Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 31 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BÀI TẬP NHĨM – MƠN LUẬT DÂN SỰ
Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải
quyết các yêu cầu ở cuối
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu ở cuối:
1. Từ bản án, quyết định đã sưu tầm được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình huống dài tối đa 1 trang A4
2. Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quyết định hoặc bản án sơ thẩm mà nhóm đã sưu tầm và giải thích vì sao nhóm lại cho rằng chưa phù hợp?
3. Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật.
4. Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT...4</b>
<b>MỞ ĐẦU...5</b>
<b>NỘI DUNG...6</b>
<b>I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC...6</b>
<b>II. NHẬN XÉT VỀ NHỮNG ĐIỂM CHƯA PHÙ HỢP CỦA BẢN ÁN....7</b>
<b>Luận điểm 1: Tòa án không công nhận chị Quyên đã thực hiện đủ hai phần ba nghĩa vụ trong GDDS với bà Vinh, ông Vịnh...7</b>
<b>Luận điểm 2: Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vơ hiệu dù khơng có bênnào nộp đơn khởi kiện trong thời gian có hiệu lực...9</b>
<b>III. QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC PHÙ HỢP VỚI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT...10</b>
<b>1. Về thủ tục tố tụng...10</b>
<b>2. Về nội dung...10</b>
<b>Thứ nhất, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và công nhận số tiền 800.000.000 đồng đã được nguyên đơn thanh toán</b> ...10
<b>Thứ hai, bà Vinh ông Vịnh phải bàn giao quyền sử dụng 08 thửa đấtcho chị Qun và có trách nhiệm hồn thiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với 08 thửa đất theo quy định của pháp luật...11</b>
<b>3. Về án phí...12</b>
<b>IV. KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.</b> ...13
<b>1. Quan điểm của nhóm về quy định pháp luật hiện hành...13</b>
<b>1.1. Một số ưu điểm mà BLDS 2015 đã đạt được...13</b>
<b>1.2. Một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục ở BLDS 2015...13</b>
<b>2. Một số kiến nghị hoàn thành pháp luật hiện hành...13</b>
<b>2.1. Về phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật...14</b>
<b>2.2. Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện quy định pháp luật...14</b>
<b>PHỤ LỤC...18</b>
<b>BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN VÀ KẾT QUẢ THAM GIA BÀI TẬP NHÓM...29</b>
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>Bộ Luật dân sự</b>
Tính đến ngày 31/7/2022, có tới 693 bản án, quyết định liên quan tới GDDS vô hiệu trong lĩnh vực dân sự tại trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao. Theo đó, những vi phạm về hình thức và việc giải quyết hậu quả pháp lý cũng gặp nhiều khó khăn, một số vụ án có thời gian giải quyết kéo dài, đã thực hiện tới giám đốc thẩm và phải tiến hành xét xử ở Hà Nội. Nhận thấy tính cấp thiết của đề tài, nhóm 3 chúng em đã chọn đề số 5 và bản án sơ thẩm 28/2018/TLST-DS ngày 09/8/2018 về việc
để đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật nói chung và BLDS nói riêng.
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Ngày 04/02/2015, qua chị gái ruột là Hoàng Mỹ Kiều giới thiệu, chị Hoàng Mỹ Quyên và vợ chồng bà Đoàn Thị Vinh, ông Nho Quang Vịnh đã làm văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng 8 thửa đất trị giá 800.000.000 đồng (đã đặt cọc 150.000.000 đồng) gồm các thửa đất số 155; 156; 155A; 156A; 124A; 150; 154 và 149 cùng tờ bản đồ 26-IV phường Bách Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Địa chỉ các thửa đất tại tổ dân phố Cầu Sắt, phường Bách Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên Tuy nhiên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này vẫn chưa có cơng chứng chứng thực từ cơ quan có thẩm quyền. Đến ngày 04/10/2016, chị cho rằng mình đã trả nốt 650.000.000 đồng, tức là, thanh tốn tồn bộ số tiền 800.000.000 đồng. Mặc dù vậy, vợ chồng bà Vinh ông Vịnh vẫn chưa làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị.
