Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

tiểu luận nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 26 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA </b> + Giáo viên chấm thứ hai:... Kết quả điểm thuyết trình:...

<b>Điểm kết luận cuối cùng</b>

Giáo viên đánh giá cuối cùng:...

Vũ Thị Ngọc Mai

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Pháp luật dân sự Việt Nam đã dự liệu nhiều phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó có phương thức u cầu tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ đã được ghi nhận thành một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, có ý nghĩa quyết định tới tồn bộ kết quả của hoạt động tố tụng. Nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc, nhóm sinh viên đã lựa chọn đề bài:

để phân tích nội dung, đánh giá việc thực thi nguyên tắc này trong thực tiễn và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật .

<b>NỘI DUNG</b>

<b>I. Khái quát về nguyên tắc quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp1. Khái niệm</b>

là tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự, chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Trong đó, nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là nguyên tắc đặc trưng, ghi nhận một quyền con người cơ bản được thừa nhận trong luật nhân quyền quốc tế là quyền tiếp cận cơng lý. Quyền u cầu tịa án bảo vệ là biểu hiện của năng lực pháp luật tố tụng dân sự của chủ thể và mọi chủ thể đều được bình đẳng về quyền. Quyền này đã được trao sẵn cho các chủ thể từ khi sinh ra (đối với cá nhân) hoặc khi thành lập (đối với cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân). Mặt khác, nó chỉ có thể sử dụng với điều kiện là có hành vi xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể.

Như vậy,

đảm bảo rằng các bên trong vụ kiện có quyền được bảo vệ quyền và lợi ích của mình bằng cách u cầu tịa án giải quyết và đưa ra quyết định công bằng, phù hợp với quy định pháp luật.

<b>2. Cơ sở hình thành</b>

“Pháp luật đích thực phải là pháp luật chứa đựng nội dung công lý và bảo vệ được công lý” . Bởi vậy, pháp luật không chỉ ghi nhận quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể mà cịn quy định cho các chủ thể có quyền thực hiện các biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như: tự bảo vệ, yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ.

<small>Tạp chí </small>

<b>Too long to read onyour phone? Save</b>

to read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Trên cơ sở đó, Hiến pháp 2013 ghi nhận nhiệm vụ của Toà án là “

” . Từ đây, trong lĩnh vực dân sự nói riêng, khi một chủ thể cho rằng quyền dân sự của mình đang bị xâm phạm, họ có quyền u cầu khơi phục quyền đó, được bù đắp những tổn hại mà mình phải gánh chịu thông qua việc buộc người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình.

tắc quyền được yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là sự cụ thể hố chi tiết yêu cầu trên. Theo đó, quyền của chủ thể là quyền được khởi kiện, đây là quyền đầu tiên khởi đầu hình thành các quyền tiếp theo. Không chỉ vậy, điều 4 quy định thêm: “

”. Công lý là giá trị khách quan mà xã hội lồi người hướng tới, và khơng phụ thuộc vào sự hạn hẹp của luật thành văn. Vì thế, khi giá trị ấy bị xâm phạm, nếu khơng có luật thực định điều chỉnh, thì trách nhiệm của toà án là dựa trên những phương thức khác để công lý được thực thi.

<b>3. Ý nghĩa</b>

Bảo đảm quyền yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự. Thực hiện được nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn khơng những với đương sự, với Tịa án mà cịn với Nhà nước. Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được bảo đảm là cơ sở đầu tiên để đương sự thực hiện khác quyền tố tụng khác của mình. Ví dụ như: quyền tham gia hịa giải; quyền tham gia phiên tòa; quyền kháng cáo bản án, quyết định;… Từ đó, những tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự được xem xét, những quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.

Với Tòa án, nguyên tắc này đặt ra yêu cầu Tòa án phải đảm bảo thực hiện tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình. Nguyên tắc đã tận dụng một cách triệt để vai trò của Tòa án. Đây là yếu tố góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần làm việc của mỗi cán bộ Tòa án, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Tịa án, củng cố uy tín của cơ quan xét xử, nâng cao lịng tin của nhân dân vào cơng lý.

