Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.62 MB, 83 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐẠI HỌC QUOC GIA HÀ NỘI <small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT</small>
ĐẠI HỌC QUOC GIA HÀ NỘI <small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT</small>
<small>Mã so: 8380101.05</small>
<small>Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các</small>
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn dam bao tinh chính xác,
Vậy tôi viết Lời cam đoan này dé nghị trường Dai học Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét dé tơi có thé bảo vệ Luận văn.
<small>Tôi xin chân thành cảm ơn!</small>
<small>Trương Chu Phương Khanh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>1.1.3. Chức năng của nhãn hiỆu... -- -- G113 E9 11981191 rkrreree 91.1.4. Phân loại nhãn hiỆu...- - -- 5 0131122311 1111151 1111851111188 11x. lãi</small> 1.2. Khai quát chung về khả năng phân biệt của nhãn hiéu... 18
<small>1.2.3. Phuong thức xác định khả năng phân biệt của nhãn hiệu... 21</small>
1.3. Kha năng phân biệt của nhãn hiệu theo các Điều ước Quốc tế.... 24
1.4. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu theo pháp luật một số quốc gia ... 29
2.1.1. Các quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu...- 35
<small>2.1.2. Đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu tại cơ quan nhà nước</small>
có thâm quyÊNn...--- + ¿+ E+SE+E+E£EE£EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErrrei 39
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.2. Thue tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về
<small>khả năng phân biệt của nhãn hiệu...---- -- -- 5+ +5<<+<<+s+2 47</small>
<small>2.2.1. Thực tiễn xem xét, đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu</small>
trong thựC tẾ...--- ¿5s e2 EkEE1211212111111111 1111111111111 T1 1y. 47 2.2.2. Vụ việc điển hình về khả năng phân biệt của Nhãn hiệu... 51 2.3. Đánh giá ưu điểm và hạn chế...---- ¿5+ z+zz+£x+zxerxerxerxeee 58
2.3.1. Ưu điểm... ¿22 < St EkEE2E211211211121217111.211211 1111111 xe. 58
KET LUẬN CHƯNG 2...- 5-56 EtSESEEEEEESEEEEEEEEEEEEEEESEEEEEErkrkrrerkskee 61
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về khả năng phân
<small>biệt của nhãn hiệu ... .. - - - -- G2 E221 E 31132 E£EESeeEseeesersrrseres 62</small> 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam về
<small>khả năng phân biệt của nhãn hiệu...-.-- - 5-5-5555 <++<<s++ 67</small>
Hình I.I | “Viettel” là nhãn hiệu từ ngữ được thé hiện với phong
Hình 1.2 | Nhãn hiệu “Bia 333” là nhãn hiệu chữ số 14
<small>Hình I.3 | Ví dụ cho nhãn hiệu hình vẽ, hình ảnh là hình qua táo</small>
can do của thương hiệu “Apple” cho sản phẩm điện
Hình 2.I | Nhãn hiệu bị từ chối do được đánh giá là tương tự đến
mức gây nhằm lẫn khi nộp đơn tại Cục sở hữu trí tuệ 44
<small>Hình 2.2 | Cocopie cua Orion và Phaner Pie, Choco PN của</small>
Phạm Nguyên dé gây nhằm lẫn cho người tiêu dùng 45
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, không chỉ ở các quốc gia phát triển mà các quốc gia khác
<small>chung và sở hữu cơng nghiệp nói riêng. Sở hữu cơng nghiệp là một trong</small>
động sản xuất, kinh doanh. Chính vì thế, bảo hộ nhãn hiệu ln được các
<small>doanh nghiệp, cá nhân đặc biệt quan tâm.</small>
Trong những năm qua, để đáp ứng u cầu, địi hỏi của q trình hội nhập quốc tế, bên cạnh việc tham gia các hoạt động về sở hữu trí tuệ của các
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mới đây nhất, Việt Nam đã kí
định Thương mại tự do Việt Nam - Liên hiệp châu Âu (EVFTA); Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP). Điểm nỗi bật
kiện bắt buộc khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu phải là những dấu hiệu có thể nhận biết băng mắt thường và cũng không được từ chối đăng ký đối với các nhãn hiệu cấu thành là âm thanh; đồng thời yêu cầu các thành viên phải nỗ lực hết sức dé đăng ký nhãn hiệu mùi.
Có thé thấy đây là những dấu hiệu tốt, thể hiện Việt Nam đang dan quan tâm hon tới pháp luật sở hữu trí tuệ; nhằm khang định tên tuổi cho các sản phẩm nước nhà cũng như nâng cao uy tín, dam bảo quyền sở hữu trí tuệ
<small>cho các nhà đâu tư nước ngoài khi đưa các sản phâm của họ vào thị trường</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp trong nước muốn khăng định tên tuổi, uy tín và giá trị của doanh nghiệp thì ngồi tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất còn cần phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu.
Khả năng phân biệt của nhãn hiệu là một vấn đề vơ cùng quan trọng trong q trình xác lập quyền khi đăng ký bảo hộ. Trên cơ sở xác định nhãn hiệu có được bảo hộ hay khơng từ đó biết được tồn bộ phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu; nó cịn quyết định thời gian xảy ra tranh chấp có kéo dài hay
xác lập và bảo hộ đối với nhãn hiệu.
Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Khả năng phân biệt
luận văn thạc sĩ. Tơi mong muốn tìm hiểu, phân biệt Nhãn hiệu và đánh giá về
2. Tóm tắt tính hình nghiên cứu
nhiều cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo, bài viết của các tác giả trong
chung và bảo hộ nhãn hiệu nói riêng dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau:
Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực NCKH QG01.10 do Khoa Luật - Dai học Quốc gia Hà Nội;
và thực tiễn do Viện Khoa học Pháp lý, Nxb Tư pháp, 2004;
<small>hiệu ”, đăng trên tạp chí Khoa học DHQGHN, luật học 26;</small>
<small>Hà Thị Nguyệt Thu (2010), “Bao hộ nhãn hiệu theo luật sở hữu trí tuệ</small>
2005”, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Ngô Thị Kiều Oanh, “Bảo hộ nhãn hiệu là âm thanh, kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam”, Nghiên cứu khoa học.
