niệm pháp luật. Theo GS.Lé Minh Tâm, “Khái niệm pháp luật có thể được

hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp tùy theo yêu câu tiếp cận và giải quyết

vấn dé. Theo nghĩa hẹp, pháp luật là tổng thé các quy tắc xử sự do các cơ quan nhà nước có thẩm quyén ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước và phản ảnh những nhu cau xã hội khách quan, điển hình, pho biến dé điều chỉnh các quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội” [37,Tr10], nghĩa là pháp luật chi bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật thực

<small>định nên còn được gọi là pháp luật thực định. Theo nghĩa rộng, “Pháp luật</small>

là tổng thể các quy tắc xử sự và các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyên ban hành và bảo đảm thực

hiện, thể hiện y chí nhà nước và phản ảnh những nhu cẩu xã hội khách

quan, điển hình, phổ biến để điều chính các quan hệ trên các lĩnh vực của

đời sống xã hội ” [37,Tr11]. Theo đó, khái niệm pháp luật bao gồm cả những

van dé có tính khái quát, trừu tượng hơn thể hiện bản chất của pháp luật và có tính định hướng cho sự tồn tại cũng như phát triển của pháp luật. Trong đó, nguyên tắc pháp luật là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật; định hướng pháp luật là yếu tố

trung gian giữa nguyên tắc pháp luật và quy phạm pháp luật, thể hiện các chính sách, giải pháp lớn, quan trọng trong một thời gian tương đối dài. Còn mục đích pháp luật thé hiện tính hợp ly và hợp pháp của pháp luật trong phản ánh những nhu cầu khách quan, điển hình, phổ biến, có tính cơng lý và

điều chỉnh một cách hài hòa, hiệu quả các quan hệ xã hội nhằm hướng tới những giá trị xã hội lớn: dân chủ, cơng bằng, bình đăng, minh bạch, cơng khai, tiền bộ...

Từ phân tích nêu trên, có thê hiểu pháp luật về ĐKBPBĐ là một lĩnh

vực pháp luật trong hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật về DKBPBD do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các giao dịch, hợp đồng có bảo dam.

1.1.2. Khái niệm về quản trị quốc gia hiện đại

Thuật ngữ về “Quản trị” được sử dụng phô biến trong khoa học xã hội

từ những năm 1990. Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về khái niệm

này, tuy nhiên có thé liệt kê hai khái niệm có anh hưởng rộng rãi nhất được ghi nhận. Theo Ngân hàng thế giới (World Bank): “Quản trị được hiểu là cách thức mà quyền lực được thực thi thơng qua các thiết chế như chính trị,

kinh tế, xã hội của một quốc gia” [50]. Con theo định nghĩa của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development Programm): “Quản trị được hiểu là việc thực thi quyên lực chính trị, hành chính, kinh tế để quản

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

lý những vấn dé của quốc gia ở mọi cấp độ. Nó sẽ bao gơm các cơ chế, quy

trình, thiết chế mà thơng qua đó các cơng dân và các nhóm biểu thị sự quan

tâm và thực hiện những quyên hợp pháp và nghĩa vụ của mình cũng như cho

thấy sự khác biệt của họ” [48].

Thuật ngữ “Quản trị quốc gia” lần đầu tiên xuất hiện tại Nghị quyết Đại

hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng

hiện đại, cạnh tranh hiệu qua” [15]. Hiện nay, xu hướng quan tri quốc gia hiện đại sẽ dẫn tới sự xác định lại một cách sâu sắc vai trị của nhà nước trong đời

sơng xã hội, trong đó nhà nước chỉ là một chủ thé trong số nhiều chủ thé khác

cùng tham gia thiết lập các quy tắc trị chơi, tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề có tính tập thể. Các van đề có tính lợi ích chung khơng cịn là quyền hạn và trách nhiệm duy nhất của nhà nước mà đòi hỏi sự tham gia của các chủ thể đến

từ xã hội. Xu hướng chuyên sang quản trị cũng đòi hỏi nhà nước phải tập trung lại vào những nhiệm vụ mà nhà nước là chủ thể duy nhất có thể đảm nhận,

đồng thời dẫn đến phi tập trung hố, hay phân quyền hành chính trong tổ chức

và hoạt động của bộ máy nhà nước. Phân quyên và tự quản địa phương được xem như là một thành tố không thể thiếu của tổ chức nhà nước hiện nay, được

nhiều thé chế và tô chức quốc tế xem như là công cụ then chốt của “quan trị tốt”, “quản trị quốc gia hiện đại”. Có thê thấy rằng sự biến đổi của nhà nước

dưới sự tác động của xu hướng chuyền dịch tự quản lý sang quản trị được thê hiện ở các nội dung như chủ thể quản lý xã hội; phạm vi quản lý xã hội; các thức quản trị. Cụ thé như sau:

Thứ nhất, quan ly nhà nước tạo ra một hệ thong quan liéu cong kênh, chi phí cao và tiềm an nhiều rủi ro tham những

Hiện nay, tốc độ thay đổi của thực tiễn cuộc sống ngày cảng nhanh

<small>chóng và mạnh mẽ hơn, một bộ máy hanh chính mạnh mẽ nhưng chậm cập</small>

nhật sẽ rất nhanh trở nên tụt hậu và không đáp ứng được các yêu cau của thời

<small>đại mới. Do đó, cân thiệt phải có sự tham gia của chính các thiệt chê ngồi</small>

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

nhà nước năng động hơn vốn đang chịu sự quản lý vào quá trình thực hiện các

chức năng nhà nước. Mạng lưới và đa dạng hóa mơ hình quản trị nhằm đạt

được hiệu quả chính trị trong điều kiện sự phức tạp ngày càng tăng. Hiện nay

tại Việt Nam, Nhà nước đã và đang khuyến khích người dân, doanh nghiệp....

tăng cường tham gia đóng góp các ý kiến trong quá trình sửa đổi, bố sung các

quy định của pháp luật, chính sách của nhà nước. Ngồi ra, có thé thay Nha

nước đã xây dựng được một thiết chế quan trọng trong việc tiếp nhận các

phan ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp,... đối với các cơ chế, chính

sách, thủ tục hành chính,... liên quan đến những hoạt động kinh doanh thuộc

<small>phạm vi quan lý cua nha nước.</small>

Thứ hai, tang cường chuyển dich mơ hình cung cấp dịch từ khu vực

<small>công sang khu vực tw</small>

Việc tạo ra một hệ thơng mang tính hợp tác rộng rãi như vậy đồng thời làm giảm chỉ phí đối với xã hội và cơng quỹ, trong khi đó lại gia tăng hiệu quả

điều phối và khai thác, sử dụng các tài nguyên và nguồn lực của xã hội. Điều

nay được thê hiện rõ nét ở Việt Nam thông qua việc một số dịch vụ công đang

được nhà nước giao cho các đơn vị sự nghiệp công lập; nhà nước thoái vốn tại

<small>các doanh nghiệp nhà nước và chỉ thực hiện các hoạt động kinh doanh phi lợi</small>

nhuận nhăm phục vụ lợi ích của cộng đồng (những ngành nghề mà khơng có

doanh nghiệp nào thực hiện do khơng có lợi nhuận, hoặc lợi nhuận thấp). .

