Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

luận văn thạc sĩ Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.09 KB, 88 trang )

doanh nghiÖp kinh doanh b¶o hiÓm nh©n thä
theo ph¸p luËt viÖt nam
Hµ néi – 2010
doanh nghiÖp kinh doanh b¶o hiÓm nh©n thä
theo ph¸p luËt viÖt nam

Hµ néi – 2010
mục lục
Trang
mở đầu 1
Chơng 1: những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ 5
1.1. Khái luận về bảo hiểm nhân thọ 5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trờng bảo hiểm nhân
thọ Việt Nam
22
1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân 27
Chơng 2: pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ
31
2.1. Hoạt động bảo hiểm phải tổ chức kinh doanh theo các hình thức
doanh nghiệp nhất định
31
2.2. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình kinh doanh có điều kiện 37
2.3. Tài chính doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 44
2.4. Trung gian bảo hiểm nhân thọ 50
2.5. Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 54
Chơng 3: một số nhận xét chung và kiến nghị 57
3.1. Một số nhận xét về pháp luật đối với doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ
57
3.2. Hớng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo


hiểm nhân thọ
64
Kết luận 75
Danh mục tài liệu tham khảo 78
mở đầu
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ tháng 8 năm 1996, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của
Việt Nam đã đi vào hoạt động, so với sự xuất hiện của doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ (cách đây hơn 40 năm) thì đó là khoảng thời gian không
dài nhng bảo hiểm nhân thọ đã có những bớc phát triển vợt bậc, đáng ghi
nhận.
Đặc trng của hoạt động bảo hiểm nhân thọ là vừa mang tính chất tiết
kiệm vừa mang tính chất phòng ngừa rủi ro. Với sự phát triển ổn định của
nền kinh tế, thu nhập của ngời dân ngày càng tăng thì hoạt động này càng
có điều kiện phát triển và trở thành một trong những kênh huy động vốn
quan trọng đầu t trở lại cho nền kinh tế. Không chỉ là kênh huy động vốn
nhàn rỗi, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thu hút, tạo việc làm mới
cho trên 100.000 lao động có thu nhập ổn định (gồm cán bộ nhân viên và
đại lý), hàng loạt sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các chơng trình tài chính
rất đa dạng đã đợc các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho thị trờng,
đáp ứng đợc nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ngoài ra, các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn chi nhiều tỷ đồng cho hoạt động từ thiện, tài
trợ cho các hoạt động văn hóa, thể thao, khuyến học
Để phát triển kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ngay từ khi ban hành
Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, Nhà nớc ta đã xác lập tính đa dạng của
các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm bằng việc có những quy định làm tiền
đề cho sự ra đời của các công ty bảo hiểm nhân thọ sau này. Trải qua hơn
10 năm hoạt động, bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã mang lại những lợi ích
rất to lớn cho sự phát triển nền kinh tế xã hội và lợi ích của ngời tham gia
bảo hiểm, là công cụ thu hút nguồn vốn cho đầu t phát triển nền kinh tế.

Bên cạnh đó, cũng giống nh các tổ chức trung gian tài chính khác, các
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn phải đảm bảo sự vững
chắc về tài chính, tạo niềm tin cho hàng triệu khách hàng tham gia. Việt
Nam đang trong quá trình hội nhập, đàm phán để gia nhập Tổ chức Thơng
mại Thế giới (WTO). Quá trình này tất yếu buộc nớc ta phải mở rộng cửa
thị trờng để có thêm các công ty bảo hiểm nớc ngoài vào Việt Nam. Vì
vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ
cần phải đợc kiểm soát hết sức chặt chẽ và phải đợc điều chỉnh bằng luật
pháp, để hoạt động này phát triển lành mạnh phục vụ cho công cuộc phát
triển và xây dựng đất nớc.
2. Tình hình nghiên cứu
ở các nớc có nền kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời và
phát triển hàng trăm năm nay. Những lợi ích về mặt xã hội mà bảo hiểm
nhân thọ mang lại đã tạo cho ngành kinh doanh này có một chỗ đứng rất
vững vàng trong đời sống kinh tế xã hội. Vị thế của bảo hiểm nhân thọ ngày
càng đợc thể hiện một cách rõ nét ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển
trên thế giới.
ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ vẫn còn là mới mẻ, đã có
một số công trình nghiên cứu về mặt kỹ thuật bảo hiểm, pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm nhng chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ,
cha có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về pháp luật
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là về doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ.
Trớc đây, cũng đã có một số luận văn thạc sĩ đề cập đến những vấn
đề liên quan đến pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nh:
+ Nguyễn Anh Tú: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001.
+ Thái Văn Cách: Thực trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, ph-
ơng hớng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001.
+ Vơng Việt Đức, Hợp đồng bảo hiểm tài sản, Luận văn Thạc sĩ