Bài viết: “Báo hộ và thực thi quyên đối với nhãn hiệu khi Hiệp định CPTPP được vận hành”, đăng trên Tạp chí KH-CN Nghệ An số 4/2016;
Hà Thị Nguyệt Thu (2013), “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu
Tổ chức thương mại thế giới (1994), Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020
Cuốn Cam nang Sở hữu trí tuệ WIPO, 2000 (Bản dich 2005);
<small>Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu nao di sâu làm rõ khả năng</small>
phân biệt nhãn hiệu theo pháp luật về ở hữu trí tuệ Việt Nam. Qua luận văn,
<small>phân biệt của nhãn hiệu.</small>
Luận văn nghiên cứu, làm rõ các van dé lý luận về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng phân biệt của nhãn hiệu và thực tiễn áp dụng; nêu ra các kiến nghị và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về khả năng phân biệt của
<small>nhãn hiệu và nâng cao hiệu quả áp dụng.</small>
nhằm hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ liên quan trực tiếp tới khả năng phân biệt của nhãn hiệu theo pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu khả năng phân biệt của nhãn hiệu với tính chất là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, trên cơ sở nghiên cứu đối với nhãn hiệu thường (không nghiên cứu nhãn hiệu với phạm
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định liên quan đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu thông qua Công ước Paris và hiệp định TRIPS. Ở Việt Nam, đề tài tập trung vào luật sở hữu trí tuệ từ năm 2005 đến nay (sửa đổi mới nhất năm 2022). Về mặt không gian, luận văn
<small>nghiên cứu khả năng bảo hộ của nhãn hiệu thông qua thực trạng và thực tiễn</small>
<small>áp dụng tại Việt Nam.</small>
<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>
dữ liệu thứ cấp, phương pháp nghiên cứu trường hợp dién hình.
Thơng qua các phương pháp hệ thống, phân tích dữ liệu thứ cấp, phân tích và tổng hợp, thong kê các thơng tin đơn lẻ sẽ được tơng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi thành các nhóm vấn đề; được phân tích, khái qt hóa dé
xây dựng khung phân tích theo yêu cầu của dé tài.
Đối với phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, so sánh và
<small>xét, đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu; từ đó rút ra bai học kinh</small>
nghiệm cho các doanh nghiệp, tô chức, cá nhân khi đưa nhãn hiệu đi đăng ký
<small>và sử dụng trên thị trường.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Phương pháp thống kê dựa trên các số liệu thống kê về số lượng nộp đơn và xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam, số lượng đơn bị từ chối và lí do từ chối đơn của Cục sở hữu trí tuệ cung cấp; luận văn phân tích, đánh giá hiệu lực, tính khả thi của các quy định pháp luật về khả năng phân biệt của nhãn
Chương 1: Khái quát chung về khả năng phân biệt của nhãn hiệu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng phân biệt của
nhãn hiệu và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về khả năng phân
<small>biệt của nhãn hiệu và nâng cao hiệu quả áp dụng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>CHƯƠNG 1</small>
<small>1.1.1. Khái niệm nhấn hiệu</small>
<small>Con người đã sử dụng nhãn hiệu trước cả khi khái niệm này được định</small>
nghĩa và gọi tên. Mặc dù không thê xác định chính xác về thời gian mà nhãn hiệu đầu tiên ra đời, nhưng có một số nguồn thơng tin chứng minh và cho rằng một số nhãn hiệu sớm nhất được biết đến có niên đại 5000 năm trước
phẩm do họ sản xuất như quần áo, gạch, ngói, đồ bạc, bia mộ, v.v từ hàng ngàn năm trước. Tuy nhiên, những nhãn hiệu cơ đại này khơng có giá trị pháp lý. Chúng hầu như chỉ được sử dụng như một cách dé ghi nhận người tạo ra và địa điểm sản xuất đối với bất kỳ sản phẩm nào. Ngồi ra, các nhãn hiệu
xuất hiện sớm nhất cũng có thể được tìm thấy trên các vật dụng tại thời kỳ La
trọng giúp người tiêu dùng (người mua) phân biệt được nơi sản xuất và người sản xuất ra hàng hoá (gọi chung là “nhãn hiệu”). Cụ thé, Vào năm 1266, dưới triều đại của vua Henry III, Quốc hội Anh đã thông qua đạo luật đầu tiên về
<small>nhãn hiệu. Đạo luật này được gọi là đạo luật nhãn hiệu The Bakers với nội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">trên bánh mì. Sau đó, những người thợ kim hồn cũng được yêu cầu đánh dấu
biểu tượng trang trí cung điện, lâu đài, nhà trọ và quán rượu của quý tộc lần
<small>lượt được sử dụng rộng rãi trong thương mại, v.v. [24].</small>
<small>Vào năm 1791, Ngoại trưởng Hoa Kỳ là Thomas Jefferson nhận đơn</small>
Tuy nhiên, kiến nghị này đã không thông qua cho đến năm 1870, Đạo luật Nhãn hiệu Liên bang Hoa Kỳ đầu tiên được thông qua và nhãn hiệu đầu tiên
vào năm 1874, Anh vào năm 1875, Nhật Bản vào năm 1884 và các quốc gia trên thế giới theo đó cũng lần lượt thơng qua các đạo luật nhãn hiệu. Có thể thấy, các nước phát triển, các cường quốc kinh tế hiện nay đều quan tâm và
thông qua pháp luật bảo hộ nhãn hiệu từ rất sớm (từ thế kỷ trước) [24].