<small>Thứ ba, tăng cường tính cơng khai, minh bạch, trách nhiệm giảitrình của cơ quan nhà nước</small>

<small>Sự tham gia sâu cua tư nhân trong quá trình thực hiện các mục tiêu</small>

chung của xã hội giúp thúc đây dân chủ: một mặt nó giúp phản ánh/truyền đạt nhanh chóng và đầy đủ hơn hơn nguyện vọng của người dân, mặt khác tự

thân có thể sớm đáp ứng được những nguyện vọng đó thơng qua quá trình tự điều chỉnh được điều khiển bởi các quy luật xã hội khách quan. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, Nhà nước đã quan tâm hơn nhiều đến vấn đề công khai,

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

trách nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vi, cá nhân có thâm qun; chang

hạn Luật Phịng, chống tham những năm 2018 quy định về các nội dung công

khai, minh bạch là một trong những biện pháp của công tác phịng, chống

tham nhũng; Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được giao;... Theo các quy định này, Nhà nước đã khuyến khích người dân, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp...

<small>tích cực, chủ động và tăng cường tham gia vào quá trình quản lý nhà nướcthông qua việc giám sát hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức;</small>

việc triển khai các hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương với địa phương giữa cấp tỉnh với cấp huyện, giữa cấp huyện với cấp xã được Nhà nước ta đây

mạnh ngày càng thể hiện xu thế dịch chuyên từ quản lý sang quản trị nhà nước nhiều hơn.

Từ những nội dung nêu trên, có thé hiểu quản trị quốc gia hiện dai là

những cách thức thực thi quyền lực dé quản lý những van dé chung của quốc gia. T. rong đó nhà nước huy động sự tham gia của các chủ thể khác

trong xã hội (công dân, tổ chức xã hội, doanh nghiệp,...) trong quá trình quan lý các vẫn dé của quốc gia.

<small>1.2. Vai trò của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm trong quản trị</small>

quốc gia hiện đại

Vai trò của pháp luật ĐKBPBĐ được thé hiện ở những khía cạnh khác nhau tương ứng với mỗi chủ thé trong xã hội, vì mỗi chủ thê đều có những mục đích khác nhau khi tham gia các quan hệ trong giao dịch, cụ thê như sau:

1.2.1. Vai trò của pháp luật đăng ký biện pháp bao dam trong thúc đẩy sự

phát triển của quốc gia

Một là, góp phan nâng cao hiệu quả và hiệu lực trong quan lý nhà nước

Hiện nay, sự phát triển của hệ thống ĐKBPBĐ là một trong những yếu

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tố thúc đây sự phát triển chung của nên kinh tế - xã hội và ngược lại khi nền

kinh tế - xã hội càng phát triển đòi hỏi hệ thống này phải ngày càng hiện đại,

khoa học dé đảm bảo sự công khai, minh bạch của tài sản. Trong quá trình phát

triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang

<small>hướng tới, việc minh bạch, cơng khai tình trạng pháp lý của tài sản sẽ là cơ sở</small>

quan trọng để các cơ quan nhà nước có thé thực hiện tốt được hoạt động quản

tr quéc gia cua minh, boi 1é nếu việc DKBPBD được thực hiện một cách minh

<small>bạch, chính xác, nhanh chóng với các chi phí đăng ký hợp lý thì các chi phí</small>

giao dịch (thời gian, cơng sức,...) trong xã hội sẽ ở mức thấp, nhờ đó sự cạnh tranh của nền kinh tế tăng cao, thúc đây sự phát triển của xã hội. Đặc biệt, trên cơ sở kết quả từ hệ thong DKBPBD các cơ quan quản lý nhà nước sẽ có các thơng tin cần thiết nhằm mục tiêu phục vụ cho q trình hoạch định những

chính sách vĩ mơ. Đặc biệt là các chính sách liên quan trực tiếp đến các hoạt động đảm bảo về an tồn tín dụng: có căn cứ để hoạch chính sách phát triển và bình ổn thị trường tài sản, thu thuế mua bán, chuyền nhượng tai sản,... Do tính chất đặc thù của BĐS việc quản lý chặt chẽ loại tài sản này là nhu cầu tối quan

<small>trọng của Nhà nước và một trong những phương thức hữu hiệu, quan trọng</small>

nhất là ban hành và thực thi chế độ đăng ký tài sản. Từ dữ liệu ĐKBPBĐ, Nhà nước có cơ sở dé thực hiện các chính sách về thuế, phí, lệ phí; thu hồi, bồi thường, tái định cư khi thu hồi dat; đồng thời, việc đăng ký được thực hiện tốt, chính xác có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng của Tòa án khi có

tranh chấp phát sinh.

Hai là, mở ra một kênh huy động von cho các cá nhân và tổ chức trong xã hội, đặc biệt là các tổ chức tín dụng

Trong các giao dịch về dân sự, người có quyền luôn quan tâm đến khả

năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Vì vậy, các quy định về

PKBPBD được ban hành nhằm mục dich bảo vệ cho người có quyền dé đảm

<small>bao sự hài hịa, ơn định trong quan hệ vê dân sự. Đặc biệt ở lĩnh vực về tín</small>

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

dụng, hoạt động DKBPBD sẽ tác động rất lớn đến việc thực hiện cấp tín

dụng của các tơ chức tín dụng thơng qua các thơng tin cơng khai về tình

trạng pháp lý của tài san dùng dé bảo đảm. Thông qua các thơng tin này, tổ chức tín dụng sẽ có cơ sở để đah giá, phân tích mức độ rủi ro của các giao dịch mà họ sẽ ký kết. Điều này được xem là cơ sở quan trọng trong việc đưa

ra quyết định về tài trợ vốn đúng đắn. Như vậy, bên cạnh việc bảo vệ người

có qun thì thông qua hoạt động ĐKBPBĐ đã mở ra cơ hội đầu tư trong xã hội thông qua việc mở rộng các cơ hội tiếp cận tín dụng cho các cá nhân, tơ

chức. Do đó, việc tiếp cận cũng như sử dụng các thơng tin về tình trạng pháp lý của tài sản bao đảm chính là một nhu cầu quan trọng mang tính tất yêu của các nhà đầu tư ở trong thị trường kinh doanh với nền tài chính thông minh, hiện đại. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra hiện nay là cơ chế nào sẽ là hữu

hiệu cho việc thực hiện công khai, minh bạch các thơng tin về tình trạng pháp lý của tài sản đang được dùng nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.