Trong khi đó, phía vợ chồng ông bà khai rằng trên thực tế, chị Quyên chỉ mới trả tiền đặt cọc vào ngày 04/02/2015, còn ngày 04/10/2016 chị Kiều bảo vợ chồng ông bà viết trước giấy biên nhận 650.000.000 đồng để chị cầm về và chị Quyên sẽ chuyển tiền cho vợ chồng ông bà sau. Nhưng, đến nay vợ chồng ông bà vẫn chưa nhận được nốt số tiền cịn lại. Ngồi ra, ơng bà cho rằng mặc dù hai bên đều tự nguyện thỏa thuận với nhau về mức giá của 8 mảnh đất trên là 800.000.000đ vào năm 2015, nhưng đến thời điểm hiện tại thì giá của 8 mảnh đất này tăng thêm 1 tỷ đồng. Nên chỉ khi chị Quyên đồng ý trả 1.650.000.000đ thì cả hai ơng bà sẽ làm các thủ tục cần thiết để chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu khơng, hai ơng bà sẽ hồn trả số tiền đặt cọc là 150.000.000đ cho chị Quyên. Do đã thúc giục nhiều lần nhưng vẫn không nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chị Quyên đã quyết định khởi kiện vợ chồng ông Vịnh bà
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Vinh cũng như yêu cầu hai ông bà phải chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị, cũng như u cầu Tịa án cơng nhận giao dịch dân sự này có hiệu lực.
<b>II. NHẬN XÉT VỀ NHỮNG ĐIỂM CHƯA PHÙ HỢP CỦA BẢN ÁN</b>
Tòa đã nhận định rằng:
Tuy nhiên, sau khi tham khảo và nghiên cứu, nhóm 3 chúng em nhận thấy hồn tồn có đủ căn cứ để chứng minh chị Quyên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch - tức là, nghĩa vụ “trả tiền” (theo Điều 274 BLDS 2015). Cụ thể, chị cần trả trên ⅔ của 800.000.000 đồng. Ở đây, chị Quyên đã thanh toán toàn bộ 800.000.000 đồng. Bởi lẽ
xét lời khai của nguyên đơn, bị đơn và người làm chứng. Trong khi ngun đơn - chị Qun nói về
thì bị đơn là bà Vinh ông Vịnh lại cho rằng
Để xác định được đâu là lời khai có căn cứ, cần dựa vào lời khai của người làm chứng là chị Kiều và chị Loan.
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Ở bản tự khai, chị Kiều trình bày: “
Nhưng khi Tịa án tiến hành đối chất, chị lại cho rằng chị Quyên chưa chuyển số tiền 650.000.000 đồng vào ngày 04/10/2016. Nếu chị Kiều chỉ là người trung gian, cầu nối giữa bên mua và bên bán, tại sao chị lại biết về số tiền mà em gái mình chưa thanh toán? Và nếu như được em gái kể, tại sao trong bản tự khai chị lại phủ nhận toàn bộ? Hơn nữa, trong cả hai bản, chị Kiều đều không thừa nhận về việc chính chị là người đã bảo vợ chồng bà Vinh ông Vịnh viết giấy biên nhận 650.000.000 đồng vào ngày 04/10/2016 để chị cầm về trước sau đó sẽ chuyển tiền sau như ở lời khai của bị đơn. Thêm vào đó, bà Loan cũng khẳng định
Có thể thấy, lời khai của bị đơn khơng có căn cứ xác thực, việc chị Kiều đến để bảo vợ chồng bà Vinh ông Vịnh viết giấy biên nhận 650.000.000 đồng vào ngày 04/10/2016 để chị cầm về trước sau đó chị Qun sẽ chuyển tiền sau là hồn tồn khơng có thật.