<small>dịch vụ được lưu thông với phạm vi rộng lớn không chỉ bó hẹp trong phạm</small>
<small>được hình thành.</small>
đã được kí kết tại Paris. Việc bảo hộ nhãn hiệu theo công ước nảy được dựa
<small>riêng vê chê độ bao hộ đôi với nhãn hiệu. Tuy nhiên, tại Công ước Paris mới</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">- TRIPS. Hiệp định này là điều ước quốc tế đầu tiên đưa ra khái niệm nhãn hiệu. Tại Khoản 1 Điều 15 của Hiệp định này có nêu rõ: Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tơ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ
<small>của một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp</small>
Định nghĩa đơn giản “nhãn hiệu” là một dấu hiệu chứa các yếu tố hình
như âm thanh, mùi vị, ánh sáng. Các dấu hiệu này được gắn liền với các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của các cá nhân tô chức kinh doanh, nhăm giúp cho
<small>các doanh nghiệp khác nhau.</small>
sử dụng. Chủ sở hữu sau khi đăng ký nhãn hiệu sẽ được xác lập các quyền cu thé như: quyền định đoạt nhãn hiệu, quyền ngăn cam những hành vi được xem là xâm phạm đối với nhãn hiệu, quyền sử dụng và cho phép người khác
<small>sử dụng nhãn hiệu.</small>
Quyền ngăn cấm các hành vi được xem là xâm phạm đối với nhãn hiệu, cụ thé nhãn hiệu được bảo hộ là một tài sản trí tuệ, mọi hành động xâm phạm, sao chép, sử dụng trái phép đều sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
Quyền sử dụng và cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu là quyền mà
qua các hành vi như lưu thông, chào hang; tàng trữ, quảng cáo dé bán các sản
<small>1.1.3. Chức năng của nhãn hiệu</small>
Trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hàng hóa được sản xuất hàng loạt và nhanh chóng do việc vận chuyên hàng hóa giữa các quốc gia khơng cịn khó
<small>nhãn hiệu có các chức năng sau:</small>
<small>Một là, chức năng phân biệt của nhãn hiệu: Khả năng phân biệt củanhãn hiệu không chỉ giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng hoá, dịch vụ</small>
của các t6 chức, các nhân khác nhau; mà còn giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá dịch vụ thể hiện tên tuổi của nhãn hàng, sản phẩm. Tạo động lực giúp doanh nghiệp đây mạnh và duy trì chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo sản phẩm mang nhãn hiệu có uy tín tốt. Chính vì vậy đây là chức năng cơ bản
Nhãn hiệu có chức năng phân biệt giúp người tiêu dùng dễ dàng biết
<small>của nhãn hàng này với nhãn hàng khác, dễ dàng đưa ra được sự lựa chọn và</small>
có được sự đánh giá trong quá trình sử dung sản phẩm, dịch vụ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Ngồi ra, chức năng phân biệt của nhãn hiệu cịn được sử dụng trong</small>
quá trình xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, thông qua các dấu hiệu đặc biệt, riêng có của từng nhãn hiệu mà chuyên viên thâm định có thé đánh giá được khả năng cũng như phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đó. Trong q trình đưa sản phẩm ra ngồi thị trường, khả năng phân biệt của
muốn tìm kiếm, dễ dàng định vị sản phẩm phù hợp với họ.
<small>Hai là, nhãn hiệu có chức năng quảng cáo: Quảng cáo giúp người tiêu</small>
cậy, tăng hiệu quả bán hàng và dé dàng tiếp cận tới nhiều đối tượng hơn.
Ngày nay, các doanh nghiệp đầu tư rất nhiều thời gian, tiền bạc vào tiếp thị dé xây dựng thương hiệu và đưa hình anh sản phẩm của doanh nghiệp mình đến gần hơn với người tiêu dùng. Để quá trình quảng bá diễn ra hiệu
Nhãn hiệu có thé thực hiện chức năng quảng cáo của nó thơng qua các
ghi nhớ và tiếp cận thông qua thị giác; việc quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh được con người tiếp nhận thơng qua thính giác, thị giác; đối với các trường hợp tiếp thị sản phẩm dịch vụ thông qua quá trình trải nghiệm của khách hàng (vi du: dùng thử sản phẩm đồ ăn tại siêu thị) bên cạnh việc ghi nhớ và đón nhận sản pham thơng qua nhãn hiệu hình ảnh trên bao bì sản phẩm cịn thơng qua cảm nhận và đánh giá vị giác.
Khi một sản phẩm mang nhãn hiệu xuất hiện, có chỗ đứng trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng biết tới, lúc đó doanh nghiệp có thể tăng giá sản phẩm dé phù hợp với tên tuổi nhãn hàng. Đối với một số doanh nghiệp, nhãn
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">hiệu được ví như là thương hiệu giúp họ phát triển thị trường các sản phẩm
người tiêu dùng. Ví dụ hai chiếc túi hoàn toàn giống hệt nhau, được bán với mức giá hoàn toàn khác nhau chỉ bằng cách gắn thêm một mác của nhãn hàng Hermes (hãng túi lâu đời và nôi tiếng ở nhiều quốc gia trên thé giới).
Chính vì thế chức năng bảo chứng của nhãn hiệu đang ngày càng được
có ý thức hơn trong việc đưa các sản phẩm đến người tiêu dùng dé khang định được tên tuổi sản phâm thông qua nhãn hiệu đã được đăng ký.
<small>1.1.4. Phân loạt nhãn hiệu</small>
Mỗi nhãn hiệu khi đưa ra thị trường đều cần có các dấu hiệu đặc
loại nhãn hiệu có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn. Điều này khơng chỉ ảnh hưởng tới cảm nhận của người tiêu dùng về sản pham, dịch vụ mang nhãn hiệu mà còn ảnh hưởng tới quá trình đăng ký và thâm định nhãn hiệu. Phân loại nhãn hiệu dựa theo các yếu tô khi đăng ki bảo hộ: xét theo hình thức thể hiện; theo số lượng chủ thể của nhãn hiệu (nhãn hiệu cá nhân, nhãn hiệu liên kết); phụ thuộc vào mức độ nỗi tiếng (nhãn hiệu thường,
nhãn hiệu liên kết,...) [19, tr.100].
của nhãn hiệu: nhãn hiệu từ ngữ; nhãn hiệu chữ cái, chữ số; nhãn hiệu hình ảnh; nhãn hiệu hình khối; nhãn hiệu kết hợp; và nhãn hiệu đặc biệt.