Hiện nay, hệ thống pháp luật của các quốc gia đều hướng tới việc xây

<small>dựng một quy trình, thủ tục ĐKBPBĐ bảo đảm đơn giản, thuận tiện, giảm</small>

bớt các thủ tục hành chính dé các cá nhân, tơ chức có thé dé dàng thực hiện

<small>khi DKBPBD. Bên cạnh đó, việc ứng dụng mạnh mẽ cơng nghệ thơng tin,</small>

trao đổi tình trạng pháp lý tài sản bảo đảm giữa các cơ quan nhà nước có thâm quyền đang ngày càng được đây mạnh, điều này giúp cho công tác

ĐKBPBĐ ngày một phát triển hơn, đặc biệt góp phan nâng cao chất lượng trên thị trường tín dụng cũng như sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Thông qua cơ chế ĐKBPBĐ, các tai sản có giá trị lớn, đặc biệt là BĐS sẽ

được lập hồ sơ chỉ tiết như lý lịch của một cá nhân và như vậy sẽ tăng cường

tính minh bạch, cơng khai của tài sản, từ đó cá nhân, tơ chức có khả năng tiếp cận lịch sử, đặc điểm, tính chất pháp lý của tài sản và có đầy đủ cơ sở để

<small>xem xét, quyét định việc tham gia các giao dich dân sự liên quan đên tai sản.</small>

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Đặc biệt, khi hệ thống pháp luật về ĐKBPBĐ quy định chặt chẽ về đăng ký chuyển quyền thì sẽ tạo thêm một kênh huy động vốn cho cá nhân, tô chức. Đồng thời, việc ĐKBPBĐ sẽ tạo điều kiện để khắc phục thiệt hại cho bên có quyền hiệu quả, nhanh chóng. Đối với các tổ chức tín dụng, thiết chế ĐKBPBĐ giữ vai trò trung tâm trong việc mở rộng thị trường vay vốn, tin dụng cho nên kinh tế. Điều nay được thể hiện thông qua hoạt động tiếp cận

tín dụng của cá nhân, tơ chức trong xã hội. Mặt khác, việc thực hiện

ĐKBPBĐ giúp cho tơ chức tín dụng có thé thực hiện cơ chế theo đõi hoạt động của cá nhân, tô chức vay vốn và đặc biệt nó tạo ra quyền ưu tiên cho tổ chức tin dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức vay vốn lâm vào tinh trang

<small>phá sản. Như vậy, việc xác lập các giao dịch dân sự có ĐKBPBĐ sẽ góp</small>

phần vào sự ơn định của quan hệ dân sự - kinh tế; tránh được các tranh chấp

<small>từ việc thực hiện không đúng hoặc không thực hiện.</small>

Ba là, công khai thông tin về giao dich bảo đảm đã được đăng ky

Bên cạnh sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động cho vay có bảo

đảm sẽ ngày một mở rộng hơn nữa về mức độ cũng như phương thức thực

hiện. Đặc biệt, hiện nay nhu cầu về đảm bảo sự an toàn trong pháp lý cho

các chủ thé khi họ thực hiện giao dịch cũng ngày một được quan tâm hơn. Trong một kinh tế đang ngày càng phức tạp thì việc thực hiện cơng khai, minh bạch các thơng tin về tình trạng pháp lý của tài sản sẽ có ý nghĩa thực

sự quan trọng, là cơ sở dé góp phan giúp cho thị trường tài chính được thơng thống, minh thị. Điều nay cũng sẽ góp phan giảm thiêu các tiêu cực đến sự

phát triển của môi trường đầu tư trong kinh doanh. Có thé thấy, việc thưc

hiện cung cấp thông tin luôn được xem là mục tiêu quan trọng của tất cả các hệ thống ĐKBPBĐ trên thé giới. Vì 1é đó thơng tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm khi đã được đăng ky tại các cơ quan có thầm quyền sẽ ln

<small>được cung câp công khai cho các cá nhân, tô chức khi họ có u câu.</small>

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<small>1.2.2. Vai trị của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm trong việc giảm</small>

thiểu nguy cơ về tham những

Quản trị tốt và chống tham nhũng cùng có tác động tích cực đến sự phát triển và ồn định của các quốc gia. Hiện tại có một sự đồng thuận ngày càng tăng giữa các học giả và các nhà hoạch định chính sách rằng quản trị tốt cung cấp nền móng thượng tầng cho sự phát triển kinh tế [20, Tr59], trong khi

phịng chống tham nhũng góp phần củng cố nền móng ấy. Nhờ có những bộ tiêu chí đánh giá, hiện nay các nhà nghiên cứu đã có thé xác định được sự tác

động tích cực đó. Thơng qua cơ chế ĐKBPBĐ, tai sản trong giao dịch của các

chủ thé trong xã hội được công khai, minh bạch về nguồn sốc, thơng tin; từ

đó giúp cho các chủ thể có liên quan quyết định việc lựa chọn ký kết giao

dịch. Từ đó, góp phần tạo ra một thị trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh, bền

vững, gia tăng khả năng cạnh tranh kinh tế của quốc gia; góp phần gia tăng

kiêm sốt tham nhũng và hiệu quả chống tham nhũng.

Việc thực hiện cơ chế DKBPBD cũng sẽ góp phan quan trọng trong

cơng tác phịng, chống tham nhũng, phù hợp với mục tiêu, quan điểm và đường lối chỉ đạo của Đảng ta hiện nay về cơng tác phịng, chống tham nhũng. Đặc biệt, trước đây các vụ việc nổi cộm như biệt phủ của ông Phạm Sỹ Quý ở Yên Bái, biệt phủ của Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Tri, bà Quỳnh Anh ở Thanh Hóa,... chưa đặt ra vấn đề tài sản đó

được đăng ký như thế nào? Chế độ công khai về thông tin của tài sản đã đầy đủ chưa? Cách thức cơ quan của Đảng, Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát như thế nào? Hiện nay, theo quy định của Đảng, hàng năm các đảng viên

phải kê khai tài sản và đối với những tài sản có giá trị hơn 50 triệu đồng cần giải trình rõ nguồn gốc hình thành. Tuy nhiên, việc kê khai đó khơng được cơng khai và nếu các quy định về kê khai tài sản được luật hóa qua chế độ đăng ký và cơng khai sẽ là bước phát triển mang tính đột phá nhằm khắc phục, hạn chế tình trạng tham nhũng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cần phải

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

khăng định rằng, ĐKBPBĐ sẽ luôn là công cụ hữu hiệu cho việc xây dựng

nên thị trường tín dụng cơng khai và minh bạch. Sở dĩ Việt Nam có chỉ số

<small>minh bạch của thị trường BĐS vào thuộc nhóm “bán minh bạch” </small>

(Semi-transparent) sau một thập kỷ (xếp hạng 52/94) [1] là do các giao dịch

“ngầm” diễn ra cịn sơi động hơn so với các hoạt động chính thức trên các sàn giao dịch BĐS. Khi thiếu thông tin về BĐS thì nhà đầu tư sẽ khơng n

<small>tâm thực hiện giao dịch vì sợ bị lừa đảo.</small>

Mặc dù, khi thực hiện chế độ đăng ký tài sản và công khai sẽ có ảnh

hưởng nhất định đến quyền riêng tư của cá nhân. Nhưng có thể thấy trong điều kiện hiện nay, việc thực hiện công khai, minh bạch trong cơng tác đăng ký tài sản nói chung cũng như ĐKBPBĐ nói riêng là rất quan trọng, đây là cơ sở quan trong dé phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế và cơng tác

phịng, chống tham nhũng của đất nước.

