Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.75 MB, 87 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>KHOA LUẬT</small>
HÀ NOI - 2006
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Chương 1: những van đề chung về bảo hiểm nhân thọ</small>
<small>Khái luận về bảo hiểm nhân thọ</small>
<small>Quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm</small>
<small>nhân thọ Việt Nam</small>
<small>Vai trò của bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân</small>
<small>Chương 2: pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảohiểm nhân thọ</small>
<small>Hoạt động bảo hiểm phải tổ chức kinh doanh theo cáchình thức doanh nghiệp nhất định</small>
<small>Bảo hiểm nhân thọ là loại hình kinh doanh có điều kiệnTài chính doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ</small>
<small>Trung gian bảo hiểm nhân thọ</small>
<small>Chuyên giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ</small>
<small>Chương 3: một số nhận xét chung và kiến nghị</small>
<small>Một số nhận xét về pháp luật đối với doanh nghiệp kinh</small>
<small>doanh bảo hiểm nhân thọ</small>
<small>Hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh</small>
<small>bảo hiểm nhân thọ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>1. Sự cân thiêt của việc nghiên cứu đê tài</small>
Từ thang 8 năm 1996, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của
<small>phi nhân thọ (cách đây hơn 40 năm) thì đó là khoảng thời gian khơng dài</small>
kiệm vừa mang tinh chất phòng ngừa rủi ro. Với sự phát triển ôn định của nền kinh tế, thu nhập của người dân ngày càng tăng thì hoạt động này càng có điều kiện phát triển và trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho nên kinh tế. Không chỉ là kênh huy động vốn nhàn rỗi, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thu hút, tạo việc làm mới cho trên
100.000 lao động có thu nhập ồn định (gồm cán bộ nhân viên và đại lý), hàng
được các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho thị trường, đáp ứng được
<small>Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, Nhà nước ta đã xác lập tính đa dạng cua</small>
các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm bằng việc có những quy định làm tiền đề cho sự ra đời của các công ty bảo hiểm nhân thọ sau này. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã mang lại những lợi ích
bảo hiểm, là công cụ thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế.
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn phải đảm bảo sự vững chắc
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">về tài chính, tạo niềm tin cho hàng triệu khách hàng tham gia. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, đàm phan dé gia nhập Tổ chức Thuong mại Thế giới (WTO). Quá trình này tất yếu buộc nước ta phải mở rộng cửa thi trường dé có thêm các cơng ty bảo hiểm nước ngồi vào Việt Nam. Vì vậy,
hoạt động này phát triển lành mạnh phục vu cho công cuộc phát triển và xây
<small>2. Tình hình nghiên cứu</small>
Ở các nước có nên kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời va
thọ mang lại đã tạo cho ngành kinh doanh này có một chỗ đứng rất vững vàng trong đời sống kinh tế xã hội. Vị thế của bảo hiểm nhân thọ ngày càng được thê hiện một cách rõ nét ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới.
bảo hiểm nhưng chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chưa có
Trước đây, cũng đã có một số luận văn thạc sĩ đề cập đến những vấn dé liên quan đến pháp luật về kinh doanh bảo hiểm như:
+ Nguyễn Anh Tú: Mới số van dé pháp lý về hợp đồng bảo hiểm,
<small>Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001.</small>
+ Thái Văn Cách: Thuc trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phương
<small>hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001.</small>
+ Vương Việt Đức, Hop dong bảo hiểm tài sản, Luận văn Thạc sĩ
<small>Luật học, 2003.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa nghiên cứu cụ thể những quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, về doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, một loại hình kinh doanh có thé nói là
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiém nhân thọ theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học.
<small>3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn</small>
Trên thế giới, ở những nước phát triển, hoạt động bảo hiểm nhân thọ
<small>đã có lịch sử hàng trăm năm và trở nên vô cùng quen thuộc với đơng đảo người</small>
dân. Trong khi đó, ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn rất mới mẻ. Quá trình tìm hiểu và xây dựng nghiệp vụ chủ yếu theo hướng vừa làm vừa học, tham khảo tài liệu của nước ngoài. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt
và ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ giúp các
đặt ra cho quá trình nghiên cứu luận văn là xem xét một cách tổng quát, toàn
pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ cũng như các quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhăm tao ra một hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, giúp khuyến khích, thu hút ngày cảng nhiều các tầng lớp dân cư tham gia bảo hiểm, góp phần đảm bảo an
<small>sinh xã hội, thúc đây cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>4. Phương pháp nghiên cứu</small>
Dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chỉ đạo hoạt động
văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, luận văn sẽ nhìn nhận
<small>so sánh, đôi chiêu, tông hợp với thực tiễn dé rút ra kết luận.</small>
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn hết sức mới mẻ, vì vậy
nhân thọ, đồng thời chỉ ra những điểm không phù hợp với thực tiễn kinh doanh
hon cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, thúc day hoạt động
là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
<small>6. Kêt cau của luận văn</small>
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những van đề chung về bảo hiểm nhân tho.
Chương 2: Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân tho.
<small>Chương 1</small>
<small>1.1. KHAI LUAN VE BAO HIEM NHAN THO</small>
1.1.1. Khai niệm va đặc điểm của bảo hiểm nhân tho
Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã có từ rất lâu, vào năm 1762, Cơng
thành lập mang tên là Cơng ty bảo hiểm nhân thọ Hồng gia, sau đó một thời gian ở các nước Châu Âu khác cũng dần dần xuất hiện bảo hiểm nhân thọ. Ở
cơng ty bảo hiểm nhân tho Meiji đã ra đời và đi vào hoạt động năm 1868.
Theo thời gian, bảo hiểm nhân thọ phát triển và trở thành một ngành dịch vụ tài chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện ích cơ bản của nó là mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với
thé có một tổ chức nào có thé cung cấp một giá trị trong đương với một sinh mạng con người, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thỏa thuận dựa trên một số tiền cụ thể chứ khơng mang tính chất bồi thường như bảo hiểm tài sản
Khoản 12 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống hoặc chết" [25].
