Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

tiểu luận nhóm hãy phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệpcủa các chức danh thẩm phán kiểm sát viên và luật sư theo nhóm các chứcdanh này phải tuân thủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 26 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Nhóm hãy phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư. Theo nhóm các chức danh này phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc với

nhau trong hoạt động tư pháp?

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM VÀ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM</b>

<b>I. Thời gian, địa điểm, hình thức làm việc nhóm</b>

1. Thời gian:

2. Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội 3. Hình thức làm việc nhóm: offline + online

<b>II. Thành phần tham dự: Các thành viên trong nhóm III. Nội dung:</b>

- Họp bàn và thống nhất đề tài bài tập nhóm.

- Xây dựng dàn ý khái quát cho đề tài đã được thống nhất. - Phân công công việc.

2. Mức độ tham gia làm bài tập nhóm của từng cá nhân

Ngày: 17/10/2023 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN GIỚI THIỆU...</b> 3

<b>PHẦN NỘI DUNG CHÍNH...</b> 4

<b>I.So sánh ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên</b>

1.1. Tổng quan ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên

<b>II.Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên khi làm việc chung trong hoạt động tư pháp</b>

2.1. Tổng quan về quy tắc đạo đức nghề nghiệp

2.2. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh khi làm việc chung trong hoạt động tư pháp

2.3. Chế tài khi vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên

<b>Too long to read onyour phone? Save</b>

to read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN GIỚI THIỆU</b>

Trong lịch sử văn minh nhân loại, công lý vừa là phạm trù của Triết học-Chính trị- Pháp lý- Đạo đức xã hội, vừa là mẫu mực về giá trị của luật pháp, thể hiện những khát vọng về tự do, công bằng, lẽ phải, lòng nhân ái, và những phẩm hạnh cao quý trong mỗi con người. Dù ở thời đại nào, pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Cicero đã khẳng định, pháp luật là “sự phân biệt<small>1</small> giữa những thứ công bằng và bất cơng.”

Chính vì thế con đường phát triển, nhân rộng giá trị pháp lý chưa bao giờ thiếu đi những đóng góp của những người hành nghề luật, đặc biệt là Thẩm phán, Luật sư và Kiểm sát viên. Từ những ý nghĩa lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của pháp luật, việc so sánh ba chức danh quan trọng nhất của nghề Luật giúp chúng ta có cái nhìn khái qt về những người thực hiện sứ mệnh thiêng liêng mà sự thượng tôn pháp luật và tinh thần công lý trao cho. Tiếp bước tư tưởng "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thủ tướng chính<small>2</small> phủ Phạm Minh Chính trong Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2022 nhấn mạnh: Muốn "đưa pháp luật vào cuộc sống" thì ngay từ khi xây dựng phải có các quy định cu thể, rõ ràng, khả thi, phù hợp với cuộc sống, phải "đưa hơi thở cuộc sống vào trong pháp luật". Chính vì lẽ đó, để thực hiện được những chức năng xã hội nêu trên, đạo đức nghề nghiệp chính là nguồn gốc, là nền tảng cơ bản của người hành nghề Luật.

<small>1 Cicero - một triết gia và luật gia thời La Mã cổ đại2 Hồ Chí Minh: “Việt Nam yêu cầu ca” năm 1992</small>

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>PHẦN NỘI DUNG CHÍNH</b>

I. So sánh ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên. 1.1. Khái quát ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên.

Theo kết quả khảo sát của nhóm về các chức danh nghề luật sinh viên đặc bi ệt là đối tượng sinh viên năm nhất đang theo học ngành luật mong muốn làm trong tương lai cu thể gồm luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên và một số chức danh khác, l uật sư là nghề nghiệp lựa chọn hàng đầu của các sinh viên luật hướng đến với tỉ lệ 41,7% sau đó là thẩm phán chiếm 25%, kiểm sát viên và các chức danh khác chiế m 16,7%. Vậy nên, có thể thấy rằng, các sinh viên đang theo học ngành luật đặc b<small>3</small> iệt là ở năm nhất thường có lựa chọn nghề nghiệp tương lai phổ biến nhất chính là t rở thành luật sư. Tuy vậy, nếu chọn nghề khơng vì sự sắp đặt của gia đình, vì dễ kiế m tiền, khơng chạy theo xu hướng, mà thật sự có đam mê với ngành luật thì có thể khẳng định rằng học luật không nhất thiết là trở thành luật sư. Chúng ta cần hiểu rằ ng, có rất nhiều lựa chọn ngành nghề sau khi học luật như thẩm phán, kiểm sát viê n, hay công chứng viên, thừa phát lại, giảng viên luật,...

Thị trường của ngành luật đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây cùng với sự mở rộng của các doanh nghiệp, giao dịch toàn cầu. Theo sau đó là những nghề nghiệp pháp lý khác như kế toán viên, pháp chế doanh nghiệp, tư vấn pháp lý, … đang ngày một chiếm ưu thế. Tuy nhiên, các chức danh nghề luật như thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên vẫn tiếp tuc duy trì vị thế thống trị với tư cách là những những “hiệp sĩ” xả thân mình để bảo vệ cơng lý. Ngày nay nghề luật vẫn là một nghề có tính ưu việt cao, được tổ chức dựa trên các yêu cầu giáo duc và đào tạo chuyên môn nghiêm ngặt.