Với Nhà nước, nguyên tắc được bảo đảm sẽ góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước về chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, ngồi ý nghĩa thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự, nguyên tắc có ý nghĩa ổn định trật tự xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

<b>II. Phân tích nguyên tắc</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện hoặc u cầu tồ án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp</b>

Trong tố tụng dân sự, dựa vào tính chất của từng loại quan hệ dân sự mà nhà lập pháp xây dựng các thủ tục phù hợp để giải quyết các quan hệ đó. Hiện nay, có hai thủ tục được sử dụng để giải quyết các quan hệ dân sự bao gồm: thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Theo đó, các tranh chấp dân sự được giải quyết bởi thủ tục giải quyết vụ án dân sự và được bắt đầu bằng hành vi nộp đơn khởi kiện tại tòa án; các yêu cầu dân sự được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự và được bắt đầu bằng hành vi nộp đơn yêu cầu tại tòa án. Như vậy, quyền yêu cầu tòa án bảo vệ được thể hiện dưới hai hình thức là khởi kiện vụ án dân sự hoặc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Điều này được cụ thể hóa tại khoản 1 Điều 4 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 nă 2015 tạo ra sự khác biệt so với Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm

Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013.

<i><b>Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015</b></i>

có đề cập đến vụ án dân sự, theo đó các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn nhân v đình, kinh doanh, thương mại, lao động được gọi chung là vụ án dân sự. Có thể hiểu, ụ án dân sự là việc giải quyết tranh chấp về các vấn đề dân sự giữa cá nhân, tổ chức này với cá nhân, tổ chức khác; có ngun đơn và bị đơn; Tịa án giải quyết trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của người có quyền và buộc người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ

cơ quan, tổ chức muốn có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì người khởi kiện phải có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc có quyền và lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ. Quyền khởi kiện ở đây có thể hình thành tron trường hợp: một là trường hợp chủ thể đã tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự; hai là trường hợp chủ thể không tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự nhưng được thế quyền, kế quyền hoặc có quyền đối với người thứ ba. Để cụ thể hơn về quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự đã quy định tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30, Điều 32.

<i><b>Thứ hai, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền u cầu Tịa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại Điều 36 </b></i>BộLuật tố tụng dân sự năm 2015: “

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Việc dân sự là yêu cầu của một bên, hoặc các bên khi đã có sự thỏa thuận thống nhất và chỉ u cầu Tịa án cơng nhận hoặc không công nhận theo nội dung của yêu cầu đó. Để cụ thể hóa nội dung này, Điều 27, Điều 29, Điều 31, Điều 33 cũng đã quy định những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

<i><b>Thứ ba, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Trong một </b></i>

số trường hợp, bản thân đối tượng có quyền và lợi ích bị xâm phạm không đáp ứng được yêu cầu về năng lực chủ thể để thực hiện quyền khởi kiện hoặc yêu cầu. Vì thế, theo Bộ Luật dân sự năm 2015, nhà nước cho phép một số các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cũng có quyền khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm, cụ thể gồm có:

Người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên trừ người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình; người mất năng lực hành vi dân sự; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi của mình có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người chưa thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Đối với những vụ việc hơn nhân thì cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện, u cầu vụ việc về hơn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 10, khoản 5 Điều 84, khoản 2 Điều 86, khoản 3 Điều 102, khoản 2 Điều 119 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, các cơ quan này có quyền khởi kiện, yêu cầu về huỷ những hành vi trái với quy định của pháp luật hôn nhân như việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, tranh chấp xác định cha, mẹ, con, tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng. Ngoài ra, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hơn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định trên có thể kể đến là vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hơn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;...

Trong các lĩnh vực khác, cơ quan lao động, thương binh và xã hội, hội liên hiệp phụ nữ có quyền u cầu chấm dứt việc ni con nuôi theo Điều 26 Luật Nuôi con nuôi. Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động. Tổ chức xã hội tham

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu

<i><b>Thứ tư, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng. Tương tự như trên, không phải bất kỳ cơ quan hay tổ chức nào cũng có quyền </b></i>

khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng. Thay vào đó, theo khoản 4 Điều 187 Bộ Luật tố tụng dân sự, những cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện phải là những cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao quyền quản lý trong phạm vi lĩnh vực nhất định; bên cạnh đó, lợi ích cơng cộng, lợi ích Nhà nước cần u cầu Tịa án bảo vệ phải thuộc lĩnh vực phụ trách. Ví dụ, cơ quan Văn hố Thơng tin có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tịa buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi xâm phạm đến di sản văn hoá thuộc sở hữu toàn dân phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Ở đây, cơ quan, tổ chức khởi kiện khơng có quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm nhưng vẫn được xác định tư cách là nguyên đơn trong vụ án dân sự