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng:
Tuy nhiên, theo danh sách những lần chị Quyên xuất, nhập cảnh của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an cung cấp cho Cơng an tỉnh Bắc Kạn thì chị Qun nhập cảnh về Việt Nam ngày 24/7/2016 đến ngày 17/10/2016 mới xuất cảnh. Cụ thể, ngày 4/10/2016 cũng khơng có thơng tin xuất cảnh của chị Qun (theo cơng văn số 52/PA01 ngày 28/02/2019 của Phịng An ninh đối ngoại - Công an tỉnh Bắc
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Kạn). Như vậy, vào ngày 04/10/2016, chị Quyên đang ở Việt Nam - khơng có lí do gì để chị Kiều thay chị Quyên đến nhà và bảo bà Vinh ông Vịnh viết giấy biên nhận 650.000.000 đồng để chị Kiều cầm về trước và chị Quyên sẽ thanh toán sau. Hơn nữa, bị đơn là người có thể chất, tâm thần bình thường, liệu có thể viết giấy biên nhận trước khi chưa nhận số tiền lớn như vậy được khơng?
Vì những lí do trên, có thể khẳng định, chị Quyên đã thanh toán nốt 650.000.000 đồng - đồng nghĩa, đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong GDDS với vợ chồng bà Vinh ông Vinh. Nên việc Tịa xét khơng có đủ căn cứ xác minh chị Quyên đã chuyển số tiền 650.000.000 đồng là khơng hợp lý.
Trong phần quyết định, Tịa án đã cho rằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Vinh, ông Vịnh cho chị Quyên đã vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức. Theo đó, Tịa án đã tun bố GDDS trên vơ hiệu.
Nhưng hồn cảnh của hai bên đều khơng nằm trong trường hợp nào ở Điều 156 BLDS 2015 về
nên thời hiệu khởi kiện sẽ chỉ có hiệu lực trong hai năm. Cụ thể, ngày mà hợp đồng GDDS giữa hai bên được thiết lập là 04/02/2015, tương ứng, thời hiệu yêu cầu tuyên bố GDDS vô hiệu do quy định bắt buộc về hình thức hết thời hạn sẽ vào ngày 04/02/2017, theo đó, nếu
- Khoản 2 Điều 132. Tuy nhiên, tính đến ngày 04/02/2017, chị Qun và hai ơng bà Vịnh Vinh đều khơng có bất kỳ yêu cầu tuyên bố GDDS vô hiệu do khơng đúng quy định về hình thức, chỉ đến khi 09/08/2018 Tịa án nhân dân thành phố Sơng Cơng mới tiếp nhận đơn khởi kiện của chị Quyên về GDDS giữa chị và ông bà Vịnh Vinh.
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Xét thấy giao dịch của hai bên
(theo Điều 123, 124) và
(theo khoản 1, 2 Điều 132) nên kể từ sau ngày 04/02/2017, GDDS này là có hiệu lực kể cả khi GDDS này đã vi phạm quy định bắt buộc về hình thức.
<b>III. QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC PHÙHỢP VỚI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT</b>
Qua việc xem xét các tình tiết của vụ việc, nhóm chúng em xin được đưa ra một số nhận định và hướng giải quyết như sau:
<b>1. Về thủ tục tố tụng</b>
Đây là vụ án yêu cầu công nhận giao dịch hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất quy định tại Điều 26, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 500 BLDS. Các thửa đất có tranh chấp thuộc tổ dân phố Cầu Sắt, phường Bách Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án nhân dân thành phố Sơng Cơng, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án cần thông báo cho nguyên đơn, bị đơn, người bảo vệ quyền lợi của bị đơn trình bày bản khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải theo quy định của pháp luật.
<b>2. Về nội dung</b>
<b>Thứ nhất, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vàcông nhận số tiền 800.000.000 đồng đã được nguyên đơn thanh toán</b>
Trước hết, khi thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng 08 thửa đất tại thời điểm năm 2015, chị Quyên và vợ chồng ông Vinh bà Vịnh đã thống nhất giá là 800.000.000 đồng và do hai bên hoàn toàn tự nguyện, khơng bị ép buộc hay vì lí do gì khác. Nên Tịa cần nhận định giá chuyển nhượng 8 thửa đất trên
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">theo đúng thỏa thuận tại thời điểm xác lập GDDS - năm 2015 là 800.000.000 đồng, không phải 1.800.000.000 đồng như tại phiên tịa bị đơn trình bày.