<small>e Nhãn hiệu từ ngữ</small>
<small>Nhãn hiệu từ ngữ bảo gôm các dâu hiệu là sự kêt hợp giữa chữ cái có</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Do những đặc tính đặc biệt sẵn có trong ý nghĩa của từ ngữ không
danh nghĩa một nhãn hiệu nên nhãn hiệu từ ngữ được sử dụng phổ biến
<small>hơn trên thị trường.</small>
Dấu hiệu từ ngữ có được ấn tượng thơng qua cả thính giác và thị giác
ngữ được thể hiện chính xác và tinh tế hơn dựa trên các đặc điểm của hàng
Dựa trên hình thức thé hiện, nhãn hiệu từ ngữ được phân ra thành: những nhãn hiệu chi thé hiện từ ngữ theo nghĩa của nó do trong đơn yêu cầu
cấp văn băng bảo hộ không mô tả kiểu chữ thê hiện từ ngữ đó và những nhãn
nhãn hiệu chỉ thé hiện từ ngữ, dạng nhãn hiệu này tập trung vào mặt phát âm
ADIDAS; Bình Minh; Sunhouse;... Đối với những nhãn hiệu được thé hiện với phong cách đồ hoạ thì những từ ngữ này thể hiện dưới các dạng phông chữ đặc biệt; cách bố trí các chữ cái khơng theo thé thơng thường: cũng như kích cỡ to nhỏ của từng chữ cái được sắp xếp trái với loggic để tạo được ấn
<small>tượng thị giác mạnh mẽ hơn cho người nhìn.</small>
<small>Theo cách của ban</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Dựa trên phương thức tạo ra dấu hiệu, nhãn hiệu là từ ngữ cũng được phân chia thành: nhãn hiệu là những từ ngữ được lấy ra từ ngôn ngữ thông
<small>ngữ có nghĩa được sử dụng dưới dạng danh từ; tên riêng; địa danh. Ví dụ:</small> CHANEL, PHILIPS, AMAZON. Trong một sé trường hợp, nhãn hiệu từ ngữ dùng biểu trưng (hay tên gọi) của một loại đối tượng cho hàng hóa thuộc dạng đối tượng khác (APPLE là nhãn hiệu dùng cho điện thoại thông minh). Đối
COCA COLA, FANTA, LAZADA,.... Những dấu hiệu này có khả năng phân
thường do có tính độc đáo. Những nhãn hiệu là những từ hư cau tạo ra sự mới
<small>mẻ và độc đáo của hàng hoá, dịch vụ nên ngày càng được sử dụng rộng rãi</small>
Ngoài ra, nhãn hiệu từ ngữ còn ton tại dưới dạng đặc biệt là các solgan
phẩm bởi nó mang ý nghĩa mơ tả sản phẩm, dịch vu, chủ thé ở dạng ngụ ý [19, tr.103]. Do vậy, những khẩu hiệu kinh doanh có thé được bảo hộ với tư
giầy đép Bitis là “nâng niu ban chân Việt”. e Nhãn hiệu chữ cái, chữ số
Nhãn hiệu chữ cái, chữ số là các nhãn hiệu được cấu thành từ sự kết hợp giữa các chữ cái đơn lẻ không thể phát âm thành từ, hoặc chỉ chứa các chữ số [19, tr.104]. Ví dụ: KEC, CGV, 333,.... Ở Việt Nam, nhãn hiệu chỉ có số
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Những nhãn hiệu được cấu thành từ các chữ cái Latin có thể bao gồm chữ số, chữ cái nhưng không tạo ra được một từ có nghĩa, cụ thé là chỉ chứa một, hai kí tự chữ cái khơng thé phát âm hoặc chỉ gồm chữ số, một số kết hợp
<small>với một chữ được đánh giá là khơng có khả năng phân biệt và không được</small>
năng ghi nhớ đối với người tiêu dùng và không được bảo hộ nhãn hiệu. e Nhấn hiệu hình vẽ, hình anh (dấu hiệu hình)
<small>Nhãn hiệu dạng hình vẽ, hình ảnh có tính nghệ thuật thơng quá cách</small>
<small>đạt được khả năng phân biệt thơng qua hình vẽ, hình ảnh động vật, thực vật,</small>
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Đặc điểm của nhãn hiệu này thường có kết cấu gọn gàng, đơn giản chính vì thế việc sử dụng nhãn hiệu hình giúp sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp dé dang được đón nhận tại nhiều quốc gia trên thế giới. Nó có thé được đăng ký với các dạng thiết kế sinh động, nhiều màu sắc. Tuy nhiên hiện
phân biệt đối với hàng hóa và dịch vụ liên quan [19, tr.105].
Nhãn hiệu hình khối có khả năng phân biệt cao do được hình thành từ
kiểu đáng công nghiệp khi nó có hình dạng bên ngồi của ngun vẹn một sản pham; những nhãn hiệu mang yếu tố tách rời bên ngồi của sản phẩm hoặc thậm chí chi là những dấu hiệu trên bao bì sản phẩm thì sẽ được bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu hình khối.
Nhãn hiệu hình khối có thêm một số đặc tính nhất định như bao bì của hàng hóa phải phù hợp với tính chất của hàng hóa và phong cách của nhà sản xuất cũng như phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Trong trường hợp này,
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">nó sẽ thực hiện đồng thời cả chức năng quảng cáo vì vậy các dấu hiệu từ ngữ, hình ảnh trên bao bì cũng cần cơ đọng, chính xác. Hiện nay, mới có một số quốc gia chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu hình khối. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 mới ghi nhận các quy định liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu hình
<small>năng phân biệt của nhãn hiệu này.</small>
e Nhãn hiệu kết hợp
Nhãn hiệu kết hợp là nhãn hiệu được tạo nên bởi cả dấu hiệu chữ và dau hiệu hình. Những dấu hiệu này được thé hiện đen trang hay kết hợp ca màu sắc. Hình ảnh và từ ngữ trong nhãn hiệu có thể lồng ghép hoặc tách
<small>cho nhau [19, tr.106].</small>
là nhãn hiệu kết hợp
Khả năng phân biệt của nhãn hiệu kết hợp được đánh giá khi dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình đều có khả năng phân biệt và tạo thành tổng thé có khả năng phân biệt; nếu dấu hiệu kết hợp khơng có hoặc ít có khả năng phân biệt
<small>khả năng phân biệt trong quá trình sử dụng thì vẫn được coi là có khả năng</small>
<small>phân biệt.</small>
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">có sức biéu đạt và tính phân biệt cao nên những nhãn hiệu kết hợp chứng tỏ được khả năng phân biệt nôi trội và được áp dụng phổ biến loại nhãn hiệu này
trong hoạt động thực tiễn.
người tiêu dùng có thé cảm nhận được bang thi giác, thì nhãn hiệu đặc biệt là những dấu hiệu có thê được cảm nhận bởi các cơ quan giác quan khác của con
<small>người như thính giác, vi giác, khứu giác [19, tr. 106].</small>
Nhãn hiệu âm thanh là các nhãn hiệu ma con người có thé cảm nhận thơng qua khả năng thính giác. Loại nhãn hiệu này có thể bao gồm một đoạn
<small>Nhãn hiệu âm thanh thường được nộp dưới dạng bản ghi âm. Ví dụ: nhạcchng điện thoại của hãng Nokia.</small>
Nhãn hiệu mùi hương được thừa nhận là có khả năng phân biệt nếu khơng mang tính chức năng, thể hiện hay mơ tả mùi vị của sản phẩm. Nói cách khác mùi hương được bảo hộ trong các trường hợp đặc biệt, đối với các sản phẩm dịch vụ vốn không có mùi hương hoặc có mùi hương nhưng khơng
nhãn hiệu này cần chứng minh khả năng phân biệt của nó thơng qua sản phẩm cu thé đề thấy được tính đặc trưng của sản phẩm, dich vụ mang nhãn
<small>hiệu mùi hương.</small>
Nhãn hiệu vi giác là nhãn hiệu mà con người có thể cảm nhận thơng
khả năng phân biệt trước hết nó khơng được mang tính mơ tả hay thể hiện
<small>chức năng của sản phâm.</small>
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Tuy nhiên các nhãn hiệu này không được bảo hộ rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thé giới. Tại Việt Nam, Quốc hội mới chính thức cơng nhận bảo hộ nhãn hiệu âm thanh tại lần sửa đổi, bố sung sở hữu trí tuệ
<small>vào tháng 6/2022.</small>
1.2. Khái quát chung về khả năng phân biệt của nhãn hiệu
Bên cạnh việc đưa ra khái niệm về nhãn hiệu thì việc tìm hiểu về khả năng phân biệt của nhãn hiệu là nội dung không thể thiếu khi nghiên cứu về nhãn hiệu được bảo hộ. Bản chất và vai trò của nhãn hiệu là dùng dé phan biét
vậy mặc dù khơng có một khái niệm chính thức hoặc định nghĩa chung về khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong pháp luật của mỗi quốc gia, nhưng khái
Nhìn chung, khả năng phân biệt được xem xét đến trong bối cảnh bảo hộ nhãn
cung cấp mà mình muốn tìm mua; đây cũng là mục đích sử dụng nhãn hiệu
<small>một cách dễ dàng, ghi nhớ trong tâm trí người tiêu dùng trên thị trường hàng</small>
hóa ngày càng đa dạng và có sự cạnh tranh khốc liệt.
Nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ khi đưa ra thị trường cần chứa các yếu tố,
<small>vụ. Ngồi ra, cịn xét dựa trên cùng chủng loại hàng hố, được bán ở cùngmột kênh thương mại.</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Đối với các yếu tố người tiêu dùng có thé phân biệt thơng qua các giác quan như hình ảnh, chữ cái và cả âm thanh thì nhãn hiệu đăng ký cần có những thiết kế riêng thể hiện được không chỉ là cách gọi tên của sản phẩm mà cịn là cách bồ trí các u tố hình ảnh trên bao bì gây ấn tượng về thị giác cho người tiêu dùng; đối với nhãn hiệu âm thanh là ấn tượng về thanh điệu, phát âm tạo ấn tượng và mức độ ghi nhớ nhất định cho người tiêu dùng trong quá trình tiếp xúc với sản phâm, dịch vụ ngồi thị trường.
Tuy nhiên hai nhãn hiệu có thê tương tự nhau nhưng khơng cùng nhóm sản phẩm dịch vụ sẽ khó có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Chính vì thế bên cạnh việc xem xét tới việc phân biệt nhãn hiệu thông qua cách thé hiện, một nhãn hiệu được đánh giá có khả năng phân biệt hay khơng cịn được đánh giá dựa trên sản phẩm dịch vụ mang nhãn hiệu. Nếu nhãn hiệu
là khơng có khả năng phân biệt, dé gây ra sự nhằm lẫn cho người tiêu dùng.
Từ đó có thé định nghĩa khả năng phân biệt của nhãn hiệu là một số yếu
một tổng thé độc đáo giúp cho người tiêu dùng dé dang phân biệt và lựa chọn
<small>trong quá trình sử dụng.</small>
Việc xác định khả năng được bảo hộ của nhãn hiệu hay xác định dấu
cách phù hợp nhất. Đây cũng là tiền đề dé chọn lọc, đánh giá trước khi đưa ra
<small>kêt luận vê một nhãn hiệu, khả năng “sơng sót” và phát triên của nó trên thị</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">trường không chỉ ở trong nước mà cả trên thị trường quốc tế.
<small>Việc xác định phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu được hình thành và đưa ra</small>
trên cơ sở đã biết về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Phạm vi bảo hộ được
hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu thì nhãn hiệu vẫn được bảo hộ nhưng sẽ được ghi rõ bị loại trừ bảo hộ đối với dấu hiệu nào (ví dụ: đối với
nhãn hiệu “Bún bị Tún” cho dịch vụ nhà hàng, nhãn hiệu này vẫn được bảo
hộ nhưng sẽ loại trừ phần chữ “bún bị” do mang tính mô tả). Đối với phạm
<small>hiệu là phạm vi nhãn hiệu đó chỉ được bảo hộ trong phạm vi nhóm ngành</small>
mà nhãn hiệu có là trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, điều này có nghĩa tại mỗi quốc gia khác nhau nhãn hiệu cần phải nộp lại đơn đăng ký
theo yêu cầu của từng quốc gia.
Khả năng phân biệt của nhãn hiệu ảnh hưởng trực tiếp tới tính cạnh tranh của một một sản pham hàng hố, dịch vụ trên thị trường, bởi nó giúp cho các nhãn hiệu không bị trùng hoặc tương tự khiến cho người tiêu dùng có
tranh và nhận diện cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Dé một nhãn hiệu được bảo hộ, thể hiện bằng việc nhãn hiệu đó được
sử dụng làm nhãn hiệu được đánh giá là có khả năng phân biệt là điều quan trọng nhất. Nếu không vượt qua được tiêu chí đảm bảo khả năng phân biệt thì
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">khơng một dấu hiệu nào có thé được cấp văn bang bảo hộ nhãn hiệu. Cụ thé hơn là khi hai dấu hiệu có các yếu tố trùng hoặc tương tự nhau đều dùng cho các sản phẩm trùng hoặc tương tự thì chắc chăn khơng một cơ quan nào cấp văn bằng bảo hộ cho cả hai nhãn hiệu đó. Việc cấp văn bằng bảo hộ chỉ có thê được thực hiện khi hai dấu hiệu này phải được chỉnh sửa để đảm bảo
bảo hộ đối với nhãn hiệu hay không.