Luật học, 2003.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy
định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, mà cha nghiên cứu cụ thể
những quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, về doanh
nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, một loại hình kinh doanh có
thể nói là mới ở thị trờng Việt Nam nhng đóng vai trò rất quan trọng trong
đời sống. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài " Doanh nghip kinh doanh
bo him nhõn th theo phỏp lut Vit Nam " làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
luật học.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Trên thế giới, ở những nớc phát triển, hoạt động bảo hiểm nhân thọ
đã có lịch sử hàng trăm năm và trở nên vô cùng quen thuộc với đông đảo ngời
dân. Trong khi đó, ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn rất mới
mẻ. Quá trình tìm hiểu và xây dựng nghiệp vụ chủ yếu theo hớng vừa làm
vừa học, tham khảo tài liệu của nớc ngoài. Hệ thống pháp luật điều chỉnh
hoạt động này thời kỳ đầu còn thiếu và cha đồng bộ, qua một thời gian hoạt
động cùng với trải nghiệm thực tế, Nhà nớc ta đã rất nỗ lực trong việc hoàn
thiện và ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ
giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có đợc môi trờng phát triển thuận
lợi.
Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng, vẫn tồn tại một số quy định
pháp luật còn bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó,
mục tiêu đặt ra cho quá trình nghiên cứu luận văn là xem xét một cách tổng
quát, toàn diện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ, đối chiếu với thực tiễn hoạt động, kết quả hoạt động của các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Từ đó đề ra hớng bổ sung và hoàn thiện
các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ cũng nh
các quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhằm tạo ra một
hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, giúp

khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp dân c tham gia bảo
hiểm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nớc.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nớc về chỉ đạo hoạt động
bảo hiểm, để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, bên cạnh việc phân tích các
văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, luận văn sẽ nhìn nhận
vấn đề theo quan điểm duy vật, biện chứng, áp dụng phơng pháp lịch sử,
lôgic trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các tài liệu pháp lý liên quan, kết hợp
so sánh, đối chiếu, tổng hợp với thực tiễn để rút ra kết luận.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn những đóng góp của luận văn
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn hết sức mới mẻ, vì
vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu hoàn
thiện các quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ, đồng thời chỉ ra những điểm không phù hợp với thực tiễn
kinh doanh cần bổ sung, góp phần tạo ra môi trờng pháp lý chuẩn mực và
lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, thúc
đẩy hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển phục vụ đời sống
kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ.
Chơng 2: Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Ch¬ng 3: Mét sè nhËn xÐt chung vµ kiÕn nghÞ.
Chơng 1
Những vấn đề chung về Bảo hiểm Nhân thọ
1.1. Khái luận về Bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ

Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã có từ rất lâu, vào năm 1762,
Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới đợc thành lập ở nớc Anh,
tên là Equitable. Sau đó đến Pháp, là nớc thứ hai cho phép bảo hiểm nhân
thọ đợc hoạt động. Vào năm 1787 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại
Pháp đợc thành lập mang tên là Công ty bảo hiểm nhân thọ Hoàng gia, sau
đó một thời gian ở các nớc Châu âu khác cũng dần dần xuất hiện bảo hiểm
nhân thọ. ở Châu á, công ty bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên đợc ra đời ở
Nhật Bản, đó là công ty bảo hiểm nhân thọ Meiji đã ra đời và đi vào hoạt động
năm 1868.
Theo thời gian, bảo hiểm nhân thọ phát triển và trở thành một ngành
dịch vụ tài chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện ích cơ
bản của nó là mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
đối với ngời mua bảo hiểm.
Xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống của con ngời là vô giá và
không thể có một tổ chức nào có thể cung cấp một giá trị tơng đơng với một
sinh mạng con ngời, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thỏa thuận dựa
trên một số tiền cụ thể chứ không mang tính chất bồi thờng nh bảo hiểm tài
sản khác.
Khoản 12 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa:
"Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trờng hợp ngời đợc bảo
hiểm sống hoặc chết" [25].
Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân thọ
là sự bảo vệ trờng hợp tử vong của một ngời bằng hình thức trả tiền cho ng-
ời thụ hởng - thờng là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức.
Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo
hiểm một lần khi ngời đợc bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số
tiền bảo hiểm bổ sung nào đợc kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay
cha trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ đợc trả cho ngời
thụ hởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho ngời đợc bảo hiểm dới
hình thức giá trị giải ớc hoặc các khoản trợ cấp thu nhập [18, tr. 329-330].

Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA)
cũng nêu định nghĩa bảo hiểm nhân thọ nh một loại hình bảo hiểm trả tiền
khi phát sinh cái chết của ngời đợc bảo hiểm. Trên phơng diện pháp lý, bảo
hiểm nhân thọ là một thể loại bảo hiểm, trong đó để nhận đợc phí bảo hiểm
của ngời tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết
sẽ trả cho một hoặc nhiều ngời thụ hởng bảo hiểm một số tiền nhất định
hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trờng hợp ngời đợc bảo hiểm bị
tử vong hoặc ngời đợc bảo hiểm sống đến một thời điểm đã đợc chỉ rõ trong
hợp đồng. Trên phơng diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ
bao hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc
vào tuổi thọ của con ngời [45, tr. 31].
Những định nghĩa trên tuy đợc trình bày khác nhau, nhng tựu chung
lại đều thể hiện những đặc trng nổi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là:
- Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bảo hiểm thơng mại, hay nói
cách khác là loại hình kinh doanh thu lợi nhuận (phân biệt với các chế độ
bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội của Nhà nớc).
- Bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích, có thể đợc sử dụng để áp
ứng nhiều mục đích khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng. Do vậy,
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thờng rất đa dạng (mỗi sản phẩm chỉ đáp ứng
đợc một hoặc một vài nhu cầu) và hoạt động tiếp thị sản phẩm này phải
mang tính năng động và linh hoạt cao.
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo
hiểm cho hai sự kiện trái ngợc nhau là sống và chết. Điều này cũng có
nghĩa là, trong tuyệt đại đa số trờng hợp, việc doanh nghiệp bảo hiểm phải
trả tiền với một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là chắc chắn xảy ra (phân biệt
với bảo hiểm phi nhân thọ - là loại hình bảo hiểm chỉ trả tiền khi có rủi ro
xảy ra).
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó điều khoản
hợp đồng phải đợc trình bày đầy đủ, khoa học dới dạng văn bản, làm cơ sở
cho sự duy trì quan hệ hợp đồng dài nhiều chục năm, thậm chí là cả đời ng-