Về phương thức nộp đơn khởi kiện, có thể nộp trực tiếp tại Tòa án, gửi đến Tòa án qua dịch vụ bưu chính hoặc gửi đơn khởi kiện trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thơng tin điện tử của Tịa án. Để bảo đảm khơng chậm trễ trong việc giải quyết vụ việc. Điều 191 BLTTDS 2015 có quy định thủ tục nhận và xử lý đơn kiện, theo đó trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tịa án phải phân cơng một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và đưa ra quyết định cụ thể. Đối với trường hợp vụ án được thụ lý, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho các chủ thể liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp. Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên.

<b>2. Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng</b>

Pháp luật phải bảo đảm cho xã hội ln có đủ pháp luật để tn theo, tuy nhiên pháp luật cũng có những hạn chế về tầm nhìn nên khơng thể dự liệu trước mọi tình huống pháp lý có thể xảy ra trong đời sống. Thêm vào đó, quan hệ dân sự là một trong những quan hệ phong phú, đa dạng và phổ biến nhất của đời sống.Việc mong muốn pháp luật thành văn có thể điều chỉnh mọi quan hệ dân sự là điều bất khả thi. Chính vì vậy, việc đặt ra nguyên tắc giải quyết các quan hệ dân sự khi chưa có luật áp dụng là điều rất quan trọng. Ngun tắc tịa án khơng được từ chối thụ lý đã tạo ra cơ sở pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

lý quan trọng để người dân bước đầu được tiếp cận cơng lý tại Tịa án và hạn chế được tình trạng Tịa án trả lại đơn khởi kiện thiếu căn cứ.

<i><b>Thứ nhất, về điều kiện để Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ việc. </b></i>

phải tất cả các trường hợp khi người dân có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là Tòa án đều thụ lý giải quyết. Tịa án chỉ có trách nhiệm thụ lý vụ việc dân sự nếu vụ việc dân sự đó thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây: (i) quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự tức là các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; (ii) quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự: (iii) quan hệ được yêu cầu giải quyết chưa có điều luật áp dụng. Điều 192 BLTTDS quy định các trường hợp trả Tịa án trả lại đơn khởi kiện. Ngồi ra, còn yêu cầu vụ án vẫn trong thời hiệu khởi kiện và các yêu cầu về đơn khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ Luật tố tụng dân sự

<i><b>Thứ hai, về nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng. </b></i> Điều 45 Bộ Luật tố tụng dân sự việc áp dụng các căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng được thực hiện theo thứ tự sau: (1) Áp dụng tập quán; (2) Áp dụng tương tự pháp luật; (3) Áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng.

Trước hết, việc áp dụng tập quán được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận và pháp luật khơng quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tịa án xem xét áp dụng. Tịa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 Bộ luật Dân sự. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự.

Bên cạnh đó, việc áp dụng tương tự pháp luật được thực hiện như sau:

dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận, pháp luật khơng có quy định và khơng có tập qn được áp dụng theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Dân sự và khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tịa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành khơng có quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

Cuối cùng, việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 Bộ luật Dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với ngun tắc nhân đạo, khơng thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.

<i><b>Thứ ba, về ảnh hưởng của ngun tắc tịa án khơng được từ chối giải quyết các vụ việc dân sự vì lý do chưa có các điều luật áp dụng tới các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự</b></i> Ảnh hưởng rõ nhất của nguyên tắc trên được thể hiện qua các quy định về thẩm quyền dân sự của tòa án. Trong Bộ Luật tố tụng dân sự 2015, để phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 4, khoản cuối cùng của các điều luật về thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc trong đã sửa đổi như sau: “Các tranh chấp, yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”. Với quy định này, tranh chấp dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ những tranh chấp dân sự được ghi nhận thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác. Đây là điểm mới so với Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) vốn quy định Tịa án khơng có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nếu khơng có văn bản pháp luật khác quy định tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án. Có thể nói, quy định trên đã mở rộng thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tịa án.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ Luật tố tụng dân sự nhằm đảm bảo Toà án giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, chính xác thì bắt buộc phải có sự tham gia của Viện kiểm sát khi Tồ án giải quyết vụ việc chưa có điều luật áp dụng. Hay trong các điều 266 và 313 để có căn cứ cho Hội đồng thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao lựa chọn án lệ thì trong các phán quyết của Tồ án khi giải quyết các vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng, hội đồng xét xử bên cạnh phân tích, đánh giá, nhận định về yêu cầu, các tình tiết của vụ án thơng qua tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cũng như các căn cứ pháp luật mà Tịa án áp dụng thì cịn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu và giải quyết các vấn đề khác có liên quan.