<small>1.2.3. Phương thức xác định khả năng phân biệt của nhấn hiệu</small>
Khả năng phân biệt của nhãn hiệu trước hết phải kế đến phạm vi dấu hiệu được bảo hộ gom các tiêu chí như: được tao thành từ một hoặc một số
<small>là khơng có khả năng phân biệt” mà pháp luật quy định.</small>
<small>Ngoài việc xác định khả năng phân biệt của nhãn hiệu thông qua các</small>
<small>định nhãn hiệu có khả năng phân biệt hay khơng thơng qua việc đánh giá dựa</small>
trên các trường hợp nhãn hiệu bị coi là khơng có khả năng phân biệt bao gồm: Một là, Xác định phạm vi những dấu hiệu có thé được bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu. Như định nghĩa về nhãn hiệu là các dấu hiệu tạo thành từ
là loại nhãn hiệu truyền thống dé dang phân tích, đánh giá được kha năng phân biệt của loại nhãn hiệu này. Trong khi đó, nhãn hiệu khơng nhìn thấy
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">được bằng mắt thường hay còn thường được gọi là nhãn hiệu phi truyền thống là khó đánh giá được khả năng phân biệt hơn, bởi nó khơng hữu hình, xuất
dịch vụ, phần lớn được người tiêu dùng nhận ra khi đã sử dụng sản phẩm,
<small>Hai là, xác định khả năng tự phân biệt trên hai phương diện là hình</small>
đơn giản, chữ số, chữ cái hay chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng. Về nội dung, nhãn hiệu là các dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thơng thường của hàng hố, dịch vụ bằng ngôn ngữ được nhiều người biết tới và thường xuyên sử dụng; các nhãn hiệu là dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm,
Ba là, đánh giá khả năng phân biệt trong tương quan với các đối tượng
phải là nhãn hiệu liên kết nhưng trùng hoặc tương tự đến mức gây nhằm lẫn
<small>với nhãn hiệu của người khác, hoặc nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã được sử</small>
<small>dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, nhãn hiệu của người khác; trùng</small>
hoặc tương tự với tên thương mại; trùng hoặc tương tự đến mức gây nhằm lẫn với nhãn hiệu được coi là nỗi tiếng của người khác; trùng hoặc tương tự đến
loại nhãn hiệu khác đang được bảo hộ hoặc đã có mặt trên thị trường phần lớn là do dấu hiệu từ ngữ tương đồng, bồ trí hình ảnh giống nhau, cách phát âm
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">tương tự khiến cho người tiêu dùng đễ dàng nhằm lẫn giữa các sản phẩm, dịch vụ này. Trong khi đó, đánh giá mức độ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhằm lẫn giữa chi dẫn địa lý dang được bảo hộ và một nhãn hiệu phan lớn là
thông qua dấu hiệu ti ngữ chỉ nguồn gốc dễ gây hiểu nhầm cho người tiêu
mại, người tiêu dùng thường nhằm lẫn nhãn hiệu và tên thương mai do cả hai
nếu nhãn hiệu mang tên gọi hay cách viết tương tự với tên thương mại của người khác có thể gây ra hiểu nhằm về chủ sở hữu sản xuất sản phẩm mang nhãn đó. Đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu trùng hoặc tương tự tại đây thường là các nhãn hiệu hình khối do tính chất đặt thù của kiểu dáng cơng nghiệp là dạng mặt ngoài của sản phẩm. Giữa nhãn hiệu và quyền tác giả
<small>và đơi khi là cả hình ảnh trong trường hợp là các hình vẽ trong truyện tranh,</small>
<small>truyện chứa hình ảnh minh hoa.</small>
Bon là, khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong tương quan với các điều kiện khác. Các điều kiện khác bao gồm hình quốc kỳ, quốc huy của các quốc gia của các nước; biéu tượng cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tơ chức chính trị, t6 chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội
- nghề nghiệp, tô chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam va tổ chức quốc tế; với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình anh của lãnh tụ, anh
nhằm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, cơng dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng
<small>hóa, dịch vụ. Đơi với nhãn hiệu có phân hình ảnh hoặc tên nhãn trùng với</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">một trong các yếu tố nêu trên sẽ được coi là không có khả năng phân biệt, với tên gọi, hình ảnh trùng hoặc tương tự gây nhằm lẫn với hình ảnh quốc huy, quốc kì, huy hiệu của quốc gia, cơ quan tổ chức thế giới hay tên các vị lãnh tụ, người nổi tiếng bởi nó có thể ảnh hưởng đến danh tiếng của những
dễ dàng bị nhằm lẫn với hình ảnh, hình vẽ trên nhãn hiệu; bên cạnh đó, các
<small>hố, dịch vụ đăng ký mang nhãn cũng khơng được bảo hộ do sẽ gây ra cách</small>
hiểu sai lệch cho người tiêu dùng.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, để đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngồi có thé tiến hành đăng kí nhãn hiệu một cách thuận lợi, Việt Nam đã tham gia vào hầu hết tất cả các
<small>e Công óc Paris</small>
được áp dụng đối với sở hữu công nghiệp theo nghĩa rộng nhất, bao gồm bằng
hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và ngăn chặn cạnh tranh không
lành mạnh. Thỏa thuận quốc tế này là bước quan trọng đầu tiên được thực hiện dé giúp người sáng tao đảm bao rang các tác phẩm trí tuệ của họ được
Công ước Paris được ký kết năm 1883 tại Paris, được sửa đổi tại
<small>Brussels năm 1900, tai Washington năm 1911, tại The Hague năm 1925, tạiLondon năm 1934, tại Lisbon năm 1958 và tại Stockholm năm 1967, và đượcsửa đơi vao năm 1979. Ban đâu có sự tham gia cua 11 nước, nhưng đên ngày</small>
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">15/9/2005 số lượng thành viên đã lên tới 169 (Việt Nam tham gia năm 1981). Công ước Paris ra đời với mục đích nhằm xây dựng các điều kiện có lợi cho việc cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu công nghiệp là công dân, pháp nhân của nước này ở nước khác thuộc thành viên công ước trên cơ sở ngun tắc
<small>tơn trọng luật sở hữu trí tuệ của nước thành viên.</small>
tới nhãn hiệu hàng hố. Tuy nhiên Cơng ước Paris về bảo hộ nhãn hiệu hàng
việc này cho pháp luật quốc gia của các nước thành viên. Một khi nhãn hiệu được đăng ký tại một nước thành viên, đăng ký đó sẽ độc lập với bất kì đăng ký nào (có thé có) tại bat cứ nước thành viên nào khác, kế cả nước xuất xứ. Do đó, nếu đăng ký nhãn hiệu bị mat hiệu lực tại một nước thành viên thi cũng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu đó tại các nước
<small>thành viên khác.</small>
Khi nhãn hiệu đã được đăng ký hợp lệ tại nước xuất xứ, người đăng ký
