Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.4 MB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHĨM</b>
Nhóm : 06 Lớp : N02.TL1
Tổng số sinh viên của nhóm: 10
Xác định mức độ tham gia từng sinh viên trong việc thực hiện bài tập nhóm
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>Thơng tin liên lạc:</b>
<b>II. Bình luận về một số trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực quy phạmxung đột trong Tư pháp quốc tế...3</b>
<i><b>1. Bảo lưu trật tự công...4</b></i>
<i><b>2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba...5</b></i>
<i><b>3. Dẫn chiếu đến pháp luật của nước chưa được cơng nhận...7</b></i>
<i><b>4. Vấn đề có đi có lại trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài...8</b></i>
<i><b>5. Lẩn tránh pháp luật...10</b></i>
<b>KẾT LUẬN...12</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỞ ĐẦU</b>
Trong xu hướng hội nhập hóa quốc tế, tăng cường giao lưu văn hóa,kinh tế như hiện nay, các mối quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi ngày càng phát triển một cách đa dạng và phong phú như hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,…. Chính những quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi đó là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng xung đột pháp luật. Và một trong những cách để giải quyết xung đột pháp luật đó là sử dụng quy phạm xung đột. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng quy phạm xung đột có một số các trường hợp gây ảnh hưởng tới quy phạm xung đột. Vì vậy, ta sẽ tìm hiểu:
<b>NỘI DUNGI. Khái niệm</b>
<i><b>1. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài</b></i>
Quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi là những quan hệ ln có đặc trưng là mang yếu tố nước ngồi.
Tại Việt Nam, khái niệm về quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi đã được quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015,
Trong đó, “yếu tố nước ngồi” có thể thấy qua các ví dụ:
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><i><b>Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên</b></i>
tham gia là người nước ngoài. A là người dân Việt Nam sang Đức làm việc. Năm 2000 chị kết hôn với anh B (Quốc tịch Đức) trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
<i><b>Thứ hai, đối tượng của quan hệ dân sự là tài sản ở nước ngồi. </b></i> Hai cơng dân Việt Nam tranh chấp với nhau về mảnh đất tại Hàn Quốc.
<i><b>Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó</b></i>
xảy ra ở nước ngồi. Ơng A và bà B mặc dù đang ở Nhật Bản nhưng đều là công dân của Việt Nam. Hai ông bà muốn uỷ quyền cho ông C ở Việt Nam thực hiện thủ tục nhận thừa kế. Khi đó, hai ơng bà đến Đại sứ qn của Việt Nam ở Nhật Bản để làm hợp đồng uỷ quyền một bên.
<i><b>2. Xung đột pháp luật</b></i>
Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Trong thực tế của đời sống quốc tế thường xảy ra trường hợp là hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại đó lại phát sinh ở một nước. Khi giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngồi, các cơ quan Tư pháp của các nước này sẽ áp dụng hệ thuộc luật nơi có hành vi gây thiệt hại xảy ra. Trong khi đó, pháp luật một số nước khác lại quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra (Anh, Hoa Kỳ). <i><b>Như vậy,</b></i> tùy theo hồn cảnh cụ thể pháp luật nước nào có lợi hơn khi áp dụng.
<i><b>3. Quy phạm xung đột</b></i>
Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngồi trong trong một tình huống thực tế.
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Bà N (người Việt Nam) và ông C (người Đài Loan) kết hơn tại Việt Nam sau đó làm thủ tục để bà N sang Đài Loan sinh sống. Tuy nhiên, do thủ tục bảo lãnh gặp trục trặc nhiều lần vì thiếu một số giấy tờ làm phát sinh mâu thuẫn. Ơng C đề nghị ly hơn, đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay và có văn bản đồng ý ly hôn nên bà N đề nghị Tịa giải quyết cho bà N được ly hơn với ông C. Về con chung và tài sản, cả hai bên đều khơng u cầu Tịa giải quyết. Điều luật này bao gồm 03 quy phạm xung đột
<i><b>Chính vì vậy, quy phạm xung đột không giải quyết trực tiếp quan hệ tư</b></i>
pháp quốc tế mà nó chỉ dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật hoặc chỉ đưa ra cách thức hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh.