Song hành với đó là khái niệm của ba chức danh đặc biệt được nêu trên. Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vu xét xử những vu án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Theo Điều 74 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành

<small>3 Xem thêm tại phu luc 1</small>

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo quy định tại Điều 2 Luật Luật sư 2006 thì Luật sư được hiểu như sau: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vu pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng).

1.2. Điểm tương đồng

Sau khi tìm hiểu về khái niệm và cách làm việc của ba chức danh nghề luật là luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán, ta thấy rằng các chức danh đều có những cơng việc được phân chia rõ ràng, tách biệt với nhau. Tuy vậy muc tiêu chung của các công việc hoạt động tư pháp là thực thi pháp luật, bảo vệ pháp chế, quyền lợi của Nhà nước, các tổ chức và công dân; góp phần ổn định và phát triển xã hội vì thế nên để thực hiện điều đó thì các cơ quan pháp luật và các chức danh nghề luật ln cần có mối quan hệ phối hợp với nhau. Hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp khơng độc lập mà ln có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với nhau tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp.

Theo đó là sự tương đồng về đặc thù nghề nghiệp giữa 3 chức danh luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán được thể hiện ở một số điều như sau:

Thứ nhất, các công việc đều lấy pháp luật ra để làm chuẩn mức nội dung và phương tiện để làm việc chung với nhau. Pháp luật luôn là chuẩn mức kiên quyết để xác định công lý, công bằng và lẽ phải, và xuyên suốt lịch sử nước nhà thì bảo vệ cơng lý và lẽ phải chính là sứ mệnh chung của các chức danh tư pháp thuộc hệ thống pháp luật, bảo vệ pháp luật cũng chính là bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của một con người. Vì vậy nên luật pháp chính là “kim chỉ nam” mà các chức danh nghề luật cần đi theo và tuân thủ theo để tạo nên một xã hội công bằng nơi mà chính nghĩa được thực thi.

Thứ hai, các cơng việc đều mang tính “bất khả kiêm nhiệm” , mặc dù đều<small>4</small> nằm trong phạm vi các chức danh tư pháp thuộc pháp luật việt nam thế nhưng giữa

<small>4 một người không thể đồng thời làm hai chức danh hoặc làm hai vị trí nghề nghiệp khác nhau trong hệ thống nghề luật</small>

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

3 chức danh luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán đều mang tính chun mơn và nghiệp vu đã được phân hóa rõ ràng giữa các chức danh với nhau. Một người đã đảm nhận chức danh tư pháp này không thể đồng thời đảm nhận chức danh tư pháp khác, nếu đã đảm nhận chức vu kiểm sát viên thì khơng thể cùng lúc đảm nhận làm luật sư, thẩm phán và ngược lại.

Thứ ba, để được làm các chức danh nghề luật như luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán thì nhìn chung đều địi hỏi người làm phải có trình độ chun mơn và nghiệp vu pháp luật cao, có kiến thức chun sâu về pháp luật. Vì nếu như một luật sư khơng có đủ kiến thức về pháp luật thì có thể tư vấn, đưa ra những lời bào chữa thiếu căn cứ cho thân chủ của mình, thẩm phán và kiểm sát viên nếu khơng có đủ chun mơn thì có thể đưa ra những quyết định công tố sai, buộc tội sai cho bị cáo. Suy cho cùng nếu khơng có đủ chun mơn thì những người làm các chức danh nghề luật sẽ gây ảnh hướng tới quyền lợi và lợi ích hợp pháp của một hoặc nhiều cá nhân

Thứ tư, đã là một người làm chức danh nghề luật thì sẽ phải chịu một trách nhiệm rất lớn vì luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán chính là những người sẽ quyết định số mệnh, hình phạt mà bị cáo sẽ phải chịu trong một phiên tòa, do vậy cả ba nghề đều mang tính nguy hiểm rất cao, người làm luật cần đảm bảo sự cơng minh tuyệt đối, có trách nhiệm với những hành động của mình, luật sư cần có những lời bào chữa đúng đắn, kiểm sát viên và thẩm phán cần xét xử, luận tội một cách minh bạch và phải lẽ nhất đối với bị cáo. Tránh để ra các sự việc đáng tiếc gây oan uổng cho một người chỉ vì sự bất trách của bản thân.

Thứ năm, các chức danh đều phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của mình, trong ngành luật nói chung thì chữ tín ln được đặt lên hàng đầu vì vậy việc tuân thủ theo các quy tắc đạo đức của nghề là điều rất cần thiết. Đạo đức nghề nghiệp là những chuẩn mực; phẩm chất của một cá nhân trong q trình làm việc nó bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực hành vi riêng được phân biệt theo từng công việc khác nhau. Những người mang chức danh nghề luật đều cần tuân thủ theo những quy tắc đạo đức này để điều chỉnh hành vi của bản thân để đảm bảo sự công bằng, tính cơng minh trong nghề luật.