hợp nhất định, chang hạn như nhãn hiệu có kha năng xâm phạm quyền đã
<small>đăng ký của các bên thứ ba, nhãn hiệu khơng có khả năng phân biệt, nhãnhiệu trái với đạo đức hoặc trật tự cơng cộng hoặc nhãn hiệu có khả năng lừa</small>
dối công chúng. Nhãn hiệu khi đã đăng ký bảo hộ sẽ được sử dụng cho đến khi hết thời hạn hiệu lực; trừ trường hợp chủ sở hữu không chứng minh được
<small>lí do chính đáng của việc khơng có hoạt động sử dụng nhãn hiệu.</small>
Tuy nhiên nếu nhãn hiệu được đăng ký hoặc sử dụng với ý định xấu, sẽ không được hạn chế thời hạn yêu cầu huỷ bỏ đăng ký hoặc ngăn cắm sử dụng. Tương tự, mỗi nước thành viên phải từ chối đăng ký hoặc cắm sử dụng các
<small>nhãn hiệu chứa các biêu tượng quôc gia và các dâu hiệu chính thức mà khơng</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">được phép, với điều kiện các dấu hiệu, biểu tượng đó đã được thơng báo cho
<small>Ban thư ký cua WIPO. Quy định tương tự cũng áp dụng cho huy hiệu, cờ, các</small>
biểu tượng khác, các chữ viết tat và tên của các tơ chức quốc tế liên Chính phủ. Cụ thé, việc này được quy định tại Diéu 6°” của Cơng ước có nêu
Liên minh, bao gồm cả tên viết tắt, tên day đủ của các tổ chức quốc tế liên Chính phủ mà có một hoặc nhiều nước thành viên của Liên minh tham gia; các dấu hiệu kiểm tra xác nhận hoặc bảo đảm chính thức được các nước đó chấp nhận, và bất cứ sự bắt chước nào mang đặc điểm của các yếu tố trên mà
năng bảo hộ đối với nhãn hiệu mà dé pháp luật của các quốc gia tự do quy
về khả năng bảo hộ đối với một nhãn hiệu được nộp đơn quốc tế hoặc các
<small>trường hợp cạnh tranh không lành mạnh.e Hiệp định TRIPs</small>
Hiệp định TRIPs ra đời trong tình trạng pháp luật đang thiếu khả năng giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí
triên mạnh mẽ của thương mại quốc tế đối với những sản phẩm có hàm lượng
hữu trí tuệ đối với hành vi bn bán hàng giả, hàng nhái ngày càng nhiều và
<small>có nhiêu điêu kiện phát triên do sự khác biệt của các quôc gia vê điêu kiện</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">bảo hộ và hiệu lực quyền sở hữu trí tuệ dẫn tới một số tranh chấp thương mại và hành động của một số quốc gia xung đột với qui tắc đối xử quốc gia nêu
<small>trong các Công ước Paris và Berne.</small>
Hiệp định TRIPs là điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ,
<small>tháng 12 năm 1993 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1995.</small>
Hiệp định TRIPs là Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan
quốc gia là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nó đặt ra các tiêu chuẩn tối thiểu cho quy định của quốc gia về nhiều hình thức sở hữu trí tuệ như áp dụng cho các công dân của các quốc gia thành viên WTO khác.
Hiệp định TRIPs được thiết lập với ý nghĩa là một phần những thỏa
<small>thuận thương mai đa phương trong vịng dam phan Uruguay trong khn</small>
tiên khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
tháng 4 năm 1994 và có hiệu lực với tất cả các thành viên WTO ngày 01
<small>tháng 01 năm 1995.</small>
Hiệp định TRIPs đặt ra nhăm mục tiêu bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải góp phan thúc day cải tién cơng nghệ, chuyển giao và phố biến
kiến thức công nghệ phục vụ cho kinh tế, xã hội cũng như bảo đảm sự cân
Tại đây, Hiệp định TRIPs giành riêng mục 2 để đưa ra các quy định về “Nhãn hiệu hàng hoá”. Tại Điều 15 Hiệp Định quy định đối tượng có khả
<small>năng bảo hộ là nhãn hiệu hàng hố gơm các đôi tượng sau:</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Bat kỳ dấu hiệu hoặc tơ hợp dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hang
<small>hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các</small>
doanh nghiệp khác, đều có thé làm nhãn hiệu hang hố. Gồm cả các từ, tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mau sắc cũng
hiệu hàng hố có khả năng tự phân biệt. Đồng thời cũng quy định “các thành
nhìn thấy được” [27, Điều I5].
<small>Ngồi ra, cơng nhận các trường hợp quy định khả năng được đăng kýphụ thuộc vào việc sử dụng. Tuy nhiên, không được coi việc sử dụng thực sự</small>
nhãn hiệu hàng hoá là điều kiện để nộp đơn đăng ký. Điều này có nghĩa là khi
<small>nhãn hiệu được đăng ký phụ thuộc vào “tính phân biệt đạt được thơng quaviệc sử dụng”, một nhãn hiệu khi được đem ra ngoài thị trường sử dụng đủ</small>
hiệu này ra thị trường, tuy nhiên đây cũng là điểm bat cập nếu quy định này
và đánh giá các nhãn hiệu về sau. Một nhãn hiệu dé có thé được bảo hộ thông qua việc sử dụng là việc nhãn hiệu đó nếu ngay từ đầu đem đi đăng ký khả năng bị từ chối sẽ cao do bản thân nhãn hiệu đó khơng phải là các dau hiệu dễ
nhận biết, dé ghi nhớ tới mức người tiêu dùng có thể coi đó là nhãn hiệu dé thơng qua đó tìm mua sản phẩm, dịch vụ mà mình cần. Tuy nhiên những dau
trong một thời gian dài kết hợp với việc họ đầu tư cơng sức và kinh phí vào
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">sản phẩm, dịch vụ nào đó tới mức người tiêu dùng có thể dựa vào dấu hiệu đó
<small>hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp</small>
hiệu hàng hố. Điều này được nhắc tới bao gồm cả trường hợp các từ ngữ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ SỐ, các yếu tố hình hoạ và tơ hợp các mau sắc cũng như tổ hợp bat kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá. Tuy nhiên, đây lại là tiền đề quan trọng để pháp luật của
1.4. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu theo pháp luật một số quốc gia Luật sở hữu trí tuệ nói chung và khả năng bảo hộ đối với nhãn hiệu nói
đến Sở hữu trí tuệ, pháp luật của mỗi quốc gia về sở hữu trí tuệ lại ít nhiều có sự “vênh lệch” dé phù hợp hơn với nền kinh tế, xã hội của quốc gia đó.
<small>© Tại Hoa Kỳ</small>
Các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu tại Hoa Kỳ được điều chỉnh bởi Đạo luật Lanham (Lanham Act) - Luật về Nhãn hiệu ban hành năm 1946 và được sửa đổi nhiều lần trong quá trình áp dụng (lần sửa đổi gần đây nhất là
về nhãn hiệu có phần nào đó khác nhau [20, tr.3]
Trong phần định nghĩa, Luật này quy định: Thuật ngữ nhãn hiệu là bao
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">mà được sử dụng bởi một người, hoặc được một người chắc chăn có ý định sử dụng nó trong thương mại và xin đăng ký theo quy định của pháp luật, dé xác định và phân biệt hàng hóa của người đó [2, Điều 1].