<b>II. Bình luận về một số trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực quy phạm xungđột trong Tư pháp quốc tế</b>
<i><b>1. Bảo lưu trật tự công</b></i>
Bảo lưu trật tự công là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong tư pháp quốc tế của nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, nó lại khơng có một định nghĩa chính thống nào, kể cả ở những văn bản pháp luật của Việt Nam và trên thế giới.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công trong Tư pháp Quốc tế đó là việc sử dụng quy phạm xung đột và nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tư pháp Quốc tế điều chỉnh những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, dẫn đến việc có thể sử dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. Các quy phạm xung đột chỉ đưa ra những nguyên tắc chung để chọn luật áp dụng giữa những hệ thống pháp luật liên quan mà không trực tiếp quy định cách giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn chiếu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">luật nước ngồi có quy định trái với trật tự cơng của quốc gia thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công”.
Khi bảo lưu trật tự công, luật nước ngồi sẽ bị gạt bỏ khơng được áp dụng. Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. quy phạm xung đột dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài khơng được áp dụng bởi nó trái với trật tự cơng thì việc dẫn chiếu đó là vơ nghĩa, hay chính là việc chọn một hệ thống pháp luật khơng áp dụng được trên thực tế. Điều đó làm quy phạm xung đột mất hiệu lực.
Hệ quả tích cực của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ khơng áp dụng pháp luật nước ngồi lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự cơng quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột. cơ quan có thẩm quyền sẽ khơng áp dụng pháp luật nước ngồi quy định cơng nhận hơn nhân đa thê.
Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực ở đây là trường hợp pháp luật nước ngồi có thể áp dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng đó ảnh hưởng đến trật tự cơng quốc gia. : việc tịa án phải cơng nhận hiệu lực của một bản án hay quyết định do tịa án hoặc trọng tài nước ngồi giải quyết hoàn toàn theo pháp luật nước ngoài.
<i><b>2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba</b></i>
Dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba là hiện tượng khi cơ quan có thẩm quyền của nước A áp dụng quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài (nước B), nhưng pháp luật nước B lại quy định vấn đề phải được giải quyết theo pháp luật nước A hoặc được giải quyết theo pháp luật của một nước thứ ba.
Theo khoản 2 điều 676 BLDS 2015. Doanh nghiệp A là doanh nghiệp nước ngoài và thành lập tại Đức. Vậy pháp luật Đức là pháp luật điều chỉnh năng lực pháp luật dân sự của doanh nghiệp A. Nhưng theo pháp luật Đức, vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật nơi doanh nghiệp có trụ sở thực tiễn và trong thực
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">tế thì doanh nghiệp A có trụ sở tại Bỉ. Do đó, pháp luật Đức dẫn đến pháp luật Bỉ. Vậy hiện tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có thể xảy ra ở Việt Nam.
<i><b>a. Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu</b></i>
<i><b>Nguyên nhân thứ nhất, quy phạm xung đột có hai bộ phận cấu thành:</b></i>
phần phạm vi và phần hệ thuộc. Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một vấn đề pháp lý thuộc phần phạm vi của hai quy phạm xung đột của hai nước có phần hệ thuộc khác nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các quy phạm xung đột của các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.
<i><b>Nguyên nhân thứ hai, có khả năng là phát sinh dẫn chiếu là việc giải thích</b></i>
các hệ thuộc luật của các nước có thể rất khác nhau, có thể dẫn đến khả năng một vấn đề pháp lý sẽ được hệ thống pháp luật của hai nước đều cho rằng sẽ được áp dụng (gọi là xung đột tích cực), hoặc cả hai nước đều từ chối áp dụng, cho rằng pháp luật của nước mình khơng có thẩm quyền áp dụng (gọi là xung đột tiêu cực).
Một số tác giả cho rằng, có sự “ủy quyền” của pháp luật trong nước cho pháp luật nước ngoài trong việc áp dụng giải quyết tình huống pháp lý phát sinh. Và như vậy, có thể coi các quy phạm xung đột nước ngoài dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật nước có tịa án thụ lý là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật của nước có tịa án đó.
<i><b>b. Áp dụng pháp luật khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếuđến pháp luật nước thứ ba.</b></i>
* Chấp nhận dẫn chiếu:
Một số nước không chấp nhận dẫn chiếu như Siry (BLDS 1949), Ai Cập… (BLDS 1948) bởi quan điểm của họ thì khi dẫn chiếu là chỉ dẫn chiếu tới các quy phạm luật thực chất của nước đó chứ khơng phải tồn bộ hệ thống pháp luật của nước đó như các nước chấp nhận dẫn chiếu như Anh, Nhật Bản (BLDS 1898), Thụy Điển.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Ở Việt Nam về nguyên tắc thì dẫn chiếu được chấp nhận theo khoản 2 Điều 668 BLDS 2015.