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Từ điền thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân tho là
người thụ hưởng - thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ
hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số
chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người
dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu nhập [18, tr.
phát sinh cái chết của người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ là một thé loại bảo hiểm, trong đó dé nhận được phí bảo hiểm
sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị
trong hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc
<small>Những định nghĩa trên tuy được trình bày khác nhau, nhưng tựu chung</small>
lại đều thé hiện những đặc trưng nồi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là:
hiểm xã hội, bảo trợ xã hội của Nha nước).
- Bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích, có thé được sử dụng dé ap ứng nhiều mục dich khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng. Do vậy, san
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">phẩm bảo hiểm nhân thọ thường rất đa dang (mỗi sản phẩm chi đáp ứng được
<small>năng động và linh hoạt cao.</small>
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau là sống và chết. Điều này cũng có nghĩa
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó điều khoản
cho sự duy trì quan hệ hợp đồng dài nhiều chục năm, thậm chí là cả đời
phải được tính tốn cân thận và công bố rõ ràng tới khách hàng. Đồng thời, dịch vụ khách hàng là khâu quyết định có tính chất sống cịn tới việc duy trì hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình sản phẩm bảo hiểm vơ hình. Vi vậy,
hỏi nghiêm ngặt đối với các cơng ty bảo hiểm.
Có thể thấy bảo hiểm nhân thọ có những đặc điểm cơ bản là:
nhân thọ không đảm bảo những chi phí y tế như trong các loại hình bảo hiểm tai nạn và sinh mạng cá nhân trong bảo hiểm phi nhân thọ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">- Bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Đây là một trong những hình
động dan dan, phủ hợp với kha năng tích lũy của mọi đối tượng, từ những người có thu nhập thấp đến những người có thu nhập cao. Chính hình thức tơ
có nhiều mức phí tùy theo sự lựa chọn và khả năng tài chính của người tham
đã đem lại thành công cho bảo hiểm nhân thọ (xem sự khác nhau giữa bảo
<small>chương 1).</small>
- Là loại hình bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm dai hạn, nguồn phí bao hiểm được sử dụng để đầu tư và người tham gia bảo hiểm được hưởng một phần lãi từ hoạt động đầu tư đó vì bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm.
Trong khi đó, bảo hiểm phi nhân thọ mang tính ngăn hạn, chỉ bồi thường khi co tai nạn, rủi ro xảy ra nên các doanh nghiệp bao hiểm không được phép kinh doanh đồng thời bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ (khoản 2
đối tượng bảo hiểm chỉ là con người, pháp luật đã quy định có tính chất ràng
hai ràng buộc chính được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (2000),
moi quốc gia cho phép kinh doanh bảo hiểm nhân tho.
là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyên tải sản; quyền, nghĩa
<small>định nghĩa mang nặng tính pháp lý, phản ánh hình thức pháp lý của quan hệ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">định nghĩa khái niệm này thiên về yêu cầu của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
mát hoặc thiệt hại lớn nếu sự kiện được bảo hiểm xảy ra" [45, tr. 14]. Lý do
cho người bị thiệt hại khi một rủi ro xảy ra và như vậy, sự đền bù phải dành
đạt được mục đích. Mặt khác, nếu khơng có u cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, hiện tượng trục lợi bảo hiểm trên tài sản, tính mạng, sức khỏe của
người khác, đi ngược lại đạo đức và pháp luật sẽ xảy ra phổ biến bởi bat cứ ai
người khác va sau đó cé tình gây ra rủi ro để thu lợi bất chính từ tiền bồi
Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) chỉ cho phép bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho những người sau đây:
- Bản thân bên mua bảo hiểm;
- Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng;
- Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thê được bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quy định những đối tượng được
xã hội cho rằng những người thân thiết, ruột thịt trong gia đình là những
hệ giữa người cho vay và người đi vay (nếu người đi vay gặp rủi ro khi chưa
lao động bi mất nhân cơng, nói cách khác là mất chi phí tuyên dụng và dao
diện cả khi thanh toán quyền lợi bảo hiểm (Mỹ, Canađa...) [43]. Quy định
<small>bảo vệ doanh nghiệp trước rủi ro bị khách hàng lợi dụng và trục lợi.</small>
Thứ hai, ràng buộc về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết. Quy định này cũng là một thông lệ đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên khắp thế giới nhằm bảo vệ tính mạng của đối tượng được
<small>này như sau:</small>
- Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho
<small>người thụ hưởng phải có sự đông ý băng văn ban của bên mua bảo hiém.</small>
chết của người đang mắc bệnh tâm thần [25].