<i><b>Thứ tư, chế tài pháp lý áp dụng cho thẩm phán vi phạm ngun tắc Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật áp dụng. Việc xử </b></i>

lý trách nhiệm đối với thẩm phán một cách công bằng, kịp thời, khách quan và nghiêm minh là một đòi hỏi quan trọng để bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc trên. Tòa án Nhân

xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tịa án nhân dân. Theo đó, Điều 9 và Điều 10 của Quyết định này quy định, thẩm phán sẽ bị xử lý trách nhiệm bằng hình thức kiểm điểm trước cơ quan, đơn vị khi:

. Nếu vẫn tiếp tục vi phạm, thẩm phán có thể bị tạm dừng thực hiện nhiệm vụ được giao trong 30 ngày. Để người dân bảo vệ tốt quyền lợi của mình, khoản 2 Điều 192 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: khi trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn. Văn bản này là cơ sở để đương sự thực hiện quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án nếu cho rằng hành vi đó là khơng đúng quy định của pháp luật.

<b>III. Đánh giá về nguyên tắc1. Thực trạng thực </b>

Lấy Hiến pháp làm gốc, tịa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Bộ Luật tố tụng dân sự đã thể hiện tốt nhiệm vụ này của tòa qua các điều luật, cụ thể tại Điều 4, Điều 6, Điều 187. Trong đó Điều 4 là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt trong tố tụng dân sự. Đây là một tiến bộ trong lập pháp đảm bảo đầy đủ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khi bị xâm phạm, cũng như thể hiện được vai trò và trách nhiệm của tịa

rong việc bảo vệ cơng lý, lẽ phải.

Nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhấn mạnh quyền được bảo vệ của người dân và trách nhiệm phải bảo vệ quyền đó của Tồ án trong dân sự. Pháp luật đã hướng tới sự triệt để trong cách thức đảm bảo quyền tiếp cận công lý của người dân. Các quy định của pháp luật ln có giới hạn trong khi tranh chấp dân sự lại đa dạng, phức tạp. Một khi tranh chấp giữa các chủ thể phát sinh cần phải được giải quyết bởi tịa án, điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ cho rằng quyền lợi hợp pháp của mình đã bị xâm phạm và cần một cách thức giải quyết đảm bảo cho quyền lợi của họ. Quy phạm pháp luật là cơ sở đầu tiên để giải quyết tranh chấp nhưng không phải là

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cơ sở duy nhất mà còn áp dụng cả tập quán, tương tự pháp luật và lẽ công bằng. Với nguyên tắc quy định trong tố tụng dân sự, trách nhiệm bảo vệ công lý, quyền và lợi ích của đương sự được đặt ra đối với Tòa án một cách triệt để, đồng thời, khả năng tìm kiếm cơng lý của người dân ln được bảo đảm một cách tích cự

Trên thực tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự trong việc yêu cầu tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các tịa án đã có nhiều biện pháp hỗ trợ, đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền của mình ví dụ như niêm yết các mẫu đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại trụ sở, giải thích cho đương sự biết các quyền và nghĩa vụ của mình,… Ngồi ra, trong q trình giải quyết vụ án dân sự tịa án ln cố gắng xác định và triệu tập đầy đủ các đương sự đến tham gia tố tụng tại tòa, việc triệu tập và xác định đầy đủ tư cách của các đương sự giúp cho việc bảo vệ quyền lợi của đương sự được đảm bảo một cách đầy đủ, hiệu quả hơn. Những điều này, giúp cho tỉ lệ các vụ việc dân sự được tòa án thụ lý giải quyết tăng đáng kể. Cũng như bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ngày càng đạt kết quả tốt hơn và chất lượng của bản án, quyết định cũng ngày càng được cải thiện.