1.2.3. Vai trò của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm trong bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức trong xã hội

Thứ nhất, doi với bên nhận bảo dam

Hiện nay, tại Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho rằng việc ĐKBPBĐ sẽ là cơ sở quan trọng để tăng thêm quyền lợi cho

bên nhận bảo đảm đối với người thứ ba và các chủ thể khác muốn xác lập giao dịch liên quan đến tài sản đã đăng ký. Theo đó, khi đã thực hiện việc PKBPBD thì bên nhận bảo đảm sẽ có quyền truy đòi tài sản bảo đảm nếu bên

bảo đảm thực hiện việc bán, cho thuê,... tài sản bảo đảm. Về nguyên tắc chủ thể nào thực hiện đăng ký trước hoặc hồn thiện lợi ích bảo đảm trước thì sẽ

có quyền được ưu tiên trước. Điều này có nghĩa, khi thực hiện việc DKBPBD

này sẽ giúp cho bên nhận bảo đảm có được một sự ưu tiên nhất định trong q

<small>trình thực hiện việc thanh tốn tài sản bảo đảm so với các chủ nợ khác. Đặc</small>

biệt, khi tài sản được sử dụng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ khác nhau thì thứ tự ưu tiên sẽ được căn cứ theo thời điểm thực hiện việc ĐKBPBĐ. Do đó,

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

có thé thấy bên nhận bảo đảm nếu DKBPBD hoặc nam giữ tài sản bảo đảm sẽ

<small>có được cơ hội ưu tiên khi thanh tốn.</small>

Thứ hai, đối với bên bảo đảm

<small>Cơng tác DKBPBD không chi đặt ra với bên nhận bao đảm mà cịn quan</small>

trọng và có ý nghĩa đối với bên bảo đảm trong quan hệ giao dịch dân sự. Bởi vi, một trong các yêu cầu quan trọng được đặt ra của đời sống kinh tế - xã hội

đó là việc dùng tài sản dé bao đảm dé thực hiện nghĩa vụ mà không làm được ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất và kinh doanh của bên bảo đảm trong giao dịch dân sự. Như vậy, nếu bên bảo đảm tiếp tục được sử dụng các tải sản bảo đảm đó thì họ sẽ được khai thác các nguồn lợi trực tiếp từ tài sản và sử

dụng nguồn lợi đó dé tiếp tục sản xuất, kinh doanh. Chính nguồn lợi thu được

<small>thông qua hoạt động khai thác tài sản bảo đảm này sẽ giúp cho bên nhận bảo</small>

đảm từng bước thu hồi được nguồn vốn cho mình. Từ đó thực hiện tái đầu tư

và thanh tốn được nợ cho bên nhận bảo đảm. Chính vì thế nếu phải thực hiện

<small>việc giao tài sản bao đảm cho bên nhận bảo đảm hoặc cho người thứ ba giữ thì</small>

các hoạt động sản xuất, kinh doanh của bên bảo đảm sẽ bị trì trệ. Điều này là đi ngược lại với mục tiêu của một hệ thống giao dịch bảo đảm hiện đại là vừa

giúp các giao dịch được an toàn, vừa thúc đây sự phát triển tài sản cũng như góp phan giúp cho nền kinh tế hiện đại được phát triển.

Thứ ba, đối với chủ thể khác có liên quan

Trong hệ thống DKBPBD hiện đại, việc cơng khai thông tin về tài sản

bảo đảm luôn là mục tiêu hàng đầu. Vì nhờ đó mà bên thứ ba trong giao dịch sẽ đánh giá và phòng ngừa rủi ro cho chính bản thân mình. Dữ liệu về tình

<small>trạng pháp lý của tài sản bảo đảm sẽ là thông tin quan trọng giúp cho các cá</small>

nhân, tô chức có liên quan đánh giá được sự tỒn tại về quyền của bên nhận

bao đảm đối với tài sản đó. Do đó, thơng qua hệ thong DKBPBD nay sẽ góp phan giúp cho cá nhân, tổ chức đạt được mục tiêu đó thơng qua các thơng tin được cung cấp cơng khai khi có u cầu. Chính từ đó, các rủi ro pháp lý sẽ

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

được giảm thiểu một cách tối đa, đặc biệt là đối với các trường hợp tải sản

bảo đảm vẫn do bên bảo đảm chiếm giữ, khai thác. Chắng hạn, khi quyết

định mua một ngôi nhà mà biết được ngôi nhà đó đã đang được dùng để thế

chấp thơng qua hệ thống ĐKBPBĐ, vậy chủ thé phải cân nhắc: nếu mua thì phải có sự đồng ý của bên nhận thế chấp và phải làm giải chấp (xóa đăng ký)

đối với ngơi nhà đó. Như vậy, các thơng tin về tài sản giao dịch là điều kiện

quan trọng dé bảo đảm lợi ích cho bên có trong giao dich. Có thé khang định, việc cơng khai hóa các giao dịch bảo đảm là thực sự rất cần thiết và ĐKBPBĐ là một trong những thiết chế tích cực hỗ trợ sự vận hành của nền kinh tế.

Với các nội dung nêu trên có thé thay DKBPBD có ý nghĩa làm phát sinh giá trị pháp lý của giao dịch đối với người thứ ba, qua đó giúp các hợp đồng dân sự, kinh doanh, thương mại được ký kết, thực hiện hiệu quả, an toàn

và giúp nền kinh tế đất nước phát triển bền vững, 6n định. Đồng thời, thơng qua ĐKBPBĐ, quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến tai sản bảo đảm của

người dân, doanh nghiệp được bảo vệ do có đủ thơng tin để tra cứu, tìm hiểu

trước khi xem xét, quyết định việc ký hợp đồng, cũng như xác định được thứ tự

<small>ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm và là chứng cứ khi Tòa án giải</small>

quyết các tranh chấp về tài sản bảo đảm.

1.3. Các nội dung, đặc điểm và yêu cầu của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm trong nền quản trị quốc gia hiện đại

1.3.1. Các nội dung pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm trong nền

quản trị quốc gia hiện đại

Thứ nhất, về đối tượng của đăng ký biện pháp bảo đảm

Hiện nay, pháp luật về ĐKBPBĐ quy định các trường hợp đăng ký gồm: (i) Đăng ký thé chấp tài sản, cầm có tai sản, bảo lưu quyền sở hữu theo

<small>quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan; (ii) Dang ky theo thỏa thuận</small>

giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm hoặc theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, trừ cầm giữ tài san; (iii) Dang ký thông báo xử lý tài sản bảo đảm trong

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

trường hợp một tài sản được dùng dé bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ mà có

nhiều bên cùng nhận bảo đảm hoặc trong trường hợp bên bảo đảm và bên

nhận bảo đảm có thỏa thuận; (iv) Đăng ký thay đổi nội dung đã được đăng ky;

<small>xóa đăng ký nội dung đã được đăng ký.</small>

Thứ hai, về cơ chế đăng ký biện pháp bảo dam

<small>Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc ĐKBPBĐ của Việt Nam</small>

hiện đang được thực hiện theo một trong hai nguyên tắc sau đây:

(i) Một là, nguyên tắc đăng ký xác minh

Nguyên tắc đăng ký xác minh được hiểu là một nguyên tắc đăng ký, theo đó cơ quan ĐKBPBĐ sẽ thực hiện việc kiểm tra, đối chiếu hợp đồng bảo đảm, các giấy tờ kèm theo trong hồ sơ đăng ký, cũng như các thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng ký. Nguyên tắc đăng ký này được quy định tại khoản

3 Điều 5 Nghị định số 99/2022/NĐ-CP và được áp dụng ĐKBPBĐ đối với một số tài sản như quyền sử dụng đất, tàu bay, tàu biển.