ời. Mặt khác, các thông số kỹ thuật của từng sản phẩm, từng hợp đồng phải
đợc tính toán cẩn thận và công bố rõ ràng tới khách hàng. Đồng thời, dịch
vụ khách hàng là khâu quyết định có tính chất sống còn tới việc duy trì hợp
đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình sản phẩm bảo hiểm vô hình. Vì
vậy, công ty bảo hiểm phải đặc biệt quan tâm đến việc giải thích cho khách
hàng hiểu rõ về sản phẩm. Hơn nữa, việc thực hiện đúng và đầy đủ cam kết
là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với các công ty bảo hiểm.
Có thể thấy bảo hiểm nhân thọ có những đặc điểm cơ bản là:
- Đối tợng của bảo hiểm nhân thọ là con ngời, nhng không nh bảo
hiểm sinh mạng hay bảo hiểm tai nạn con ngời trong bảo hiểm phi nhân
thọ, chỉ rủi ro chết hay thơng tật toàn bộ vĩnh viễn của đối tợng đợc bảo
hiểm mới thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Bên
cạnh đó, mặc dù đối tợng của bảo hiểm nhân thọ là con ngời nhng bảo hiểm
nhân thọ không đảm bảo những chi phí y tế nh trong các loại hình bảo hiểm
tai nạn và sinh mạng cá nhân trong bảo hiểm phi nhân thọ.
- Bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Đây là một trong những
hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân c hết sức có hiệu quả; hình thức
huy động dần dần, phù hợp với khả năng tích lũy của mọi đối tợng, từ
những ngời có thu nhập thấp đến những ngời có thu nhập cao. Chính hình
thức tổ chức đóng phí bảo hiểm tại nhà, có thể theo tháng, quý, 6 tháng hay
một năm, có nhiều mức phí tùy theo sự lựa chọn và khả năng tài chính của
ngời tham gia bảo hiểm đã tạo nên sự khác biệt, hình thành ý thức tiết kiệm
trong dân c đã đem lại thành công cho bảo hiểm nhân thọ (xem sự khác
nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân
hàng mục 1.1.3.3 chơng 1).
- Là loại hình bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm dài hạn, nguồn phí bảo
hiểm đợc sử dụng để đầu t và ngời tham gia bảo hiểm đợc hởng một phần
lãi từ hoạt động đầu t đó vì bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Trong
khi đó, bảo hiểm phi nhân thọ mang tính ngắn hạn, chỉ bồi thờng khi có tai

nạn, rủi ro xảy ra nên các doanh nghiệp bảo hiểm không đợc phép kinh
doanh đồng thời bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ (khoản 2 Điều
60 Luật kinh doanh bảo hiểm).
- Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của bảo hiểm nhân thọ với
đối tợng bảo hiểm chỉ là con ngời, pháp luật đã quy định có tính chất ràng
buộc, hạn chế có liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Có hai ràng buộc chính đợc thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm
(2000), những ràng buộc vốn đều đã có mặt trong các văn bản pháp luật t-
ơng tự ở mọi quốc gia cho phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Thứ nhất, ràng buộc về quyền lợi có thể đợc bảo hiểm. Khoản 9 Điều
3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Quyền lợi có thể đợc bảo
hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền,
nghĩa vụ nuôi dỡng, cấp dỡng đối với đối tợng đợc bảo hiểm" [25]. Đây là
một định nghĩa mang nặng tính pháp lý, phản ánh hình thức pháp lý của
quan hệ quyền lợi. Tài liệu của Viện Quản lý Bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ
(LOMA) định nghĩa khái niệm này thiên về yêu cầu của nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ là "khả năng ngời chủ hợp đồng và ngời thụ hởng phải chịu
những mất mát hoặc thiệt hại lớn nếu sự kiện đợc bảo hiểm xảy ra" [45, tr.
14]. Lý do của những quy định này xuất phát từ mục đích cơ bản của bảo
hiểm là đền bù cho ngời bị thiệt hại khi một rủi ro xảy ra và nh vậy, sự đền
bù phải dành cho đúng đối tợng phải chịu thiệt thòi, mất mát thì mới thực
sự có ý nghĩa và đạt đợc mục đích. Mặt khác, nếu không có yêu cầu về
quyền lợi có thể đợc bảo hiểm, hiện tợng trục lợi bảo hiểm trên tài sản, tính
mạng, sức khỏe của ngời khác, đi ngợc lại đạo đức và pháp luật sẽ xảy ra
phổ biến bởi bất cứ ai cũng có thể ký hợp đồng bảo hiểm đối với tài sản,
tính mạng, sức khỏe của ngời khác và sau đó cố tình gây ra rủi ro để thu lợi
bất chính từ tiền bồi thờng.
Cụ thể hóa yêu cầu về quyền lợi có thể đợc bảo hiểm, khoản 2 Điều 31
Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) chỉ cho phép bên mua bảo hiểm mua bảo
hiểm cho những ngời sau đây:

- Bản thân bên mua bảo hiểm;
- Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;
- Anh, chị, em ruột; ngời có quan hệ nuôi dỡng hoặc cấp dỡng;
- Ngời khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể đợc bảo hiểm.
Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quy định những đối tợng đợc
mua bảo hiểm nh trên đã trở thành thông lệ quốc tế xuất phát từ quan điểm
xã hội cho rằng những ngời thân thiết, ruột thịt trong gia đình là những ngời
phải chịu đựng mất mát nhiều nhất khi ngời thân gặp rủi ro. Mặt khác, có
một số quan hệ cũng đợc chấp nhận là đảm bảo quyền lợi này nh quan hệ
giữa ngời cho vay và ngời đi vay (nếu ngời đi vay gặp rủi ro khi cha trả hết
nợ thì ngời cho vay phải chịu thiệt hại), quan hệ giữa ngời lao động và ngời
sử dụng lao động (nếu ngời lao động gặp rủi ro thì ngời sử dụng lao động bị
mất nhân công, nói cách khác là mất chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động
khác thay thế, chi phí gián đoạn sản xuất). Quy định này chỉ rõ rằng yêu
cầu về quyền lợi có thể đợc bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc ở thời điểm yêu
cầu bảo hiểm. Pháp luật nhiều nớc còn yêu cầu quyền lợi này hiện diện cả
khi thanh toán quyền lợi bảo hiểm (Mỹ, Canađa) [43]. Quy định này đợc
các doanh nghiệp bảo hiểm tuân thủ triệt để, vì nó góp phần đáng kể bảo vệ
doanh nghiệp trớc rủi ro bị khách hàng lợi dụng và trục lợi.
Thứ hai, ràng buộc về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho tr-
ờng hợp chết. Quy định này cũng là một thông lệ đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trên khắp thế giới nhằm bảo vệ tính mạng của đối tợng đợc
bảo hiểm. Điều 38 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) quy định về ràng buộc
này nh sau:
- Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con ngời cho
trờng hợp chết của ngời khác thì phải đợc ngời đó đồng ý bằng văn bản,
trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và ngời thụ hởng. Mọi trờng hợp thay đổi
ngời thụ hởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm.
- Không đợc giao kết hợp đồng bảo hiểm con ngời cho trờng hợp
chết của ngời dới 18 tuổi, trừ trờng hợp cha mẹ, hay ngời giám hộ của ngời

đó đồng ý bằng văn bản.
- Không đợc giao kết hợp đồng bảo hiểm con ngời cho trờng hợp
chết của ngời đang mắc bệnh tâm thần [25].
Quy định này nhấn mạnh đến yếu tố nhất trí của ngời đợc bảo hiểm
(trong trờng hợp ngời đợc bảo hiểm không có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ - nh bị tâm thần hoặc dới 18 tuổi - hợp đồng không thể đợc giao kết hoặc
chỉ có thể đợc giao kết khi có sự đồng ý rõ ràng và hoàn toàn của cha, mẹ
hoặc ngời giám hộ hợp pháp). Nội dung của sự nhất trí này bao hàm hai yếu
tố chính: nhất trí về việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trên sinh mạng của
mình và nhất trí về ngời thụ hởng quyền lợi bảo hiểm trong trờng hợp ngời
đợc bảo hiểm không may qua đời. Sự nhất trí của ngời đợc bảo hiểm chính
là một đảm bảo chắc chắn rằng, ngời đợc bảo hiểm biết rõ và chấp nhận sự
tồn tại của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho mình và rằng, ai sẽ là
ngời đợc nhận quyền lợi bảo hiểm khi mình chết. Đây chính là cách thức
phòng tránh có hiệu quả đối với các trờng hợp giao kết hợp đồng bảo hiểm
nhằm trục lợi trên sinh mạng của ngời khác, đặc biệt là những ngời không
hoặc cha có khả năng nhận thức đầy đủ cũng nh khả năng tự bảo vệ mình.
Quy định này cũng góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ, đảm bảo cho nó giữ đúng đợc giá trị và ý nghĩa
nhân văn của bảo hiểm nhân thọ.
Trên đây là hai ràng buộc cơ bản mà pháp luật áp đặt đối với việc
giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Những ràng buộc này có thể tìm thấy
ở pháp luật về bảo hiểm của mọi quốc gia, là sản phẩm của một quá trình
nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực này trong
hàng trăm năm của các công ty bảo hiểm. Những quy định này đợc các
doanh nghiệp bảo hiểm ở các nớc cũng nh Việt Nam tuân thủ triệt để và
tinh thần của nó không chỉ đợc tìm thấy trong điều khoản hợp đồng bảo
hiểm của các doanh nghiệp mà còn trong mọi hoạt động tác nghiệp hàng
ngày ở các doanh nghiệp.
Tóm lại, với những đặc điểm riêng, đã từ lâu, bảo hiểm nhân thọ giữ