Quy định này nhắn mạnh đến yếu tố nhất tri của người được bảo hiểm
day đủ - như bị tâm thần hoặc dưới 18 tuổi - hợp đồng không thé được giao
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">hai yêu tố chính: nhất trí về việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trên sinh mạng của mình và nhất trí về người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm không may qua đời. Sự nhất trí của người được bảo hiểm chính là một đảm bảo chắc chắn rằng, người được bảo hiểm biết rõ và
rằng, ai sẽ là người được nhận quyên lợi bảo hiểm khi mình chết. Day chính
những người không hoặc chưa có khả năng nhận thức đầy đủ cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Quy định này cũng góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đảm bảo cho nó giữ đúng
<small>được giá tri và ý nghĩa nhân văn của bảo hiêm nhân thọ.</small>
Trên đây là hai ràng buộc cơ bản mà pháp luật áp đặt đối với việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Những ràng buộc này có thể tìm thấy ở pháp
<small>và tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực này trong hang trăm năm</small>
hiểm ở các nước cũng như Việt Nam tuân thủ triệt dé và tinh thần của nó khơng chỉ được tìm thấy trong điều khoản hợp đồng bảo hiểm của các doanh
<small>nghiệp mà còn trong mọi hoạt động tác nghiệp hàng ngày ở các doanh nghiệp.</small>
Tóm lại, với những đặc điểm riêng, đã từ lâu, bảo hiểm nhân thọ giữ một vai trị vơ cùng quan trọng trên thị trường bảo hiểm thế giới và hiện nay càng ngay càng khang định được vi trí quan trọng của mình trên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam. Với các loại hình sản phẩm đa dạng, bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Với mỗi cá nhân, đó là nhu cầu thực hiện có hiệu quả các kế hoạch tài chính dài hạn, nhu cầu
nguồn tài chính khi già cả, mất khả năng lao động tạo ra thu nhập và các nhu
<small>câu bao đảm về tài chính khi gặp các rủi ro vê sức khỏe. Với các cơ quan, tơ</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">chức, đó là nhu cầu bi đắp chi phí tuyên dụng và đào tạo lại nhân công trong
lao động, đặc biệt là những lao động có kiến thức và trình độ và nhu cầu có ngn tài chính hỗ trợ người lao động cũng như gia đình của họ vượt qua khó
<small>thọ đang ngày càng được cả xã hội quan tâm.</small>
1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản
Đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ được thiết kế gồm năm loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân cơ bản, trong mỗi loại hình lại
hiểm nhóm va bảo hiểm bé trợ.
* Bảo hiểm sinh kỳ
Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25].
Các đặc điểm của bảo hiểm sinh kỳ là:
bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm sẽ chấm dứt ngay nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm.
<small>câu trong cuộc sông. Vi dụ như mua bảo hiém sinh kỳ cho con tức là sẽ có</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">* Bảo hiểm tử kỳ
việc thanh tốn khơng được thực hiện, chính vì vậy phí bảo hiểm luôn được
hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm
<small>một thời hạn được xác định trước [45, tr. 31].</small>
Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm tử kỳ là:
- Chỉ bảo hiểm rủi ro mà khơng có yếu tố tiết kiệm;
- Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng được xác định rõ ngay khi giao kết
Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ
<small>hiém tăng dân.</small>
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Mục đích của loại hình bảo hiểm này là cung cấp sự bảo vệ trước rủi ro trong một thời hạn xác định; đồng thời, hợp đồng bảo hiểm loại này cịn có
hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống
hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được
nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó quyền lợi bảo hiểm được thanh toán khi người được bảo hiểm chết hoặc vào
<small>[45, tr. 31].</small>
- Vừa bảo hiểm rủi ro va có tính tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm được xác định trước;
Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ
Mục đích của loại hình bảo hiểm này là kết hợp giữa việc đề phịng rủi
* Bảo hiểm trọn đời
Đây là loại hình bảo hiểm mà số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán cho
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">đến một lúc nào đó hợp đồng chắc chắn được thanh toán. Điều 3 Luật kinh
Kỳ định nghĩa bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ
- Thời hạn bảo hiểm không xác định được trước, thời hạn bảo hiểm cham dứt khi người được bảo hiểm chất;
Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm trọn đời biến đổi, bảo hiểm trọn đời phổ thông, bảo hiểm
<small>trọn đời chung, bảo hiêm người cịn sơng ci cùng.</small>
kiệm. Sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng trang trải các chi phí hậu sự
<small>qua đời.</small>
định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả
bảo hiểm" [25].
<small>Các đặc diém noi bật của niên kim nhân tho là:</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">- Quyền lợi bảo hiểm được thanh toán thành nhiều lần theo định kỳ và
- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải trả tiền cho khách hàng.
Loại hình bảo hiểm này thường được thê hiện thành các sản phẩm phô biến như: niên kim trả ngay, niên kim hoãn trả, niên kim biến đổi, niên kim
<small>thu nhập trọn đời trong thời hạn được đảm bảo.</small>
hiểm hưu trí cho người cao tuổi. Đây chính là một hình thức bảo hiểm xã hội
1.1.2.2. Bảo hiểm nhóm
Loại hình bảo hiểm này có đặc điểm cơ bản khác với bảo hiểm cá nhân là thay vì bảo hiểm cho một cá nhân theo một hợp đồng, bảo hiểm nhóm
nhân, nhưng bảo hiểm cho một nhóm người. Các bên trong hợp đồng bảo
Ưu điểm của loại hình bảo hiểm nhóm là thủ tục tham gia đơn giản, phí bảo hiểm thấp, loại hình bảo hiểm này giúp góp phần gắn kết, khuyến khích, tăng phúc lợi cho người lao động (khách hàng chủ yếu của bảo hiểm
<small>nhóm là người lao động).</small>
Tuy nhiên, loại hình bảo hiểm này cũng có một số hạn chế so với loại hình bảo hiểm cá nhân như sản pham khơng đa dạng phong phú như sản phẩm
<small>bảo hiém cá nhân, ít người sử dụng lao động mua cho nhân viên, tập thê cua</small>
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">lớn, thời hạn bảo hiểm thường ngắn (1 năm), phức tạp cho thủ tục và công tác quản lý hop đồng khi số lượng thành viên của nhóm có sự xáo trộn như tăng
<small>hoặc giảm....</small>
Việc phát triển loại hình bảo hiểm nhóm phụ thuộc vào chính sách,
nhóm phù hợp hon, hap dẫn hơn dé đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Những sản phẩm này rất da dang, trong đó nỗi bật phải kế đến bảo hiểm chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm thương tật bộ
viện, bảo hiểm bệnh hiểm nghéo, bảo hiểm từ bỏ thu phí... Các sản phẩm nay
hiểm nhân thọ.