Áp dụng nguyên tắc này, sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký hợp lệ, cơ quan ĐKBPBĐ có thâm quyền sẽ thực hiện các bước sau đây: Kiểm tra về thâm quyền thực hiện việc đăng ký; kiểm tra về nội dung thỏa thuận của các

chủ thé trong hợp đồng bảo đảm; đối chiếu nội dung trong hợp đồng bảo đảm với thông tin được kê khai trong Phiếu yêu cầu đăng ký và thông tin được cơ quan DKBPBD lưu giữ; chứng nhận Phiếu yêu cầu đăng ký, chỉnh lý hồ sơ gốc nếu không thuộc các trường hợp từ chối thực hiện đăng ký. Có thé thấy, ưu

điểm của nguyên tắc đăng ký xác minh là: (i) Các thủ tục đăng ky được thực

<small>hiện theo quy trình chặt chẽ; (ii) Tài sản bảo đảm đăng ký được cơ quan đăng</small>

ký có thẩm quyền xác minh, đảm bảo được tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, với nguyên tắc đăng ký xác minh thì việc đăng ký sẽ mất

nhiều thời gian hơn, do cơ quan đăng ký phải thực hiện nhiều nghiệp vụ để kiểm tra, xác minh về thực trạng pháp lý của tài sản bảo đảm; bộ máy của cơ

quan đăng ký công kénh tại nhiều cơ quan khác nhau.

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

(ii) Hai là, nguyên tắc đăng ký thông báo

Nguyên tắc đăng ký thông báo là nguyên tắc mà cơ quan ĐKBPBĐ có

thâm quyền đăng ký chỉ ghi nhận những thơng tin cơ bản (bên bảo đảm, bên

nhận bảo đảm và tài sản bảo đảm) được kê khai trong đơn yêu cầu đăng ký,

mà không kiểm tra, đối chiếu tính hợp pháp, tính xác thực của thơng tin được kê khai. Nguyên tắc này được quy định trong khoản 2 và khoản 5 5 Điều 5 Nghị định số 99/2022/NĐ-CP.

Áp dụng nguyên tắc này, người yêu cầu đăng ký chỉ cần nộp Phiếu yêu cầu đăng ký, giấy ủy quyền (nếu có), mà khơng phải nộp bat kỳ một tài liệu, giấy tờ nào khác. Sau khi nhận Phiếu yêu cầu đăng ký hợp lệ, cán bộ làm công tác đăng ký không phải thực hiện các thao tác nhằm kiểm tra nội dung, tính hợp pháp và xác thực của những thông tin được kê khai trong Phiếu yêu

cầu đăng ký. Có thể thấy, ưu điểm của ngun tắc đăng ký thơng báo là:

(i) Đơn giản hóa các thủ tục hành chính và hồ sơ đăng ky;

(ii) Việc đăng ký được thực hiện một cách nhanh chóng va tiết kiệm

<small>chi phí cho các bên tham gia giao dịch;</small>

(iii) Bộ máy hoạt động của co quan DKBPBD cũng như hệ thống lưu

<small>trữ thông tin và tài liệu đăng ký đơn giản, gọn nhẹ.</small>

Tuy nhiên, với nguyên tắc đăng ký thơng báo thì người đăng ký sẽ phải chịu hồn tồn trách nhiệm về tính chính xác của các thơng tin do mình đăng ký với cơ quan đăng ký theo quy định tại khoản 2, 5 Điều 5 Nghị định số số 99/2022/NĐ-CP. Pháp luật quy định về việc người đăng ký phải chịu

trách nhiệm khi ĐKBPBĐ bởi lẽ số lượng tài sản là động sản hiện nay trong xã hội là rất nhiều, di chuyền liên tục và khơng có cơ sở dé đặc định được (trừ một số tài sản nhất định như ô tô, xe máy,...) nên việc cơ quan quản lý nhà

nước kiểm sốt về tình trạng pháp lý của tài sản là tương đối khó. Vì vậy, người ĐKBPBĐ đối với động sản phải tự chịu trách nhiệm về việc kê khai

thông tin của tài sản là phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam hiện nay.

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Thứ ba, về hệ thông các cơ quan thực hiện ĐKBPBĐ

Tại Việt Nam, hệ thống cơ quan ĐKBPBĐ được thực hiện theo mơ

hình phân tán với năm mơ hình tơ chức, cụ thé:

- Đối với tài san bảo đảm là tàu bay do Cục Hang không Việt Nam

thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về

- Đối với tai san bảo đảm là tàu biển do Cục Hàng hải Việt Nam hoặc

Chi cục hàng hải và Cảng vụ hàng hải thực hiện theo phân cấp của Cục Hàng

hải Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về BPBĐ. Tuy nhiên, moi giao dịch này đều phải được ghi nhận vào Số đăng ký tàu biển quốc gia thì mới có hiệu lực;

- Đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng dat, tài sản gắn liền với đất

do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về

BPBĐ. Như vậy, các cơ quan DKBPBD bằng quyên sử dụng đất, tài sản gan

liền với đất sẽ được tơ chức phân tán theo đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp

huyện và thẩm quyền của các cơ quan nay khơng những phụ thuộc vào dia

<small>giới hành chính, mà còn phụ thuộc vào địa vi pháp ly của người có tai sản bảo</small>

đảm (là tơ chức hay hộ gia đình, cá nhân);

- Đối với tài sản bảo đảm là chứng khoán đã đăng ký tập trung sẽ do

Tổng cơng ty lưu ký và bù trừ chứng khốn Việt Nam thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm;

- Đối với nhóm tài sản bảo đảm là động sản và các tài sản khác không phải là tàu bay, tàu biển sẽ do Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài san đặt tại một số khu vực (TP.Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, TP.Đà Nẵng) thuộc Cục Đăng ký

quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm mà không phụ thuộc vào địa giới hành chính nơi có tài

<small>sản hoặc nơi chủ sở hữu tài sản (bên bảo đảm) cư trú.</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

1.3.2. Đặc điểm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm trong nền quản trị

quốc gia hiện đại

Thứ nhất, việc ĐKBPBDĐ làm phát sinh hiệu lực doi với người thứ ba Hiện nay, theo quy định của pháp luật về ĐKBPBĐ thì hiệu lực đối

kháng với bên thứ ba sẽ được xác lập từ thời điểm việc đăng ký được xác lập. Đây được xem là một cơ sở rất quan trọng để xác định được thứ tự ưu tiên trong việc xử lý các tài sản bao đảm dé thực hiện thanh toán nghĩa vụ. Nghĩa là các chủ nợ nếu có bảo đảm thì sẽ có quyền được pháp luật bảo vệ nhằm mục

đích đối kháng với các chủ nợ khác có liên quan đến tài sản bảo đảm. Vì vậy chủ thé nào thực hiện ĐKBPBĐ trước thì sẽ có quyền được ưu tiên thanh toán

nợ khi xử lý tài sản bảo đảm. Do đó, trong q trình xác lập hợp đồng, giao

dịch có bảo đảm, bên nhận bảo đảm cần thực hiện việc ĐKBPBĐ, đặc biệt là các tổ chức tín dụng trước khi giải ngân vốn cho bên vay. Do đó thơng qua hoạt

<small>động ĐKBPBĐ các tài sản sẽ được công khai, minh bạch trên thị trường tín</small>

dụng, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của quản trị quốc gia hiện đại.