Sau khi xét những mâu thuẫn trong lời khai của bị đơn và công văn từ Phịng An ninh Đối ngoại - Cơng an tỉnh Thái Nguyên để đối chiếu với thông tin chị Quyên khơng có mặt ở Việt Nam từ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, có thể thấy, lời khai của nguyên đơn là có căn cứ, tức là, trên thực tế, chị Quyên đã hoàn tất số tiền 650.000.000 đồng còn lại - thực hiện đủ ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch. Khi kí kết, hai bên có đủ năng lực hành vi dân sự; nội dung, mục đích, đối tượng của giao dịch không vi phạm điều cấm luật và không trái đạo đức xã hội; bên nhận chuyển nhượng đã giao đủ tiền ( Khoản 1 Điều 117)
Mà
(Khoản 2 Điều 129 BLDS 2015) nên đã thỏa mãn điều kiện cần và điều kiện đủ của một GDDS có hiệu lực pháp lý.
Do đó, Tịa hồn tồn có thể tun bố GDDS trên có hiệu lực cũng như chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị đơn bởi lẽ “
” (Khoản 2, Điều 13, BLTTDS 2015).
Ngoài ra, yêu cầu của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Tịa án đình chỉ vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn cũng như không công nhận hiệu lực giấy biên nhận tiền được xác lập ngày 04/10/2016 cần được bác bỏ.
11
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Theo Điều 274 BLDS 2015, “
và Khoản 1 Điều 351 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ:
Vì GDDS giữa chị Quyên và bà Vinh ông Vịnh là hợp pháp và có hiệu lực, nên lẽ tất yếu, bà Vinh ơng Vịnh phải hồn tất nghĩa vụ của mình - thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và làm các thủ tục để hoàn thiện việc chuyển quyền sử dụng 08 thửa đất (155; 156; 155A; 156A; 124A; 150; 154 và 149) thuộc tờ bản đồ 26-IV phường Bách Quang, thành phố Sơng Cơng, tỉnh Thái Ngun cho chị Qun.
Ngồi ra, hai vợ chồng ông Vinh bà Vinh đã vi phạm nghĩa vụ tới hai lần: một, dù nguyên đơn đã thúc giục nhiều lần nhưng bị đơn vẫn không làm thủ tục; hai, bị đơn yêu cầu trả lại số tiền và không tiếp tục giao dịch với nguyên đơn. Vì những lý do trên, Tồ cần u cầu bị đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong giao dịch và chịu trách nhiệm dân sự theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
<b>3. Về án phí</b>
Căn cứ Khoản 1 Điều 147 Luật Tố tụng dân sự 2015: “Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ khơng được Tịa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc khơng phải chịu án phí sơ thẩm.” và Khoản 2 Điều
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: “Bị đơn phải chịu tồn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.” Trong trường hợp này, ông Vịnh, bà Vinh là bị đơn, toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là chị Quyên được chấp nhận. Vì vậy, Ơng Nho Quang Vịnh và bà Đoàn Thị Vinh phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Hoàn trả chị Hoàng Mỹ Quyên 18.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp.
<b>IV. KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH1. Quan điểm của nhóm về quy định pháp luật hiện hành</b>
<b>1.1.Một số ưu điểm mà BLDS 2015 đã đạt được</b>
GDDS vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức được xác định khá cụ thể, khoa học và dễ tiếp cận - cụ thể:
(Điều 129 BLDS 2015) kết hợp Điều 119. Theo đó, các chủ thể khi xác lập GDDS có thể dễ dàng theo dõi, xác định điều kiện cần cũng như tuân thủ và lưu ý các trường hợp ngoại lệ mà BLDS quy định.