Theo quy định đó, các yếu tổ được cơng nhận trong khái niệm nhãn
<small>của các doanh nghiệp khác nhau như âm thanh, mùi,... dường như chưa đượcbao trùm trong định nghĩa này.</small>
Tuy nhiên, do nhu cau phát triển mạnh mẽ va đa dang của nền kinh tế, Hoa Kỳ là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và cho đăng ký các nhãn hiệu chứa đựng các yếu tố mới (âm thanh, mùi vị,... hay còn gọi là nhãn hiệu phi truyền thống). Thực tiễn này diễn ra là nhờ việc giải thích một điều khoản có tính mở trong Điều 2 Luật Nhãn hiệu năm 1946 của Hoa Kỳ. Trong điều khoản này có quy định: “Khơng có nhãn hiệu nào có khả
<small>năng phán biệt hàng hóa của người nộp đơn với những hàng hóa cua những</small>
thần của điều khoản này, bất kỳ dấu hiệu nào, khơng phân biệt định hình hay khơng định hình nếu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp thì đều có thé được coi là nhãn hiệu, miễn là nó có khả năng phân biệt.
<small>e Tai Châu Âu (EU)</small>
Việc một nhãn hiệu được đăng ký ở Châu Âu sẽ diễn ra theo một quy
nhiều quốc gia khác nhau thuộc vào Liên minh Châu Âu. Để đăng ký nhãn hiệu, người nộp đơn cần thực hiện tại Cơ quan sở hữu trí tuệ Cộng đồng
chung Châu Âu (EUIPO — European Union Intellectual Property Office).
Ở EU, ngoài hệ thống đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trực tiếp ở mỗi quốc
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">gia, cịn có Nhãn hiệu Liên minh châu Âu (European Union Trade Mark, viết tắt là EUTM) hình thành từ năm 1996, và tự động áp dụng nếu nước nào gia
<small>nhập EU. Vậy nên, việc một nhãn hiệu được xét là có khả năng phân biệt và</small>
được bảo hộ tại Châu Âu tức là nhãn hiệu đó được bảo hộ tại 27 quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu (EU). Chính vì thế việc đăng ký và xét duyệt nhãn
trường hợp này, chủ nhãn hiệu có thé chuyên đơn EUTM thành nhiều don đăng ký tại từng quốc gia mà mình muốn. Ngày ưu tiên của đơn vẫn được lẫy từ đơn EUTM. Do hệ thống đăng ký nhãn hiệu ở từng quốc gia hoàn toàn độc lập với hệ thống EUTM nên chủ nhãn hiệu có thể đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở
kinh doanh của từng doanh nghiệp đề quyết định.
Hiện nay, hệ thống Luật nhãn hiệu của EU sau khi sửa đối, Nhãn hiệu Liên minh Châu Âu đã loại bỏ yêu cầu bắt buộc nhãn hiệu phải được thể hiện dưới dạng hình ảnh, mà nhãn hiệu có thể thể hiện bằng cứ hình thức nào thông qua việc sử dụng những công nghệ hiện hành; miễn sự thé hiện là rõ ràng và chính xác. Do đó nhãn hiệu được đăng ký và bảo hộ tại Châu Âu có thé là nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu chuyển động (Motion mark), nhãn hiệu đa phương tiện (Multimedia mark), và các nhãn hiệu phi truyền thống
<small>khác. [32], [33].</small>
Đối với khả năng phân biệt nhãn hiệu tại các quốc gia thuộc EU bên
trắng và nhãn hiệu màu theo EUIPO. Cụ thé, trước đây, một số quốc gia Châu Âu thừa nhận rằng việc bảo hộ nhãn hiệu đen trăng là bảo hộ rộng nhất, tức là bao gồm cả phạm vi bảo hộ nhãn hiệu đó khi thé hiện dưới dạng kết hợp mau
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">sắc khác nhau. Tuy nhiên một số quốc gia khác lại cho rằng nhãn hiệu được bảo hộ như thế nào thì phạm vi bao hộ giới hạn cũng chỉ như vậy, tức là bảo hộ đen trắng thì phạm vi bảo hộ cũng chỉ trong giới hạn đen trắng và tương tự với nhãn hiệu màu sắc. Dé hài hoà pháp luật liên quan đến vấn dé này, Liên minh Châu Âu đã tạo ra một quy định chung giữa các quốc gia Châu Âu như
đánh giá nhãn hiệu đen trăng và nhãn hiệu màu miễn là có sự trùng hoặc
<small>® Tai Nhật Ban</small>
nhận biết được người kinh doanh sử dụng dé phân biệt sản phẩm và dịch vụ
nhận nhãn hiệu với các dấu hiệu chuyền động, hình ảnh ba chiều, màu sắc, âm
<small>thanh và vi trí.</small>
Ngồi các khả năng phân biệt đối với nhãn hiệu, pháp luật về Sở hữu trí tuệ tại Nhật Bản cịn có các quy định vé “sử dụng nhãn hiệu”. Cụ thể tại Nhật Bản có quy định: một nhãn hiệu tại Nhật Bản có thé bị hủy bỏ nếu
hộ nếu có khả năng phân biệt, nhãn hiệu đó cịn cần phải được sử dụng
ton tại và được bảo hộ [4].
nhận và bảo hộ đối với nhãn hiệu phi truyền thống như âm thanh, mùi
<small>hương,... Điêu này giúp mở rộng phạm vi bao hộ đôi với nhãn hiệu được</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">đăng ký. Trên thực tế, tại các quốc gia này đã ghi nhận các đơn đăng ký nhãn
<small>hiệu cho trường hợp này. Ví dụ như: tại Hoa Kỳ có bảo hộ mùi hương kẹo cao</small>
su cho sản phẩm Chất lỏng làm sạch kim loại trong công nghiệp [IC 004]. Hay đối với nhãn hiệu được bảo hộ âm thanh tiếng nói của con người đang lắc
<small>có chủ đơn là Yahoo !, Inc.</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">hiệu, nhất là tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về khả năng phân biệt của nhãn hiệu bao gồm khái niệm, phân loại nhãn hiệu theo khả năng
<small>phân biệt của nhãn hiệu, phương thức xác định khả năng phân biệt của nhãn</small>
hiệu. Đồng thời việc nghiên cứu về khái niệm, các cách phân loại nhãn hiệu ý
<small>Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu</small>
đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Điều này giúp các cá nhân, tổ chức học hỏi, mở rộng hơn các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu, nhất là ý thức hơn
<small>của người khác.</small>
Kết quả nghiên cứu Chương 1 là cơ sở, tiền đề cho q trình làm rõ, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng phân biệt của
<small>34</small>
</div>