<small>bảo khác</small>
vụ bảo hiểm được phân thành 2 nhóm là Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi
bảo hiểm nhân thọ có thể giúp người được bảo hiểm vừa đạt được mục đích chống lại rủi ro vừa có mục đích tiết kiệm. Thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ ngắn, thông thường là một năm, bên cạnh đó có những hợp
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">vài giờ (trong bảo hiểm tai nạn hành khách). Trong khi đó, thời hạn bảo hiểm
Trong bảo hiểm phi nhân thọ, có một số nghiệp vụ bắt buộc phải mua bảo hiểm đã được quy định trong luật pháp để giúp phát huy tối đa tác dụng
cộng đồng, bên cạnh đó khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, sẽ có một cam kết ràng buộc giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, bên mua bảo
cham dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những quy định
hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm có quyền cham dứt hợp đồng vào bat cứ thời điểm nào và không cần viện dẫn lý do.
việc nó khơng xảy ra. Trái lại trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm có thé bảo hiểm việc xảy ra biến cé tử vong hoặc không xảy ra sự cố tử
Tóm lại, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, mỗi loại hình bảo hiểm đều có những đặc trưng riêng có của mình, nhưng tựu trung lại cả hai loại hình này đều có tác dụng và vai trị rất to lớn, không thê thiếu được
chế độ bảo hiểm nên có những điểm chung về bảo hiểm. Nhưng vì là hai loại
<small>hình bảo hiêm khác nhau nên có sự khác nhau về nhiêu mặt như sau:</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">hiện theo pháp luật của nhà nước, nhằm mục đích đảm bảo đời sống cơ bản cho mọi người trong xã hội, giữ vững én định trong xã hội, người được bảo hiểm có quyền lợi được đảm bảo trọn đời. Quá trình hoạt động của bảo hiểm
<small>xã hội thê hiện rõ đặc diém của quan hệ hành chính.</small>
Bảo hiểm thương mại là loại hình do mọi người tự nguyện tham gia bảo
gia bảo hiểm thì người đó được hưởng qun lợi bảo hiểm. Đây là hoạt động kinh doanh kiếm lời của doanh nghiệp bảo hiểm. Mọi quy tắc, trách nhiệm bảo hiểm đều phải thực hiện một cách chặt chẽ theo đúng quy định của hợp đồng bảo
Thứ hai: Khác nhau về đối tượng và chức năng bảo hiểm.
cịn thực hiện việc nhà nước phân phối lại thu nhập xã hội bằng cách tập trung
<small>chức năng công băng xã hội.</small>
Đối tượng bảo hiểm thương mại thường không có quy định đặc biệt mà áp dụng đối với tất cả các tổ chức, công dân dựa vào nguyên tắc tự nguyện lựa chọn, tự nguyện tham gia bảo hiểm. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm thương mại là bồi thường hoặc chỉ trả số tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm
Việc trả tiền bảo hiểm xã hội xuất phát từ mục đích đảm bảo mức sống cơ bản của người lao động. Mức độ đảm bảo này được dựa trên mức tiêu
<small>dùng bình quân của xã hội, các u tơ tăng giá cả hàng hóa... Đơi với mức</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Thứ ba: Sự hình thành, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau:
những người tham gia bảo hiểm trong đơn vị, trong đó 10% là quỹ lương hưu,
<small>+ Nhà nước hỗ trợ thêm để thực hiện các chế độ bảo hiểm đôi vớingười lao động.</small>
+ Các nguồn khác...
Quỹ bảo hiểm thương mại:
Quỹ bảo hiểm thương mại hình thành trên cơ sở thu phí bảo hiểm của
quỹ bảo hiểm riêng biệt, độc lập với ngân sách nhà nước. Quỹ nay không do
ro bảo hiểm xảy ra. Nguồn quỹ này chỉ sử dụng vì các mục đích cho đối
<small>tượng tham gia, khơng sử dụng vào các mục đích khác. Nhà nước khơng được</small>
<small>sử dụng quỹ này.</small>
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">tiết kiệm. Nhưng giữa hai loại hình tiết kiệm này có một sự khác biệt lớn, đó
<small>tham gia trong khi hoạt động ngân hàng khơng có.</small>
Có thé thấy, tiết kiệm ngân hang chỉ mang tính tiết kiệm đơn thuần trong khi đó bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả tiết kiệm với bảo hiểm. Trong quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ (5, 10, 15 năm hoặc dai hon), số phí đóng
gia được đảm bảo về quyền lợi khi khơng may gặp rủi ro. Tính bảo hiểm thấy rõ nhất là trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm nhân thọ vừa nộp phí | tháng thì khơng may bị thương tật tồn bộ vĩnh viễn, theo cam kết người đó sẽ được miễn phí cho tồn bộ thời gian cịn lại của thời hạn nộp phí. Số phí đã nộp rõ ràng nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lợi người tham gia bảo
bộ vĩnh viễn, người đó chang được qun lợi gì ngồi số lãi trên số tiền gửi.
Với hình thức gửi tiền tại ngân hàng, người gửi tiền phải tự đem tiền đến ngân hang dé gửi. Theo vi dụ dưới đây, trong 15 năm người gửi tiền phải đến ngân hàng 15 lần để gửi tiền, tuy nhiên nếu người đó chọn hình thức gửi tiền theo tháng (tương đương với hình thức nộp phí tháng khi tham gia bảo hiểm nhân thọ) thì người đó sẽ phải đến ngân hàng tổng số 15 x 12 = 180 lần,
ràng, việc đi gửi tiền như trên rất mất thời gian và đường như không thé thực
tiền chỉ có thể gửi tiền với số tiền lớn nhất định; không thể hàng tháng mang mấy chục ngản đi gửi ngân hàng.