để hạn chế GDDS vơ hiệu về hình thức, BLDS 2015 đã bổ sung trường hợp ngoại lệ như việc tạo điều kiện cụ thể nhằm thuận lợi hơn cho các chủ thể muốn tiếp tục thực hiện giao dịch bằng cách hoàn thành trách nhiệm trong giao dịch (đạt tối thiểu hai phần ba) để có thể u cầu Tịa án có thẩm quyền cơng nhận hiệu lực của giao dịch, không kể tới các điều kiện khác của giao dịch.
<b>1.2.Một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục ở BLDS 2015</b>
các quy định về đăng ký GDDS còn khá hạn chế, đối với các quy định liên quan tới hiệu lực của giao dịch cũng chưa được thể hiện cụ thể, nhiều giao dịch chỉ quy định trách nhiệm đăng ký mà chưa quy định về hậu quả
13
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">pháp lý. Theo đó, chủ thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xác định và thực hiện các đối tượng trên, hạn chế một số phương thức thực hiện giao dịch trong thực tiễn.
Điều 129 BLDS 2015 vẫn còn nhiều bất cập trong việc xác định do phải đối chiếu với nhiều điều kiện nên bản chất của GDDS trở nên khó khăn cũng như vẫn tồn tại những điểm xung đột, điều này có thể tác động tới ý chí của chủ thể và ảnh hưởng tới hiệu lực của GDDS.
<b>2. Một số kiến nghị hoàn thành pháp luật hiện hành2.1.Về phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật</b>
để cá nhân, tổ chức, người có thẩm quyền có thể dễ dàng, thuận lợi hơn trong việc áp dụng, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cũng như mọi đơn vị, chuyên gia nghiên cứu, xây dựng VBQPPL cần tự kiểm tra, giám sát, thường xuyên rà soát, quan tâm để có những kiến nghị, bổ sung, sửa đổi kịp thời hoàn thiện các quy định thống nhất về GDDS vơ hiệu nói chung và GDDS vơ hiệu do vi phạm hình thức nói riêng nhằm đảm bảo GDDS có hiệu lực. Ngồi ra, để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử án về GDDS vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức, các cơ quan Tịa án cần tăng cường cơng tác tập huấn cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ.
Sau đó, để nâng cao nhận thức của người dân nhằm hạn chế tối đa việc hợp đồng bị vô hiệu do những vi phạm về hình thức, cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục một cách đa dạng và phong phú. Từ những hình thức tuyên truyền truyền thống như xây dựng các tài liệu hướng dẫn dưới dạng hỏi - đáp, báo chí, tạp chí nghiên cứu cũng như chương trình truyền hình đến việc tiếp cận các hình thức tuyên truyền mới như tổ chức livestream, liveshow, radio, kênh podcast tọa đàm, giao lưu kiến thức về GDDS hoặc tham gia hội, nhóm, cộng đồng trên các nền tảng trực tuyến.
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>2.2. Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện quy định pháp luật</b>
để xác định
ở Điều 129 BLDS 2015, nên có những cách thức, phương pháp cho mức độ hoàn thành nghĩa vụ trong một văn bản dưới luật hoặc tiến hành nghiên cứu, đề xuất và ban hành các án lệ có những nội dung nhận định của Tồ án có liên quan đến việc xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch.
Điều 119 BLDS 2015 đã quy định về hình thức giao dịch dân sự một cách khá đầy đủ, chi tiết để xác lập, thực hiện một GDDS trong thực tiễn đảm bảo tính pháp lý về hình thức và nội dung. Tuy nhiên, trường hợp các văn bản khác cũng quy định về việc xác lập, thực hiện một số loại hợp đồng cụ thể, khơng nhiều hợp đồng có các quy định dẫn chiếu áp dụng tới BLDS hiện hành. Nên cần nghiên cứu bổ sung quy định trên để tạo sự thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật liên quan tới hợp đồng, giao dịch.
15
</div>