một vai trò vô cùng quan trọng trên thị trờng bảo hiểm thế giới và hiện nay
càng ngày càng khẳng định đợc vị trí quan trọng của mình trên thị trờng
bảo hiểm ở Việt Nam. Với các loại hình sản phẩm đa dạng, bảo hiểm nhân
thọ đáp ứng đợc nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Với mỗi cá
nhân, đó là nhu cầu thực hiện có hiệu quả các kế hoạch tài chính dài hạn,
nhu cầu chuẩn bị chi phí hậu sự và dành dụm để lại cho con cháu, nhu cầu
bổ sung nguồn tài chính khi già cả, mất khả năng lao động tạo ra thu nhập
và các nhu cầu bảo đảm về tài chính khi gặp các rủi ro về sức khỏe. Với các
cơ quan, tổ chức, đó là nhu cầu bù đắp chi phí tuyển dụng và đào tạo lại
nhân công trong trờng hợp ngời lao động bị tử vong hoặc thơng tật dẫn đến
mất khả năng lao động, đặc biệt là những lao động có kiến thức và trình độ
và nhu cầu có nguồn tài chính hỗ trợ ngời lao động cũng nh gia đình của họ
vợt qua khó khăn khi gặp phải rủi ro. Với ý nghĩa xã hội to lớn nh vậy, bảo
hiểm nhân thọ đang ngày càng đợc cả xã hội quan tâm.
1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản
Đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ đợc thiết
kế gồm năm loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân cơ bản, trong mỗi loại
hình lại bao gồm rất nhiều sản phẩm khác nhau, ngoài ra còn có các loại
hình bảo hiểm nhóm và bảo hiểm bổ trợ.
1.1.2.1. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân
* Bảo hiểm sinh kỳ
Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm sinh
kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trờng hợp ngời đợc bảo hiểm sống đến một
thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm
cho ngời thụ hởng, nếu ngời đợc bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn đợc thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25].
Các đặc điểm của bảo hiểm sinh kỳ là:
- Chỉ bảo hiểm trong trờng hợp ngời đợc bảo hiểm sống đến một
thời hạn đợc quy định trong hợp đồng.
- Công ty bảo hiểm sẽ không phải trả tiền bảo hiểm, không hoàn phí

bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm sẽ chấm dứt ngay nếu ngời đợc bảo hiểm
chết trong thời hạn bảo hiểm.
Mục đích của loại hình bảo hiểm này giúp ngời tham gia bảo hiểm
sống đến một mức tuổi nào đó sẽ nhận đợc tiền bảo hiểm để đáp ứng nhu
cầu trong cuộc sống. Ví dụ nh mua bảo hiểm sinh kỳ cho con tức là sẽ có
một khoản tiền để dành cho con dùng vào việc học tập và kết hôn sau này,
hoặc là mua bảo hiểm sinh kỳ sống đến tuổi về hu thì đợc lĩnh tiền bảo
hiểm.
* Bảo hiểm tử kỳ
Loại bảo hiểm này bảo hiểm cho rủi ro chết xảy ra trong thời gian
đã quy định trong hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó
thì việc thanh toán không đợc thực hiện, chính vì vậy phí bảo hiểm luôn đợc
giữ ở mức thấp nhất. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa:
"Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trờng hợp ngời đợc bảo hiểm
chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả
tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng, nếu ngời đợc bảo hiểm chết trong thời hạn
đợc thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý
bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo
hiểm cung cấp quyền lợi bảo hiểm tử vong nếu ngời đợc bảo hiểm chết
trong một thời hạn đợc xác định trớc [45, tr. 31].
Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm tử kỳ là:
- Chỉ bảo hiểm rủi ro mà không có yếu tố tiết kiệm;
- Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng đợc xác định rõ ngay khi giao kết
hợp đồng;
- Công ty bảo hiểm có thể không phải trả tiền bảo hiểm (trong trờng
hợp ngời đợc bảo hiểm còn sống đến thời điểm đáo hạn hợp đồng).
Loại hình bảo hiểm này thờng đợc thể hiện thành các sản phẩm phổ
biến nh: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm sinh mạng có hoàn phí;
bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm giảm dần, bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo
hiểm tăng dần.

Mục đích của loại hình bảo hiểm này là cung cấp sự bảo vệ trớc rủi
ro trong một thời hạn xác định; đồng thời, hợp đồng bảo hiểm loại này còn
có thể đợc sử dụng nh một "tài sản thế chấp" trong quan hệ tín dụng.
* Bảo hiểm hỗn hợp
Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm hỗn
hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ" [25], trong
đó "bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trờng hợp ngời đợc bảo hiểm
sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm cho ngời thụ hởng, nếu ngời đợc bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn đợc
thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm". Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm
nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm, trong
đó quyền lợi bảo hiểm đợc thanh toán khi ngời đợc bảo hiểm chết hoặc vào
ngày đáo hạn hợp đồng nếu ngời đợc bảo hiểm vẫn còn sống vào ngày này
[45, tr. 31].
Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm hỗn hợp là:
- Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm;
- Thời hạn bảo hiểm đợc xác định trớc;
- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách
hàng.
Loại hình bảo hiểm này thờng đợc thể hiện thành các sản phẩm phổ
biến nh: bảo hiểm hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hỗn hợp có số tiền bảo
hiểm tăng dần, bảo hiểm hỗn hợp trả tiền định kỳ.
Mục đích của loại hình bảo hiểm này là kết hợp giữa việc đề phòng rủi
ro và giúp khách hàng tích lũy dần dần để thực hiện các kế hoạch tài chính dài
hạn.
* Bảo hiểm trọn đời
Đây là loại hình bảo hiểm mà số tiền bảo hiểm sẽ đợc thanh toán
cho ngời đợc bảo hiểm khi chết. Đây là hợp đồng dài hạn, có yếu tố đầu t và
đến một lúc nào đó hợp đồng chắc chắn đợc thanh toán. Điều 3 Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm

cho trờng hợp ngời đợc bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt
cuộc đời của ngời đó" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa
Kỳ định nghĩa bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ
cho suốt cuộc đời của ngời đợc bảo hiểm và có yếu tố tiết kiệm [45, tr. 32].
Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm trọn đời là:
- Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm;
- Thời hạn bảo hiểm không xác định đợc trớc, thời hạn bảo hiểm
chấm dứt khi ngời đợc bảo hiểm chết;
- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách
hàng.
Loại hình bảo hiểm này thờng đợc thể hiện thành các sản phẩm phổ
biến nh: bảo hiểm trọn đời biến đổi, bảo hiểm trọn đời phổ thông, bảo hiểm
trọn đời chung, bảo hiểm ngời còn sống cuối cùng.
Mục đích của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm rủi ro kết hợp tiết
kiệm. Sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng trang trải các chi phí hậu
sự mà còn góp phần làm tăng giá trị tài sản khách hàng để lại cho ngời thân
khi qua đời.
* Niên kim nhân thọ (bảo hiểm trả tiền định kỳ)
Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trả
tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trờng hợp ngời đợc bảo hiểm sống
đến một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả
tiền bảo hiểm định kỳ cho ngời thụ hởng theo thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm" [25].
Các đặc điểm nổi bật của niên kim nhân thọ là:
- Quyền lợi bảo hiểm đợc thanh toán thành nhiều lần theo định kỳ
và phơng thức nhất định;
- Thời hạn bảo hiểm thờng không xác định trớc, hợp đồng bảo hiểm
chấm dứt khi ngời đợc bảo hiểm chết hoặc ngời đợc bảo hiểm đã nhận hết
quyền lợi bảo hiểm thỏa thuận.
- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải trả tiền cho khách hàng.

Loại hình bảo hiểm này thờng đợc thể hiện thành các sản phẩm phổ
biến nh: niên kim trả ngay, niên kim hoãn trả, niên kim biến đổi, niên kim
thu nhập trọn đời trong thời hạn đợc đảm bảo.
Sản phẩm này chủ yếu đợc thiết kế nhằm mục đích an sinh xã hội, bảo
hiểm hu trí cho ngời cao tuổi. Đây chính là một hình thức bảo hiểm xã hội
tự nguyện, cung cấp khoản "lơng hu" theo lựa chọn của chính ngời nhận.
1.1.2.2. Bảo hiểm nhóm
Loại hình bảo hiểm này có đặc điểm cơ bản khác với bảo hiểm cá
nhân là thay vì bảo hiểm cho một cá nhân theo một hợp đồng, bảo hiểm
nhóm bảo hiểm cho một nhóm ngời theo một hợp đồng. Loại hình này đợc
thiết kế dới hình thức một loạt sản phẩm tơng tự nh sản phẩm bảo hiểm cá
nhân, nhng bảo hiểm cho một nhóm ngời. Các bên trong hợp đồng bảo
hiểm là công ty bảo hiểm và ngời tham gia bảo hiểm, ngời đợc bảo hiểm
không phải là một bên trong hợp đồng.
Ưu điểm của loại hình bảo hiểm nhóm là thủ tục tham gia đơn giản,
phí bảo hiểm thấp, loại hình bảo hiểm này giúp góp phần gắn kết, khuyến
khích, tăng phúc lợi cho ngời lao động (khách hàng chủ yếu của bảo hiểm
nhóm là ngời lao động).
Tuy nhiên, loại hình bảo hiểm này cũng có một số hạn chế so với
loại hình bảo hiểm cá nhân nh sản phẩm không đa dạng phong phú nh sản
phẩm bảo hiểm cá nhân, ít ngời sử dụng lao động mua cho nhân viên, tập
thể của họ. Quyền lợi bảo hiểm của loại hình bảo hiểm này không nhiều
(chỉ những quyền lợi cơ bản nh chết, thơng tật do tai nạn), số tiền bảo
hiểm không lớn, thời hạn bảo hiểm thờng ngắn (1 năm), phức tạp cho thủ
tục và công tác quản lý hợp đồng khi số lợng thành viên của nhóm có sự
xáo trộn nh tăng hoặc giảm
Việc phát triển loại hình bảo hiểm nhóm phụ thuộc vào chính sách,
chế độ phúc lợi của mỗi tổ chức, bên cạnh đó, cần thiết kế sản phẩm bảo
hiểm nhóm phù hợp hơn, hấp dẫn hơn để đáp ứng đợc yêu cầu của thị trờng.
1.1.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ

Những sản phẩm này rất đa dạng, trong đó nổi bật phải kể đến bảo
hiểm chết và thơng tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm thơng tật bộ
phận vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm chi phí phẫu thuật, bảo hiểm chi phí
nằm viện, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm từ bỏ thu phí Các sản
phẩm này giúp khách hàng bổ sung và mở rộng quyền lợi bảo hiểm khi
tham gia bảo hiểm nhân thọ.
1.1.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và các hình thức
đảm bảo khác
1.1.3.1. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ
Theo quy định tại Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 7 chơng I,
nghiệp vụ bảo hiểm đợc phân thành 2 nhóm là Bảo hiểm nhân thọ và Bảo
hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài
sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo
hiểm nhân thọ. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ là bảo hiểm phi nhân thọ chỉ có một mục đích chống lại
rủi ro thì bảo hiểm nhân thọ có thể giúp ngời đợc bảo hiểm vừa đạt đợc mục
đích chống lại rủi ro vừa có mục đích tiết kiệm. Thời hạn của các hợp đồng
bảo hiểm phi nhân thọ ngắn, thông thờng là một năm, bên cạnh đó có
những hợp đồng bảo hiểm kéo dài chỉ vài tháng, thậm chí thời hạn bảo hiểm
có thể chỉ là vài giờ (trong bảo hiểm tai nạn hành khách). Trong khi đó, thời
hạn bảo hiểm của các hợp đồng nhân thọ thờng dài hạn (từ 5 năm trở lên).
Trong bảo hiểm phi nhân thọ, có một số nghiệp vụ bắt buộc phải
mua bảo hiểm đã đợc quy định trong luật pháp để giúp phát huy tối đa tác
dụng của các nghiệp vụ này và nhằm đạt đợc mục đích bảo vệ lợi ích chung
của cộng đồng, bên cạnh đó khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, sẽ có một cam
kết ràng buộc giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, bên mua
bảo hiểm có nghĩa vụ theo đuổi đến cùng, trừ lý do rơi vào các tình huống
phải chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những quy
định bắt buộc này không bao giờ áp dụng đối với bảo hiểm nhân thọ, trong

bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng vào bất
cứ thời điểm nào và không cần viện dẫn lý do.
Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, ngời tham gia bảo hiểm chỉ có thể
bảo hiểm cho hậu quả của các sự kiện đợc bảo hiểm chứ không bảo hiểm
việc nó không xảy ra. Trái lại trong bảo hiểm nhân thọ, ngời tham gia bảo
hiểm có thể bảo hiểm việc xảy ra biến cố tử vong hoặc không xảy ra sự cố
tử vong hoặc đồng thời bảo hiểm cho cả hai sự kiện tử vong và không tử
vong.
Tóm lại, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, mỗi loại hình
bảo hiểm đều có những đặc trng riêng có của mình, nhng tựu trung lại cả
hai loại hình này đều có tác dụng và vai trò rất to lớn, không thể thiếu đợc
đối với mỗi quốc gia, nhất là với các quốc gia phát triển.
1.1.3.2. Sự khác nhau giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm xã
hội
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm thơng mại) đều là
chế độ bảo hiểm nên có những điểm chung về bảo hiểm. Nhng vì là hai loại
hình bảo hiểm khác nhau nên có sự khác nhau về nhiều mặt nh sau:
Thứ nhất: Về mục đích, nguyên tắc.
Bảo hiểm xã hội là một phần của chế độ bảo trợ xã hội bắt buộc
thực hiện theo pháp luật của nhà nớc, nhằm mục đích đảm bảo đời sống cơ
bản cho mọi ngời trong xã hội, giữ vững ổn định trong xã hội, ngời đợc bảo
hiểm có quyền lợi đợc đảm bảo trọn đời. Quá trình hoạt động của bảo hiểm
xã hội thể hiện rõ đặc điểm của quan hệ hành chính.
Bảo hiểm thơng mại là loại hình do mọi ngời tự nguyện tham gia bảo
hiểm, không có sự bắt buộc. Nguyên tắc cần phải tuân theo đó là ngời nào
tham gia bảo hiểm thì ngời đó đợc hởng quyền lợi bảo hiểm. Đây là hoạt động
kinh doanh kiếm lời của doanh nghiệp bảo hiểm. Mọi quy tắc, trách nhiệm
bảo hiểm đều phải thực hiện một cách chặt chẽ theo đúng quy định của hợp
đồng bảo hiểm mà các bên đã thỏa thuận. Bảo hiểm thơng mại có luật điều
chỉnh riêng.