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật cũng có 02 trường hợp ngoại lệ dẫn tới

<small>thứ tự ưu tiên thanh tốn khơng được thực hiện cho dù các bên tham gia giao</small>

dịch bảo dam đã tiến hành DKBPBD.

() Trường hợp thứ nhất là tại Điều 332 BLDS năm 2015 quy định:

<small>“Truong hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toản cho bên ban</small>

theo thỏa thuận thì bên bán có qun địi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho

bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mắt, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền

u câu bơi thường thiệt hai”, khi đó, đơi với bên bán thi tài sản mua bán lúc này được dùng làm đối tượng đảm bảo cho việc thu lại tiền hàng của mình;

cịn đối với bên mua thì tài sản mua bán có sử dụng biện pháp bảo lưu quyền

sở hữu khiến cho bên mua chưa là chủ thực sự của tài sản nhưng vẫn được

chiếm hữu và sử dụng như bình thường. Vì vậy, lúc này thứ tự ưu tiên thanh tốn khó có thê được thực hiện.

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

(ii) Truong hợp thứ hai được quy định tại khoản 4 Điều 349 BLDS năm

2015 về nghĩa vụ của bên cầm giữ tài sản “Giao lại tài sản cẩm giữ khi nghĩa

vụ đã được thực hiện”, theo đó, việc cầm giữ tài sản chỉ phát sinh hiệu lực

(nghĩa vụ thanh toán) đối với bên sở hữu tài sản bị cầm giữ, chứ khơng phát

sinh hiệu lực và khơng có mối quan hệ với người nhận thé chấp. Bên cam giữ có nghĩa vụ phải giao lại tài sản cam giữ khi nghĩa vụ đã được thực hiện. Đồng thời, BLDS năm 2015 khơng quy định bên cầm giữ có quyền ưu tiên thanh

tốn mà chỉ có quyền u cầu bên có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trong

đó có nghĩa vụ thanh tốn, phát sinh từ hợp đồng song vụ. Tuy nhiên vì bên cam giữ lại có quyền cầm giữ, có quyền khơng giao tài sản cho bên nhận thé chấp hoặc bất kỳ bên nào khác cho đến khi được thanh toán đầy đủ khoản nợ phat sinh, gồm cả chi phi cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ,

nên thành ra bên cầm giữ có quyền ưu tiên cao nhất trên thực tế, ké cả trường hợp việc cầm giữ diễn ra sau thời điểm đăng ký thế chấp. Như vậy, thứ tự về ưu tiên thanh toán dù đã được ĐKBPBĐ của bên thứ ba cũng chưa chắc được

<small>thực hiện.</small>

Tại khoản 1 Điều 297 BLDS năm 2015 quy định hai phương thức dé làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của BPBĐ, bao gồm:

<small>- DKBPBD;</small>

- Nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.

Như vậy, có thé hiểu răng DKBPBD và hành vi nắm giữ hoặc chiếm giữ

tài sản bảo đảm có giá trị pháp lý như nhau khi xác định thời điểm đối kháng với người thứ ba. Trong nền quản trị quốc gia hiện đại, điều này rất quan trọng bởi lẽ quy định này sẽ nhằm góp phần bảo đảm quyền của công dân trong việc nam giữ và chiếm giữ các tài sản hợp pháp, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của họ trong các giao dịch có bảo đảm. Đồng thời, thơng qua hoạt động ĐKBPBĐ, việc minh bach, cơng khai về tình trạng pháp lý của tài sản cũng sé

<small>được thực hiện hiệu quả.</small>

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Ví dụ 1: A là bên bảo đảm thé chấp quyên sử dụng đất thuộc của mình cho B

là bên nhận bảo dam dé bảo dam cho khoản vay tiền giữa A và B. Theo quy định tại

khoản 3 Điều 5 Nghị định số 99/2022/NĐ-CP thì đây thuộc trường hợp phải thực

hiện ĐKBPBĐ và thời điển phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba là từ thời điểm cơ quan PKBPBD ghi nội dung đăng ký vào sổ đăng ky.

Vi dụ 2: A là bên bảo đảm thực hiện cầm cổ 10 chiếc xe máy thuộc sở

hữu của mình cho B là bên nhận bảo đảm để bảo đảm cho khoản vay giữa A và

<small>B. Theo quy định của pháp luật, đây không thuộc trường hợp phải thực hiện</small>

ĐKBPBD nên thời điển phát sinh hiệu lực doi kháng với người thứ ba có liên quan trong trường hợp này là khi B nắm giữ tài sản bảo dam là 10 chiếc xe máy

<small>thuộc sở hữu của A.</small>

Thứ hai, PKBPBD có thé là bắt buộc hoặc tự nguyện

Hiện nay, việc ĐKBPBĐ được thực hiện theo ý chí cũng như nhu cầu của các bên tham gia giao kết trong hợp đồng. Đối với những BPBĐ mà luật không quy định bắt buộc phải đăng ký thì các chủ thé tự nguyện đăng ky dé

có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Việc thực hiện DKBPBD dé giúp cho

các giao dịch, hợp đồng bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật

có yêu cầu. Giao dịch, hợp đồng bảo đảm là sự thỏa thuận thống nhất ý chí,

nguyện vọng của các bên đã lựa chọn một BPBĐ dé bảo đảm cho việc thực

hiện nghĩa vụ. Khi giao dịch, hợp đồng bảo đảm có hiệu lực pháp luật thì các bên có qun, nghĩa vu theo nội dung của BPBD đã lựa chọn, cho nên các bên

phải ĐKBPBĐ đã lựa chọn thì giao dịch, hợp đồng bảo đảm đó mới có hiệu lực. Tuy nhiên, khi pháp luật quy định các chủ thé xác lập các giao dịch bảo đảm phải ĐKBPBĐ là điều kiện làm phat sinh hiệu lực của giao dịch đã giao kết thì buộc các bên phải tuân theo tại khoản 1 Điều 6 Nghị định SỐ SỐ

Vi dụ: A vay ngân hàng X là 500.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận xác lập biện pháp bảo đảm là thé chấp quyên sử dung đất của A với X. Đối

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

với trường hợp này thì pháp luật khơng quy định hình thức của hop dong là

điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nhưng đối với giao dịch thế chấp quyên

sử dụng đất thì hình thức của giao dịch thé chấp phải công chứng, chứng

thực và đăng ký. Sau khi hồn tất các thủ tục đăng ký thì giao dịch thé chấp quyên sử dụng đất của A với X mới có hiệu lực pháp luật.