Ngược lại, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia không
<small>sơ tiên tiét kiệm hang thang là mây chục ngàn dong và sô tiên này được đâu</small>
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">"có kỷ luật", đồng thời cũng có những cơ chế tạo điều kiện để khách hàng
<small>thời mọi quyên lợi bảo hiêm van được đảm bảo.</small>
(thường với lãi suất ưu đãi) khi nợ phí vượt quá 60 ngày như trên mà chưa có tiền đóng phí tiếp (với điều kiện hợp đồng đã có giá trị giải ước và tổng các
Thêm một quyền lợi nữa là trong thời gian tham gia bảo hiểm nếu khơng
hiểm, theo đó số tiền nộp mỗi kỳ cũng sẽ giảm đi hoặc được duy trì hợp đồng
tham gia luôn được bao đảm quyên lợi. Điều nay that dễ hiểu là vì, chỉ khi bảo đảm được quyên lợi cho người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm
<small>1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIEN CUA THỊ TRUONGBẢO HIEM NHÂN THỌ VIỆT NAM</small>
Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1996 trong điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều thuận lợi. Vào thời điểm này, sau một thập kỷ đôi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đời sống người dân được cải thiện dẫn đến có dư thừa, người dân bắt đầu quan tâm đến việc thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn. Trình độ dân trí được nâng cao cùng với sự phát
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">xuất hiện của loại hình dịch vụ như bảo hiểm nhân thọ. Trong bối cảnh đó, Nhà nước cũng đã bước đầu có những chính sách thơng thống, tạo điều kiện
cho bảo hiểm nhân thọ phát triển.
đồng tiền chưa được đảm bảo khiến cho người dân ít có khả năng cũng như tâm
một loại dịch vụ hoàn toàn mới, chưa từng xuất hiện trên thị trường Việt Nam,
chưa có đủ kiến thức và kinh nghiệm về loại hình dịch vụ mới mẻ này. Cũng vì
được một hành lang pháp lý thật sự phù hợp cho bảo hiểm nhân thọ phát triển.
20/3/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính ra Quyết định số 281TC/TCNH về việc triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ, theo đó, Bộ Tài chính cho phép Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam tô chức triển khai thí điểm bảo hiểm nhân tho với hai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm và 10 năm và bảo hiểm trẻ em - chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Với quyết định này, Bảo Việt trở thành doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên và duy nhất trên thị trường tại thời điểm đó tiến hành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Ngày 01/8/1996, Bảo Việt phát hành những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu
tiên thuộc hai loại hình bảo hiểm này qua kênh phân phối là các đại lý bán hàng trực tiếp phục vụ tại địa chỉ do khách hàng yêu cầu.
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">chóng nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội và đầu tư, sự phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển sau đây:
<small>- Giai đoạn I (tháng 8/1996 - 6/1999):</small>
hiểm nhân thọ tại Việt Nam, đó là Tổng Cơng ty Bảo hiểm Việt Nam. Điểm noi bật nhất của giai đoạn nay là sự độc quyền của Tổng Công ty Bảo hiểm
phẩm triển khai thời gian này cịn tương đối đơn giản, phản ánh đúng trình độ và khả năng của thị trường ở giai đoạn đầu. Số lượng hợp đồng khai thác được tăng khá nhanh, cho thấy tiềm năng đầy hứa hẹn của thị trường Việt
Theo báo cáo nghiệp vụ của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam, chỉ tính
Tuy nhiên, lúc này số tiền bảo hiểm bình qn cịn tương đối nhỏ va phương thức đóng phi tháng là lựa chọn phổ biến của khách hàng tham gia bảo hiểm. Trong giai đoạn này, tổ chức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt
chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ có sẵn của các công ty thành viên kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
<small>- Giai đoạn 2 (thang 6/1999 - nam 2003):</small>
Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường Bảo hiểm Việt Nam với sự tham gia của 4 công ty bảo hiểm nhân thọ đều là các doanh
hạn Bảo hiểm nhân thọ Prudential (100% vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc từ Anh), Cơng ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Baominh-CMG (liên doanh
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">giữa Cơng ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh - một doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và Công ty CMG của Úc), Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIA - 100% vốn đầu tư nước ngồi có nguồn gốc từ Hoa Kỳ) và Cơng ty trách nhiệm hữu han Bảo hiểm Manulife (100% vốn dau tư nước ngồi
Các cơng ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài mới vào Việt Nam và tập trung đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm mới, thu hút nhiều sự quan tâm của người tiêu dùng. Ké từ đây, hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã có những bước tiến nhanh chóng và vững chắc, quy mô thị trường bảo hiểm nhân thọ được mở rộng từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân
hạn bảo hiểm, phương thức và thời hạn nộp phí, phương thức thanh toán.
phận các quyền lợi mà một chủ hợp đồng có thê có được theo thơng lệ quốc
nhân thọ đã phát triển một cách rõ rệt. Mơ hình tổ chức ở tất cả các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã thé hiện tính chun nghiệp hóa và
<small>đê người dân lựa chọn, thu hút được nhiêu sự quan tâm của người tiêu dùng.</small>
như đáp ứng nhu cầu tích lũy tài chính cho những dự án, mục tiêu trong tương
lượng cao, b6 sung thu nhập khi nghỉ hưu, tích lũy và 6n định đảm bảo tai
<small>chính cho việc học hành của con cải.</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Dưới đây là Bảng số liệu thống kê so sánh tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Nhân thọ và bảo hiểm Phi nhân thọ giai đoạn này [32].
<small>Các chỉ tiêu chủ yếu 1996 1999 2002 2003Bảo hiểm Tổng số doanh nghiệp 1 3 4 4</small>
nhân thọ Í Doanh thu phí (tỉ đồng) 1 485 4.368 6.575
<small>Đóng góp vào GDP (%) 0,12 0,81 1,18</small>
<small>Tổng số doanh nghiệp 6 10 13 14</small>
<small>Bao hiém phi ra HÀ</small><sub>nhân thọ Doanh thu phí (tỉ đơng) 1.263 1.606 2.624 3.815</sub>
<small>Đóng góp vào GDP (%) | 0.46 0.40 0.49 0.54</small>
Qua bảng số liệu trên cho thấy, giai đoạn từ cuối năm 1999 đến năm 2003,
thời kỳ (1,11 lần/năm) [32], tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường Việt Nam lớn hơn nhiều. Tỉ lệ doanh thu trên GDP của bảo hiểm nhân thọ tăng mạnh,
từ chỗ năm 1999 tỉ lệ là 0,12%, năm 2003 đạt 1,18% (tăng 1,06% GDP), tăng hơn rất nhiều so với doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, mặc dù từ
lớn hơn nhiều so với số lượng công ty bảo hiểm nhân thọ.