* Các trường hợp không chấp nhận dẫn chiếu
<i><b>Thứ nhất là trong lĩnh vực hợp đồng, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế</b></i>
giới đều không chấp nhận dẫn chiếu trong lĩnh vực này. Điều 15 Công Ước Rome 19/6/1980 về quy phạm xung đột thống nhất trong lĩnh vực hợp đồng đối với một số nước châu Âu và Điều 2 Công Ước Lahaye 15/6/1955 về hợp đồng mua bán quốc tế động sản, dẫn chiếu khơng được chấp nhận bởi nó sẽ làm đảo lộn những dự tính, đi ngược lại ý chí của các bên khi họ thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng (luật nội dung, luật thực chất của hệ thống luật này) cho hợp đồng. Khoản 1 Điều 683 BLDS năm 2015
nhưng không phải sự loại trừ dẫn chiếu là đương nhiên, tự động mà cần dung hòa ý chí các bên và các quy phạm xung đột một cách thống nhất.
<i><b>Thứ hai là khi có Điều ước quốc tế quy định. Theo Điều 39 Hiệp định</b></i>
tương trợ tư pháp giữa Nga và Việt Nam,
<i><b>Có thể thấy dẫn chiếu là vấn đề rất quan trọng, phổ biến nhưng cũng rất</b></i>
phức tạp trong tư pháp quốc tế. Trong thời gian tới, khi các Điều ước quốc tế ngày một gia tăng, việc thiết lập các quy phạm xung đột thống nhất trong các Điều ước này sẽ làm mất đi những điều kiện tồn tại của dẫn chiếu, có thể hiện tượng dẫn chiếu khơng cần phải đặt ra trong tư pháp quốc tế nữa. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, dẫn chiếu vẫn được áp dụng một cách thường xuyên và phổ biến, vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ về vấn đề này để có thể áp dụng pháp luật hiệu quả nhất.
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><i><b>3. Dẫn chiếu đến pháp luật của nước chưa được công nhận</b></i>
Khi ban hành pháp luật, Nhà nước ln bảo đảm lợi ích của thể nhân và pháp nhân nước mình cũng như thể nhân và pháp nhân nước ngoài. Việc thực hiện và áp dụng các quy phạm xung đột trong các văn bản pháp luật cả trong nước và quốc tế, các cơ quan thực thi pháp luật không được phép phân biệt đối xử trong quan hệ với bất kỳ quốc gia nào. Điều này là phù hợp với luật quốc tế và tập quán quốc tế.
Tuy nhiên, trên thực tế tòa án của một số nước phương Tây đã công nhiên vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại và có những hành vi kì thị đối với các hệ thống luật pháp mà quốc gia của họ chưa công nhận. Họ cho rằng khi luật pháp của nước tịa án có thẩm quyền xét xử viện dẫn tới hệ thống pháp luật của nước chưa được công nhận thì sẽ khơng được áp dụng với lí lễ là đến nhà nước đó cịn chưa được cơng nhận huống hồ ai lại phải công nhận hệ thống pháp luật của nó. Đây là quan điểm phản khoa học, song tòa án các nước phương Tây đã áp dụng và lấy làm cơ sở để gạt bỏ luật pháp của các nước trước đây là thuộc địa mà mới giành độc lập nhằm duy trì sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
Trong Hiến pháp 2013 cũng như trong các văn bản pháp luật của Nhà nước và trong các Điều ước quốc tế, Việt Nam luôn khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán là chống lại mọi hành vi phân biệt và kỳ thị giữa các quốc gia và giữa Việt Nam với các nước. Như vậy, có thể nói giữa các quốc gia Việt Nam đã cơng nhận và những quốc gia cịn chưa cơng nhận sẽ khơng có sự phân biệt hoặc kì thị nào, kể cả đối với những quốc gia mà chúng ta chưa công nhận. Hơn nữa, chúng ta luôn ủng hộ quan điểm là việc công nhận quốc gia hay chính phủ khơng làm phát sinh một chủ thể mới trong luật quốc tế mà việc công nhận chỉ là thủ tục, các bước tạo tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ và hoàn toàn nhằm củng cố, tăng cường khả năng hợp tác về mọi mặt giữa nước ta với nước ngoài phù hợp với đường lối đổi mới công tác đối ngoại của nhà nước.