Thứ hai: Khác nhau về đối tợng và chức năng bảo hiểm.
Đối tợng của bảo hiểm xã hội là những ngời lao động trong xã hội.
Chức năng chủ yếu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cơ bản cho
ngời lao động khi ốm đau, già cả, bị thơng, bị tàn phế, mất khả năng lao
động nhằm giữ vững quá trình tái sản xuất sức lao động xã hội. Ngoài ra,
còn thực hiện việc nhà nớc phân phối lại thu nhập xã hội bằng cách tập
trung quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện việc trợ cấp bồi thờng thiệt hại, thực
hiện chức năng công bằng xã hội.
Đối tợng bảo hiểm thơng mại thờng không có quy định đặc biệt mà áp
dụng đối với tất cả các tổ chức, công dân dựa vào nguyên tắc tự nguyện lựa
chọn, tự nguyện tham gia bảo hiểm. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm thơng
mại là bồi thờng hoặc chi trả số tiền bảo hiểm cho ngời tham gia bảo hiểm
khi họ gặp rủi ro hoặc khi đáo hạn hợp đồng nh đã quy định trong hợp đồng
bảo hiểm.
Việc trả tiền bảo hiểm xã hội xuất phát từ mục đích đảm bảo mức
sống cơ bản của ngời lao động. Mức độ đảm bảo này đợc dựa trên mức tiêu
dùng bình quân của xã hội, các yếu tố tăng giá cả hàng hóa Đối với mức
đảm bảo của bảo hiểm thơng mại không xét tới những yếu tố kể trên, hoàn
toàn do ngời đợc bảo hiểm nộp phí bảo hiểm nhiều hay ít.
Thứ ba: Sự hình thành, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm.
Quỹ bảo hiểm xã hội đợc hình thành từ các nguồn sau:
+ Ngời sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lơng của
những ngời tham gia bảo hiểm trong đơn vị, trong đó 10% là quỹ lơng hu,
5% là quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
+ Ngời lao động đóng 5% tiền lơng hàng tháng.
+ Nhà nớc hỗ trợ thêm để thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với ng-
ời lao động.
+ Các nguồn khác
Quỹ bảo hiểm thơng mại:
Quỹ bảo hiểm thơng mại hình thành trên cơ sở thu phí bảo hiểm

của ngời tham gia bảo hiểm thể hiện dới hợp đồng hoặc do luật định. Đây là
quỹ bảo hiểm riêng biệt, độc lập với ngân sách nhà nớc. Quỹ này không do
cơ quan nhà nớc quản lý tập trung thống nhất mà do chính các doanh
nghiệp bảo hiểm quản lý và sử dụng theo Luật. Về mặt pháp lý doanh
nghiệp bảo hiểm đợc phép thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham
gia bảo hiểm và dùng quỹ tập trung này để chi trả quyền lợi bảo hiểm và bù
đắp cho các rủi ro bảo hiểm xảy ra. Nguồn quỹ này chỉ sử dụng vì các mục
đích cho đối tợng tham gia, không sử dụng vào các mục đích khác. Nhà nớc
không đợc sử dụng quỹ này.
1.1.3.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy
động vốn qua kênh ngân hàng
Hoạt động bảo hiểm nhân thọ và hoạt động ngân hàng cùng có tính
chất giúp ngời dân tiết kiệm tiền và đợc hởng lãi suất từ những khoản tiền
tiết kiệm. Nhng giữa hai loại hình tiết kiệm này có một sự khác biệt lớn, đó
là hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn có tính chất đảm bảo rủi ro cho ngời
tham gia trong khi hoạt động ngân hàng không có.
Có thể thấy, tiết kiệm ngân hàng chỉ mang tính tiết kiệm đơn thuần
trong khi đó bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả tiết kiệm với bảo hiểm. Trong
quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ (5, 10, 15 năm hoặc dài hơn), số phí
đóng bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm đồng thời ngời
tham gia đợc đảm bảo về quyền lợi khi không may gặp rủi ro. Tính bảo
hiểm thấy rõ nhất là trờng hợp ngời đợc bảo hiểm tham gia bảo hiểm nhân
thọ vừa nộp phí 1 tháng thì không may bị thơng tật toàn bộ vĩnh viễn, theo
cam kết ngời đó sẽ đợc miễn phí cho toàn bộ thời gian còn lại của thời hạn
nộp phí. Số phí đã nộp rõ ràng nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lợi ngời tham
gia bảo hiểm sẽ đợc nhận. Còn nếu gửi tiết kiệm ngân hàng, khi bị thơng tật
toàn bộ vĩnh viễn, ngời đó chẳng đợc quyền lợi gì ngoài số lãi trên số tiền
gửi.
Với hình thức gửi tiền tại ngân hàng, ngời gửi tiền phải tự đem tiền
đến ngân hàng để gửi. Theo ví dụ dới đây, trong 15 năm ngời gửi tiền phải

đến ngân hàng 15 lần để gửi tiền, tuy nhiên nếu ngời đó chọn hình thức gửi
tiền theo tháng (tơng đơng với hình thức nộp phí tháng khi tham gia bảo
hiểm nhân thọ) thì ngời đó sẽ phải đến ngân hàng tổng số 15 x 12 = 180
lần, và nếu thời hạn này dài hơn thì số lần đến ngân hàng sẽ tăng nên gấp
bội. Rõ ràng, việc đi gửi tiền nh trên rất mất thời gian và dờng nh không thể
thực hiện đều đặn đợc nếu thực hiện gửi tiền theo tháng. Thêm vào đó, ngời
gửi tiền chỉ có thể gửi tiền với số tiền lớn nhất định; không thể hàng tháng
mang mấy chục ngàn đi gửi ngân hàng.
Ngợc lại, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ, ngời tham gia không
phải đến công ty bảo hiểm để nộp phí mà hoàn toàn có thể nộp phí ở nhà, ở
cơ quan hoặc bất kỳ nơi nào tiện lợi; ngời tham gia cũng có thể nộp phí
ngay từ số tiền tiết kiệm hàng tháng là mấy chục ngàn đồng và số tiền này
đợc đầu t ngay để tích tiểu thành đại. Ngời tham gia bảo hiểm đợc nhà bảo

×