Là giai đoạn thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam dan đi vào 6n
thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khai thác mới giảm từ 1.024.802 năm 2003 hợp đồng xuống còn 808.514 hợp đồng năm 2004 và tỉ trọng hợp đồng mới trong tổng hợp đồng giảm từ 60,63% năm 2001 xuống còn 44,85% năm 2004. Tốc độ tăng trưởng của thị trường Việt Nam xuống mức tương đương với tốc độ phát triển của
<small>khoảng thời gian 2003 - 2004) [22].</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 100% vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép
02 Cơng ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm là ACE Life va New York Life
năm tăng trưởng chậm và khó khăn nhất của thị trường bảo hiểm nhân thọ, số lượng hợp đồng khai thác mới năm 2005 chi đạt 1.198.000 hợp đồng giảm 33,6% so với năm 2004 (Bản tin Hiệp hội, số 4/2005) do một số yêu tổ tác động như giá vàng tăng mạnh, lãi suất ngân hàng cao, số lượng hợp đồng đáo hạn ngày càng lớn... nhưng hy vọng rang với sự góp mặt của những tên tudi
<small>cho bảo hiểm nhân thọ trong một vai năm tới.</small>
Mặc dù có dấu hiệu chững lại của thị trường nhưng so với các nước
nhiều tiềm năng phát triển. Một mặt, nhận thức của người tiêu dùng về tam
Số liệu thống kê cho thấy, hiện tại tỷ trọng người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ còn rất thấp (7%), phí bảo hiểm nhân thọ mới chỉ chiếm 1,25%
3/2005). Tỉ lệ tiết kiệm trên GDP của Việt Nam năm 2002 là 22,5%. Tỉ lệ này
(40,1%), Hàn Quốc (33,6%), Singapore (51,7%), Malaysia (47,3%), nhưng lại
Khả năng khai thác bảo hiểm nhân thọ đến năm 2010 theo Chiến lược phát triển bảo hiểm nhân thọ Việt Nam được mô tả ở bảng dưới đây:
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>Chỉ tiêu đánh giá 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010</small>
<small>Ty lé tiét kiém trén GDP (%) 27% | 28% | 28% | 29% | 30%</small>
<small>Thị trường tiềm năng % của tiết kiệm 11,50%| 13% |13,50%| 14% | 15%</small>
<small>Phí bảo hiểm tiềm năng (tỉ đồng) 22.560 | 28.009 | 31.791 | 36.478 | 43.250Ty lệ phí có thé khai thác (% của phí tiềm năng) | 69% | 68% | 72% | 73% | 71%Phí bảo hiểm nhân thọ trên đầu người (US$) | 10,85 | 13,16 | 15,60 | 18,05 | 20,65Phí bảo hiểm nhân thọ/người (nghìn đồng) | 184.41 | 223,69 | 265,24 | 306,93 | 351,00</small>
<small>Tỷ lệ phí khai thác tổng tiết kiệm (%) 7,89% | 8,82% | 9,68% | 10,25% | 10,72%</small>
Nguôn: Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 2003-2010. Nói tóm lại, trải qua 10 năm hoạt động, thị trường bảo hiểm nhân thọ
ồn định tài chính cho các cá nhân, tổ chức và toàn nền kinh tế, vừa tăng
Tại thời điểm hiện nay, qua các giai đoạn phát triển và bình ồn, thị
<small>thọ tham gia thị trường.</small>
<small>1.3. VAI TRO CUA BAO HIEM NHÂN THỌ TRONG NEN KINH TẾ</small>
<small>QUOC DAN</small>
Bảo hiểm nhân thọ ra đời đã có những đóng góp quan trong trong nền
<small>thọ dưới đây:</small>
Bảo hiểm nhân thọ ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu 6n định tài chính, khắc phục hậu quả rủi ro xảy ra có thể mang đến những thiệt hại bất thường đối với tính mạng của con người, giúp khách hàng nhanh chóng khắc phục
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">kiệm dài hạn và đều đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đề ra, tạo lập một
thọ điển hình như sản phẩm bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm trợ cấp y tế, bảo hiểm nhân thọ tiết kiệm, người dân có thé được hưởng thêm nhiều quyền lợi
tai, có kinh phí cho trẻ em đi học, tăng thêm thu nhập khi về hưu hoặc bảo
<small>đảm có thu nhập trong trường hợp lao động chính trong gia đình khơng may</small>
Các quyên lợi này sẽ bổ sung các quyền lợi bảo hiểm xã hội và chế độ
<small>ngân sách nhà nước cho các hoạt động hỗ trợ trong trường hợp xảy ra các</small>
thảm họa lớn do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Số liệu thống kê cho thấy, từ năm 1996 đến nay, bảo hiểm nhân thọ nói riêng và ngành bảo hiểm nói chung đã đóng góp vào 6n định kinh tế - xã hội thông qua số tiền bồi thường và chi
tiền này đã góp phần không nhỏ giúp cho các doanh nghiệp vượt qua được bờ
<small>- Tạo việc làm cho xã hội:</small>
đại, ngành bảo hiểm nhân thọ đã thu hút hơn 100.000 lao động làm việc tại
<small>làm cho các ngành khác có liên quan như giám định sức khỏe, công nghệ</small>
thông tin, ngân hang, in ấn, quảng cáo... giải quyết tình trạng thiếu việc làm
hiểm nhân thọ cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện, tài trợ
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">các chương trình thể thao, tư vấn y tế, hỗ trợ đào tạo, an tồn giao thơng và
<small>các hoạt động xã hội khác.</small>
<small>- Tập trung nguôn von dau tư cho nên kinh tế:</small>
Với vai trò là một trung gian tài chính, bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện
một kênh huy động vốn quan trọng trong nền kinh tế. Nguồn vốn nay không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà cịn góp phan thực hành tiết kiệm, chống lạm phát. Do đặc thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là thời hạn tham gia bảo hiểm dài (từ 5 năm trở lên), vì vậy phần lớn lượng tiền mà doanh nghiệp tập trung được từ phí bảo hiểm có thời gian tạm thời nhàn rỗi,
được tập hop dé hình thành nguồn vốn lớn, tập trung có thé đáp ứng các nhu
<small>câu von trung va dài hạn của nên kinh tê.</small>
những khoản dau tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên doanh, mua cổ
tài chính, kích thích các luồng vốn vận động theo nhu cầu phát triển kinh tế
<small>-xã hội, tăng tính khả thi của những dự án lớn, nâng cao hiệu quả của việc</small>
nghìn tỉ đồng. Con số nảy đã góp phần khơng nhỏ vào việc tăng trưởng nền kinh
<small>tê nói chung.</small>
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">công cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện trong quyết định
hiểm nhân tho từ 2% dân số năm 2002 lên 10% dân số vào năm 2010 [10].