<i><b>4. Vấn đề có đi có lại trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><i><b>Trước hết, để có thể tìm hiểu được vấn đề có đi có lại trong việc áp dụng</b></i>
pháp luật nước ngồi có ảnh hưởng thế nào đến hiệu lực quy phạm xung đột trong Tư pháp quốc tế thì ta cần nắm được về nguyên tắc có đi có lại. Dựa vào những.ghi nhận trong luật pháp của đa số các nước trên thế giới cũng như được thể hiện trong rất nhiều điều ước quốc tế, ta có thể hiểu nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế, theo đó một quốc gia sẽ dành chế độ pháp lý nhất định, có thể là chế độ đãi ngộ quốc gia hoặc chế độ đãi ngộ tối huệ quốc hay một số quyền lợi nào đó cho thể nhân và pháp nhân một nước ngoài giống như chế độ pháp lý, những quyền lợi hoặc ưu đãi mà các thể nhân và pháp nhân của nước này cũng được hưởng ở nước ngồi đó.
<i><b>Từ đó, ta có thể thấy rằng theo xu hướng hiện nay, Tư pháp quốc tế các</b></i>
nước phần lớn đều thừa nhận việc thi hành các quy phạm xung đột không bị hạn chế bởi các quy định của nguyên tắc có đi có lại. Điều đó được thể hiện thơng qua việc Tịa án khi giải quyết các vụ dân sự quốc tế, dựa trên các quy phạm xung đột để cho phép áp dụng luật nước ngoài là để bảo vệ quyền lợi của quyền lợi chính đáng của các bên đương sự và cũng không phương hại đến chủ quyền quốc gia, ngồi ra cịn tăng thêm sự hợp tác quốc tế.
<i><b>Mặt khác, dựa trên nội dung cơ bản của nguyên tắc này là quyền và nghĩa</b></i>
vụ của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng và đảm bảo thực thi trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ mà công dân, pháp nhân Việt Nam được quy định và đảm bảo thực thi ở nước ngoài tương ứng. Tùy theo quan hệ giữa Việt Nam và nước ngoài mà nguyên tắc có đi có lại thực chất hoặc hình thức có thể được áp dụng. Cụ thể tại khoản 3 điều 465 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 có quy định:
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><i><b>Theo đó, ta có thể nhận thấy được tuy rằng trong đa phần các trường hợp,</b></i>
việc thi hành việc thi hành các quy phạm xung đột không bị giới hạn, hạn chế bởi các quy định của nguyên tắc có đi có lại nhưng trong một số trường hợp nhất định thì các quy phạm xung đột ấy sẽ bị giới hạn bởi chính ngun tắc có đi có lại này. Cụ thể, trường hợp thứ nhất do nguyên tắc này đòi hỏi sự có đi có lại để có sự ngang bằng vì thế khơng bắt buộc nước ta phải cơng nhận bản án của một nước khác khi mà nước đó đã khơng cơng nhận bản án của nước mình. Trường hợp thứ hai, trên thực tế các quốc gia luôn hy vọng việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong Tư pháp quốc tế sẽ khiến các quốc gia khác sẽ cơng nhận bản án của Tịa án quốc gia mình và vì vậy có thể bảo vệ quyền lợi của cơng dân và pháp nhân của mình ở nước ngồi. Tuy nhiên, khơng gì có thể bảo đảm rằng mục tiêu này sẽ được thực hiện. Kể cả khi đạt được một thỏa thuận hoặc ngầm định về áp dụng ngun tắc có đi có lại thì các quốc gia cũng khơng hồn tồn mặc nhiên cơng nhận và thi hành bản án của Tòa án nước ngồi mà vẫn xem xét đến các điều kiện cơng nhận hoặc không công nhận theo luật quốc gia. Sự khác biệt về các điều kiện công nhận cũng như những chuẩn mực công bằng trong luật quốc gia là trở ngại đối với thực hiện thỏa thuận có đi có lại trong việc cơng nhận và thi hành bản án nước ngồi. Điều này làm cho ngun tắc có đi có lại mất đi tính thực chất và chỉ cịn mang tính hình thức.
<i><b>5. Lẩn tránh pháp luật</b></i>
Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự sử dụng những biện pháp cũng như thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ của họ và nhằm tới một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn cho mình. Các biện pháp, thủ đoạn: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành bất động sản…
Nguyên nhân của hiện tượng này là vì mỗi quốc gia trên thế giới đều có hệ thống quy phạm xung đột riêng của mình. Chính vì vậy, cùng một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia khác nhau sẽ rất khác nhau. Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong tư pháp quốc tế.
</div>