<b>2. Một số hạn chế </b>

<i><b>Thứ nhất, khoản 1 Điều 4 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định chủ thể có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự bao gồm cơ quan, tổ chức, cá </b></i>

. Quy định này dẫn đến các cách hiểu khác nhau về chủ thể khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là tổ chức. Cách hiểu thứ nhất cho rằng Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 sử dụng cụm từ “ ” thì cần hiểu rằng sẽ gồm tổ chức có tư cách pháp nhân và những tổ chức khơng có tư cách pháp nhân, cả hai tổ chức này đều có quyền khởi kiện, yêu cầu nhân danh cho chính tổ chức đó và có thể là đương sự trong vụ việc dân sự. Cách hiểu thứ hai cho rằng, chủ thể được gắn với cụm từ “ ” sẽ luôn có tư cách pháp nhân để độc lập tham gia tố tụng tại tịa án

Ngồi ra, quy định tại khoản 1 Điều 4 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 hiện còn mâu thuẫn với quy định của Bộ Luật dân sự năm 2015. Theo Bộ Luật dân sự năm 2015, chỉ có hai loại chủ thể tham gia quan hệ dân sự là cá nhân và pháp nhân; các chủ thể như hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, văn phịng luật sư và các tổ chức khác đều không có tư cách pháp nhân, khơng được coi là chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Vì vậy, khi tham gia quan hệ dân sự, tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác sẽ tham gia với tư cách là cá nhân hoặc nhóm cá nhân . Điều này tương đương với việc khi tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân khơng có năng lực chủ thể độc

<small>Nguyễn Thị Hương, “”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2019</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

lập tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung thì cũng khơng thể trở thành chủ thể độc lập nhân danh chính tổ chức trong các quan hệ tố tụng. Hay nói cách khác, tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với tư cách là cá nhân hoặc nhóm cá nhân thì khi xảy ra tranh chấp liên quan đến các giao dịch dân sự do các thành viên của tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khơng có tư cách pháp nhân thực hiện thì các thành viên của tổ hợp tác, hộ gia đình, tổ chức khơng có tư cách pháp nhân sẽ là người khởi kiện và được xác định là đương sự trong vụ án dân sự, còn hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân khơng phải là đương sự. Điều này cũng tương thích với Luật doanh nghiệp năm 2020

<i><b>Thứ hai, việc sử dụng thuật ngữ “vụ việc dân sự” tại khoản 2 Điều 4 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 là chưa phù hợp về logic. Xét về trình tự tố tụng, trước khi </b></i>

vào sổ thụ lý vụ việc dân sự, thẩm phán phải thực hiện thủ tục tiền thụ lý. Thủ tục tiền thụ lý bao gồm các công việc như xem xét quyền của chủ thể khởi kiện, năng lực hành vi tố tụng dân sự của chủ thể khởi kiện, thẩm quyền của Tòa án… Nếu tranh chấp hoặc yêu cầu dân sự không đáp ứng các điều kiện thụ lý thì Tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Một tranh chấp dân sự hoặc một yêu cầu dân sự chỉ trở thành một vụ án dân sự hoặc một việc dân sự nếu Tòa án chấp nhận thụ lý quan hệ đó. Khi Tịa án từ chối giải quyết một quan hệ pháp luật chính là việc Tịa án từ chối thụ lý giải quyết quan hệ đó, việc từ chối lúc này được diễn ra ở giai đoạn tiền thụ lý nên vụ việc dân sự chưa thể được hình thành.

<i><b>Thứ ba, theo quy định của Điều 44 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng được thực hiện theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, vụ việc dân sự chưa có điều </b></i>

luật áp dụng có những điểm khác biệt so với các vụ việc dân sự thông thường khác, thường là phức tạp hơn. Vì vậy, ngồi việc pháp luật quy định Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng theo các quy định chung về thụ lý, giải quyết các loại vụ việc dân sự khác thì điều này gây cản trở cho cả chủ thể có thẩm quyền giải quyết lẫn chủ thể có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ án dân sự.

<i><b>Thứ tư, trong quyết định giám đốc thẩm chưa đề cập đến trường hợp vụ án thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 4 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 thì hội đồng xét xử giám đốc thẩm dựa trên căn cứ pháp lý nào để giải quyết. Mặc dù, Điều </b></i>

266 và Điều 313 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đều có quy định rõ trong bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử cần có phân tích, lý giải, lập luận về cách áp dụng pháp luật khi ra phán quyết để giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng.

<small>Khoản 3 Điều 190 Luật Doanh nghiệp 2020</small>

</div>

×