Việc thực hiện ĐKBPBĐ có thể do các bên tham gia ký kết hợp đồng thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Khi BPBĐ được đăng ký, hiệu lực đối kháng với người thứ ba sẽ phát sinh ngay lập tức. Quyền và lợi ích của bên

<small>nhận bảo đảm được áp dụng BPBĐ có đăng ký sẽ được pháp luật bảo</small>

vệ. Ngay cả trường hợp có tranh chấp xảy ra đối với chủ thé thứ ba thì quyền và lợi ích này vẫn được bảo vệ. Như vay, có thể thấy Vai trị quan trọng của hoạt động ĐKBPBĐ trong nên kinh tế thi trường khi tạo ra một cơ chế quan

trọng cho việc cho phép các chủ thê trong xã hội lựa chọn các phương thức pháp lý để bảo vệ mình trong các quan hệ giao dịch dân sự. Đây là một nội dung rất quan trọng nhằm góp phần xây dựng quản trị quốc gia hiện đại khi hướng tới một cơ chế tôn trọng, đồng thuận giữa các chủ thể trong quan hệ giao dịch dan sự. Đây cũng là quy định quan trọng nhằm bảo vệ quyền con

người, quyền công dân.

<small>Thứ ba, DKBPBD được thực hiện theo một trình tự, thủ tục do phápluật quy định</small>

<small>Trình tự va thủ tục DKBPBD là do pháp luật quy định. Hiện nay, hệ</small>

thống pháp luật của các quốc gia đều hướng tới việc xây dựng một quy

<small>trình, thủ tục DKBPBD đơn giản, thuận tiện, giảm bớt các thủ tục hành</small>

chính dé các cá nhân, tổ chức có thé dé dàng thực hiện khi DKBPBD. Bên cạnh đó, việc ứng dụng mạnh mẽ cơng nghệ thơng tin, trao đơi tình trạng

pháp lý tài sản bảo đảm giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang ngày càng được đây mạnh, điều này giúp cho công tác ĐKBPBĐ ngày càng

phát triển hơn.

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Thứ tu, thông tin ve ĐKBPBĐ phải được công khai

Theo Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) nền

quản trị quốc gia hiện đại phải đáp ứng được các yếu tố: (i) Bình dang; (ii)

<small>Minh bạch; (11) Bảo đảm sự tham gia của người dân; (iv) Dap ứng mọi bên</small>

có liên quan sự công bằng của luật pháp; (v) Hướng tới sự đồng thuận; (vi)

Hiệu lực và hiệu qua; (vii) Trách nhiệm giải trình và (v11) Tầm nhìn chiến lược. Còn Ngân hàng Phát triển châu A (ADB) lại nhấn mạnh một số tiêu

chí trong một nền quản trị quốc gia hiện đại đó là: (i) Tính minh bạch; (ii)

Trách nhiệm giải trình; (111) Có thé dự đốn được; va (iv) Sự tham gia cua

các chủ thé trong q trình hoạch định chính sách. Như vậy, có thé thay, tinh công khai, minh bạch được xem là dấu hiệu quan trọng, khơng thé khơng có trong nền quản trị quốc gia hiện đại. Điều này góp phần đảm bảo cho bộ

máy chính quyền được hoạt động hiệu quả, phát huy được cơ chế giám sát

và huy động được các nguồn lực xã hội được sử dụng một cách hiệu quả.

Trong một nền quản trị quốc gia hiện đại, việc cơng khai hóa các thơng tin về giao dịch, hợp đồng là một nội dung rất quan trọng. Thơng qua cơ chế cơng khai hóa thơng tin về giao dịch, hợp đồng bảo đảm sẽ cho mọi tổ chức,

cá nhân có nhu cầu tìm hiểu, qua đó giúp họ có thơng tin chính xác, tin cậy

trước khi quyết định xác lập các giao dịch dân sự, kinh tẾ, thương mại.

Thông qua hoạt động DKBPBD va tra cứu thông tin về tinh trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, việc tìm hiểu thơng tin trước khi quyết định xác lập giao

dịch, hợp đồng sẽ giúp cho người thứ ba tránh được các rủi ro trước khi thực hiện việc giao kết. Cơ chế tìm hiểu thơng tin được xem là biện pháp phịng ngừa rủi ro trong thị trường tín dụng để cá nhân, tổ chức có thể tự bảo vệ quyên lợi của mình, tránh trường hợp bị lừa đảo hoặc nhằm lẫn mà giao kết

với đối tượng là tài sản không thuộc sở hữu của người bán, tài sản bị hạn chế quyền sở hữu hoặc tài sản đang được bảo đảm cho nghĩa vụ khác. Thông tin được công khai về giao dịch bảo đảm chỉ bao gồm thông tin về tài sản được

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

sử dụng dé bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thông tin về chủ sở hữu tài sản bảo

đảm và thông tin về bên nhận bảo đảm. Những thông tin này là đủ để xác định

một tài sản của một chủ thể đang được dùng dé bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,

qua đó thực hiện được các mục tiêu nêu trên. Đồng thời, các thông tin này

cũng không bị coi là xâm phạm đến quyền riêng tư của chủ sở hữu tải sản.

Tuy nhiên, pháp luật cũng cần đưa ra giới hạn của việc công khai các thông tin về ĐKBPBĐ, chỉ nên công khai những thông tin liên quan đến giao

dịch và không cung cấp các thông tin liên quan đến bí mật đời tư của chủ thể tham gia giao kết giao dịch, hợp đồng bảo đảm. Bởi vì nếu những thơng tin

này khơng được bảo vệ một cách thích hợp, thì sẽ có những chủ thể trong xã

<small>hội thu thập, khai thác trái phép. Đây là một trong những nguyên nhân gây rahiện tượng phát tán thông tin cá nhân trên mang internet, gây bức xúc dư luận</small>

trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, tại Hiến pháp, BLDS và nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành đều đã có quy định về quyền cơ bản của công dân và bảo vệ thông tin cá nhân. Chang hạn, tại Điều 38 BLDS năm 2015 đã quy định: “Đởi sống riêng tư, bí mat cá nhân, bi mật gia đình là bat khả xâm

<small>phạm và được pháp luật bảo vệ” hay “Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công</small>

khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý... ”. Đồng thời, pháp luật cần quy định về chế tài xử phạt đối

<small>với các hành vi phat tán, chia sẻ thông tin cá nhân, tùy theo mức độ, hành vi</small>

thì tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý trách

<small>nhiệm hình sự theo các quy định của pháp luật hiện hành.</small>

1.3.3. Yêu cầu của nền quản trị quốc gia hiện đại đối với phúp luật về đăng

<small>ký biện pháp bảo đảm</small>

Ngày nay, xu hướng các quốc gia đang dần thay đổi mơ hình quản lý nhà

nước sang quản trị nhà nước đang ngày càng được quan tâm. Điều này đặt ra vấn đề cần hoàn thiện các quy định của pháp luật để pháp luật thực sự trở thành công cụ hữu hiệu trong quản trị quốc gia hiện đại. Trong lĩnh vực dân sự, hành