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đời sống con người
<small>trong đó có Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu hồn thiện quy định pháp luật</small>
về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ thực sự đóng vai trị rất quan trọng giúp cho hoạt động này ngày càng phát trién.
<small>3l</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>Chương 2</small>
<small>2.1. HOAT DONG BẢO HIẾM PHAI TO CHỨC KINH DOANH THEO</small>
<small>CÁC HÌNH THỨC DOANH NGHIỆP NHÁT ĐỊNH</small>
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều hình thức pháp lý doanh nghiệp khác nhau. Thông thường, doanh nghiệp được tổ chức dưới bốn hình
<small>thức pháp lý cơ bản là:</small>
<small>1. Doanh nghiệp một chủ chịu trách nhiệm vô han;</small>
<small>2. Công ty hợp danh;</small>
<small>3. Công ty trách nhiệm hữu hạn;</small>
Việc lựa chon loại hình doanh nghiệp nao dé tổ chức hoạt động thuộc
<small>hình thức pháp lý của doanh nghiệp.</small>
huy động tiền của dân chúng và địi hỏi trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp bảo hiểm phải có khả năng thanh tốn chi trả các khoản tiền bảo hiểm
<small>gian nao, có nghĩa là doanh nghiệp phải thường xuyên có kha năng thanh</small>
tốn. Cũng chính vì vậy, khơng phải mọi loại hình doanh nghiệp đều được kinh doanh bảo hiểm. Hầu như trên thế giới, hoạt động bảo hiểm chỉ được
<small>giới hạn trong các cơng ty có cơ chê giám sát chặt chẽ, hiệu quả, có chê độ</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">trách nhiệm tai sản rõ rang va tính ồn định lâu dài khơng bị đe dọa, có thé bởi chính sự xung đột giữa các thành viên chăng hạn.
loại hình cơng ty đối vốn, có cơ chế giảm sát chặt chẽ, có chế độ trách nhiệm
từ cơng chúng, dù khơng phải là một định chế như ngân hàng, việc huy động
hiểm chuẩn thuận, không cần tài sản đảm bảo. Cũng chính việc được phép
động của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: "Sau khi kết thúc năm tài chính,
pháp luật" (Điều 104 Luật kinh doanh bảo hiểm).
Ở hau hết các nước, loại hình cơng ty bảo hiểm cổ phan là một trong những loại hình doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về quản trị và giám sát nên trở thành loại hình doanh nghiệp bảo hiểm phổ biến nhất. Luật bảo hiểm Trung Quốc, điều 69 qui định: Chỉ có các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần được kinh doanh bảo hiểm. Luật bảo hiểm Pháp quy định các công
<small>Doanh nghiệp nhà nước cũng là loại hình doanh nghiệp có các quy</small>
pháp giành cho quyền kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. Tuy nhiên, với
và giám sát nên các nước đều có xu hướng tơ chức doanh nghiệp nhà nước
đang nam trong diện cé phan hóa dé trở thành công ty bảo hiểm cổ phan kế cả
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>Các doanh nghiệp một chủ chịu trách nhiệm vô hạn, công ty hợp danh</small>
không thật rõ ràng về trách nhiệm tai sản, rất khó trong việc quản lý, giám sát, vì vậy hầu hết các nước đều không cho phép tổ chức kinh doanh bảo hiểm
<small>dưới các hình thức này (xem thêm tài liệu tham khảo [17]).</small>
Đối với hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn, do đặc điểm công ty là không được phát hành chứng khốn ra cơng chúng để cơng khai huy động vốn, việc chuyền nhượng vốn lại rất khó khăn, chủ yếu trong nội bộ công ty
động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Ở Việt Nam, Điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm:
1. Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước;
3. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ;
4. Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh;
5. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài [25].
Thời điểm Quốc hội ban hành Luật kinh doanh bảo hiểm thì vẫn tồn
<small>tại Việt Nam 2000 và Luật doanh nghiệp 1999. Vì vậy, trong Luật kinh doanh</small>
nghiệp bảo hiểm nhà nước; doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngồi cũng là phù hợp.
thể trong các luật tương ứng và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cơ bản về các loại hình doanh nghiệp này, nhưng riêng đối với loại hình doanh nghiệp
<small>bảo hiểm tương hỗ thì cịn q mới mẻ đối với đa số các nhà doanh nghiệp,</small>
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">thậm chí cả đối với các luật gia, vì đây là một loại hình doanh nghiệp mới được
thực tiễn. Vì vậy, trong luận văn này tác giả chỉ xin trình bảy một số nét cơ bản của tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Các van đề mâu thuẫn về hình thức t6 chức
thay thế cho Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003, Luật
<small>dau tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 sẽ được ban ở phân sau của luận văn này.</small>
vào năm 1912, tập đồn này có tổng tài sản trị giá 78,8 tỷ đô la và 21.2 tỷ đô la tổng doanh thu vào thời điểm cuối năm 2005 và Liberty Mutual xếp thứ
phan không kém các công ty bảo hiểm cổ phan. Đặc biệt các cơng ty bảo
quan trọng trong việc đảm bảo kha năng thanh tốn và ơn định thị trường bảo hiểm ở các quốc gia này.