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

chính, dé đáp ứng được yêu cầu của nền quản trị quốc gia hiện đại, việc hoàn

thiện pháp luật về ĐKBPBĐ được đặt ra bởi các lý do như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về ĐKBPBĐ phải đảm bảo tính phù hợp và đồng bộ với hệ thống pháp luật dân sự

<small>Hiện nay theo quy định của pháp luật thì DKBPBD ln được coi là cơ</small>

sở quan trọng cho quan hệ kinh tế trong xã hội và được pháp luật bảo vệ bằng nhiều phương thức khác nhau, như:

() Ghi nhận các căn cứ xác lập quyền sở hữu tải sản;

(ii) Thiết lập cơ chế, các biện pháp bảo đảm quyền sở hữu tai sản một

<small>cách có hiệu quả, công khai, minh bạch;</small>

(iii) Dap ứng được sự đa dạng và sự phat triển của các loại hình tài sản;

(iv) Ghi nhận nhiều hình thức sở hữu, nhiều chủ thé có quyền sở hữu phù

hợp với sự phát triển của nền kinh tế, khoa học công nghệ và ghi nhận sự biến

đơi, chun hóa các loại hình sở hữu;

(v) Điều chỉnh pháp luật các quan hệ sở hữu khơng chỉ ở trạng thái tĩnh

mà cịn trong quá trình dịch chuyên, phát triển, sinh lợi của tài sản; bảo đảm

cho tài sản được giao dịch thông suốt, thuận lợi.

Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, việc chuyền đổi các mơ hình quản lý nhà nước sang quản trị nhà nước là xu thé tất yếu, trong đó việc ghi nhận các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản là cơ sở quan trọng trong việc thúc đây sự phát triển của

kinh tế - xã hội. Ngoài ra, việc thực hiện ĐKBPBĐ là một trong những phương thức thê hiện quyền sở hữu đối với tài sản của chủ sở hữu. Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là pháp luật về dan sự thì quyền sở hữu tài sản được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều này không

chỉ nhăm bảo đảm quyền con người mà cịn bao đảm cho việc hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường; tạo điều kiện cho thị trường được vận hành một cách ổn định và thông suốt. Việc ghi nhận quyền sở hữu

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

tài sản trong pháp luật các nước thuộc hệ thống luật thành văn (civil law) như

Việt Nam thường được thể hiện về nguyên tắc tại Hiến pháp và được cụ thé

hóa tại BLDS, các văn bản pháp luật khác có liên quan. Chế định tài sản và

quyên sở hữu, quyền khác đối với tài san sẽ đóng vai trị là trung tâm, tao cơ

sở pháp lý quan trọng cho các chế định khác trong pháp luật dân sự cũng như các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), có sáu chỉ số để đánh giá chất lượng

quan trị quốc gia hiện đại, bao gồm: (i) Vai trị, tiếng nói của người dân và

trách nhiệm giải trình; (ii) Sự 6n định về chính trị và xã hội phi bạo lực; (iii)

Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ; (iv) Chất lượng của các văn bản,

quy định của pháp luật; (v) Sự thượng tơn pháp luật và (vi) Kiểm sốt tham

nhũng. Theo đó, dé thực hiện cơng tác quan trị tốt cần có ba yếu tố cốt lõi, đó

là: Một là cơ chế kiểm soát quyền lực hay các quy tắc hạn chế sự lạm quyền trong bộ máy công quyền. Hai là sự phản hồi ý kiến của người dân và xã hội về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nên quản tri quốc gia. Ba là có mơi

trường cạnh tranh bình đăng. Đề thực hiện thành cơng quản tri quốc gia theo

hướng hiện đại, hiệu quả cần nâng cao năng lực các chủ thể của quản trị quốc

gia. Trong quản trị quốc gia, có sự tham gia của đa chủ thể: nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Các chủ thé này trong quản trị quốc gia quan hệ theo chiều ngang, mang tính chất đối tác và bình đăng hơn. Tuy nhiên, mỗi

chủ thể vẫn thể hiện rõ vai trị riêng của mình. Thơng qua việc hồn thiện hệ thống về DKBPBD sẽ góp phan hồn thiện quyền sở hữu về tài sản của các chủ thé. Từ đó, góp phần tạo điều kiện thuận lợi và lợi thế về cạnh tranh cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước được phát triển một cách nhanh chóng, bền vững và phục vụ người dân, doanh nghiệp chất lượng hơn.

Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật về ĐKBPBĐ phải đáp ứng mục tiêu bảo vệ tôi đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cũng như tạo day

đủ cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<small>Hiện nay, Việt Nam đang trên con đường xây dựng nhà nước pháp</small>

quyên. Theo đó, pháp luật được xem là chuẩn mực trong hành vi ứng xử của

các chủ thé trong xã hội. Moi chủ thể đều bình đăng trước pháp luật và có

nghĩa vụ thượng tôn pháp luật. Trong một nền quản trị quốc gia hiện đại thì

quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ tinh thần pháp luật là bảo vệ quyền con người chứ khơng phải cai trị con người. Do đó, việc

cải cách toàn diện và hỗ trợ cải cách hệ thống trách nhiệm giải trình tư pháp là một phần quan trọng của cải cách hệ thống tư pháp hiệu quả và thâm quyền đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia. Tăng cường xây dựng pháp quyên là công việc cơ bản dé nâng cao hiệu qua quản trị quốc gia trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, cần đây mạnh cải cách hệ thong hanh chinh, téi ưu hóa việc phan bổ nguồn lực hành chính, thúc day việc sửa đổi các luật và quy định có liên quan, phát huy hết tác dụng của hệ thống hành chính cơng

băng và hiệu quả, tạo thuận lợi cho người dân [49]. Trong thời gian vừa qua, Quốc hội đã ban hành một số văn bản luật về lâm nghiệp, thủy sản, chứng

khốn... trong đó có một số quy định mới liên quan đến bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ, ĐKBPBĐ; nhất là các quy định về cơ quan có thẩm quyền

ĐKBPBĐ và quyền thé chấp tài sản của các chủ thé thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật này. Ví dụ như, tại Điều 46 Luật Thủy sản năm 2017 ghi nhận các trường hợp thế chấp giá trị quyền sử dụng khu vực biển được giao, thế chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng khu vực biển được giao tại tổ chức tín

dụng Việt Nam; tại điểm d khoản 2 Điều 80, điểm e khoản 1 Điều 84, điểm c khoản 1 Điều 85 Luật Lâm nghiệp năm 2017 ghi nhận quyền thé chap giá tri rừng sản xuất là rừng trồng. Ngồi ra, Luật Chứng khốn năm 2019 và Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chỉ tiết

thi hành một số điều của Luật Chứng khốn đã quy định Tổng Cơng ty lưu ký và bù trừ chứng khốn Việt Nam có thâm quyền đăng ký đối với BPBĐ bằng chứng khoán đã được đăng ký tập trung tại Tổng Công ty. Thực tiễn pháp lý

<small>32</small>

</div>

×