Về tổ chức bảo hiểm tương hỗ, Điều 70 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: "Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập dé kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên mua bảo hiểm" [25].
Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự day đủ, hoạt động trong cùng một lĩnh vực, ngành nghề có nhu cầu bảo hiểm đều có thể tham
<small>35</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">gia thành lập t6 chức bảo hiểm tương hỗ với tư cách là thành viên sáng lập.
định rat chi tiết, rõ ràng tại Nghị định 18/2005/NĐ-CP ngày 24/2/2005 quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của tô chức bảo hiểm tương hỗ.
Thứ nhất, các thành viên hay các hội viên cùng có chung một nhu cầu
có chung ngành nghề và nơi cư trú thường là gần nhau; ho cũng đồng thời là
quyết định mọi vấn đề nhưng đối với cơng ty tương hỗ thì quyền biểu quyết đại hội là những người có hợp đồng bảo hiểm.
Thứ hai, các công ty bảo hiểm tương hỗ trước tiên thuộc quyền sở hữu tập thể của những người được bảo hiểm. Những người này đồng thời là người
chính là nhà bảo hiểm cho họ.
Thứ ba, cơng ty bảo hiểm tương hỗ chính là sự giao hịa giữa cơng ty
Thứ tư, kết thúc năm tài chính số dư từ các khoản thu so với các khoản
<small>chi không được coi đó là lợi nhuận, khoản này thường được tăng cường cho các</small>
Thứ năm, tất cả các hội viên đều bình đăng, ngay khi ghi tên và nộp
<small>các van đê của doanh nghiệp và họ có thê được bau vao hội đơng quan tri.</small>
<small>36</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">Chính các đặc điểm ké trên giải thích lý do vì sao hình thức cơng ty bảo hiểm tương hỗ lại phát triển ở nhiều nước trên thé giới.
Pháp luật một số nước đã có những quy định khá chỉ tiết đối với loại hình cơng ty bảo hiểm tương hỗ như Luật giám sát bảo hiểm Cộng hòa Liên bang Đức, Luật bảo hiểm Philipin, Luật kinh doanh bảo hiểm của Nhật bản và
Theo Luật bảo hiểm của Cộng hòa Pháp, thủ tục thành lập tổ chức bảo hiểm tương hỗ cũng giống như thủ tục thành lập công ty bảo hiểm cô phan.
Tuy nhiên, trong điều lệ của công ty bảo hiểm tương hỗ bắt buộc phải có danh sách các nghiệp vụ bảo hiểm sẽ tiến hành, các điều kiện dé gia nhập tổ chức
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 18/2005/NĐ-CP ngày 24/2/2005 nêu trên thì số lượng thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ không thấp hơn 10 thành viên. Trong điều lệ phải ghi rõ các điều khoản mà
<small>hội viên phải đóng góp trong năm, quy định các khoản chi phí cho ban lãnh</small>
đạo, điều kiện phân chia số dư cho các thành viên hay giảm số đóng góp cho
<small>các thành viên vào tài khóa sau.</small>
Đại hội cơ đơng của các công ty bảo hiểm tương hỗ bao gồm: hoặc là tất cả các hội viên đã nộp các khoản đóng góp hoặc các đại biểu do hội viên bau. Trong trường hop bau đại biểu, các hội viên có thé được chia thành các nhóm căn cứ vào các loại hợp đồng đã được ký hay tùy theo các tiêu chuẩn tương ứng hoặc theo nghề nghiệp. Nguyên tắc cơ sở của các công ty bảo hiểm
Pháp thì nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng quản trị công ty bảo hiểm tương hỗ là 6 năm, còn tại Việt Nam, theo Nghị định 18/2005/NĐ-CP nêu trên thì nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị do điều lệ tổ chức bảo hiểm tương hỗ quy
<small>37</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có 8 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, trong đó có 01 doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, 01 doanh nghiệp liên doanh và 06 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoai; chưa có một cơng ty bảo hiểm cổ phan và tương hỗ nào hoạt động.
<small>2.2. BẢO HIEM NHÂN THỌ LA LOẠI HÌNH KINH DOANH CO DIEU KIỆN</small>
2.2.1 Chỉ được kinh doanh khi có Giấy phép
doanh tiền tệ, ngân hàng, tín dụng, kinh doanh bảo hiểm mang tính đặc thù. Chính vi vậy, ở tất cả các nước kể cả các nước có nên kinh tế tự do như các
có vốn đăng ký ít nhất bằng vốn pháp định.
Hoạt động bảo hiểm gắn bó hữu cơ với sự phát triển kinh tế xã hội,
động của một doanh nghiệp bảo hiểm vi dụ như: phá sản có thé có những tác động gây hậu quả khó một đối với xã hội khơng khác gì việc phá sản của một ngân hàng, đơi khi cịn tệ hại hơn. Vì vậy, mặc dù Nhà nước ta đã xóa bỏ hầu hết các loại giấy phép hoạt động, khơng cịn quy định về vốn pháp định đối với nhiều loại hình doanh nghiệp, nhưng riêng trong lĩnh vực bảo hiểm việc
việc cấp giấy phép nhằm đánh giá khả năng của cơng ty có đủ tiêu chuẩn và
bảo hiểm hay không, đây cũng là hình thức dé bảo vệ quyền lợi của người
<small>38</small>
</div>