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Tóm lại giữa ba chức danh nghề luật là luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán đều có điểm tương đồng nhất định với nhau để cùng vận hành trong bộ máy xét xử, thực hiện muc tiêu chung là thi hành, sử dung pháp luật một cách công bằng nhất. 1.3. Điểm khác biệt

Bên cạnh đó, các chức danh nghề luật là luật sư, thẩm phán và kiểm sát viên này vẫn có cho mình những đặc điểm phân biệt riêng, từ việc tiếp cận đến pháp luật, đối tượng, muc đích riêng của mỗi nghề. Mỗi cơng việc đều có một trọng trách riêng, để hỗ trợ, bổ sung và kết hợp với nhau để tạo nên một phiên tòa nơi pháp luật được thực thi một cách trơn tru, hiệu quả nhất. Sự khác biệt giữa 3 chức danh nghề luật là luật sư, kiểm sát viên và thẩm phán được thể hiện riêng trong mỗi công việc:

Thứ nhất, về công việc của mỗi chức danh, thì theo khoản 1 điều 65 luật tổ chức tòa án nhân dân 2014, điều 74 luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014 và điều 2 luật của luật sư 2006, sửa đổi bổ sung 2012, ta nhận ra điểm khác biệt giữa 3 nghề là: Thẩm phán là người chuyên xét xử, kiểm sát viên là người chuyên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và luật sư là người thực hiện dịch vu pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.

Thứ hai, khác biệt về tiêu chuẩn để hành nghề giữa 3 chức danh. Với chức danh thẩm phán yêu cầu ứng viên đã được đào tạo nghiệp vu xét xử và có thời gian làm cơng tác thực tiễn pháp luật, chiếu theo điều 67 luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 , chức danh kiểm sát viên yêu cầu ứng viên đã được đào tạo về nghiệp vu kiểm sát và có thời gian làm cơng tác thực tiễn theo luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014 điều 75. Còn luật sư, theo điều 10 luật của luật sư 2006, sửa đổi bổ sung 2012 thì ứng viên cần phải được đào tạo nghề luật sư và đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư.

Thứ ba, khác nhau về nhiệm vu trong hoạt động tư pháp. Theo điều 11 pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân số 02/2002/PL-UBTVQH11, sửa đổi bổ sung 2011, Thẩm phán làm nhiệm vu xét xử những vu án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của tịa án theo sự phân cơng của chánh án tịa án nơi mình cơng tác hoặc tịa án nơi mình được phái đến làm nhiệm vu có thời hạn. Cịn

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhiệm vu chính của kiểm sát viên là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chấp hành quyết định của viện trưởng viện kiểm sát nhân dân, theo điều 83 luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014. Theo điều 4 luật của luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012 nhiệm vu của luật sư là tham gia tố tung, tư vấn pháp luật, đại ngoài tố tung cho khách hàng và các dịch vu pháp lý khác từ đó góp phần bảo vệ cơng lý, quyền lợi hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Thứ tư, về nhiệm kỳ hoạt động thì theo điều 74 luật tổ chức tòa án 2014 và điều 82 luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014, nhiệm kỳ hoạt động của thẩm phán và kiểm sát viên đều là 5 năm ở nhiệm kỳ đầu tiên và 10 năm nếu như được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm ngạch khác đối với thẩm phán và nâng ngạch đối với kiểm sát viên. Còn với luật sư thì thì khơng có quy định về thời gian làm việc , trừ trường hợp làm việc theo hợp đồng lao động thì thời gian làm việc sẽ theo hợp đồng lao động

Tiếp theo ta sẽ tìm hiểu thêm về sự khác nhau giữa 3 chức danh nghề luật này trong một phiên tòa xét xử:

<b>Luật sư và kiểm sát viên: ở trong một phiên tịa thì hai chức danh này gần</b>

như là có sự đối địch với nhau, nếu như công việc của luật sư trong một phiên xét xử là người đại diện cho thân chủ của mình để đứng ra bào chữa, tham gia tố tung và soạn thảo văn bản theo các quy trình và thủ tuc của pháp luật nhằm giúp cho thân chủ giành lấy sự cơng bằng, bình đẳng. Thì kiểm sát viên là người có nhiệm vu truy tố và khởi tố bị can trước tòa án dựa trên kết quả điều tra, trái với luật sư họ là người giám sát và buộc tội bị cáo ,đưa ra một bản cáo trạng để thẩm phán có thể đưa ra một bản án công minh nhất.

<b>Thẩm phán và kiểm sát viên, luật sư: nếu như vai trò của luật sư và kiểm</b>

sát viên trong một phiên tòa như đối đầu với nhau thì thẩm phán chính là người ở giữa để đưa ra kết quả xét xử cuối cùng một cách cơng minh nhất , thẩm phán có nhiệm vu nhân danh nhà nước, nhân danh pháp luật để ra các bản án chứa đựng những phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vu án, theo hướng có tội hay khơng có tội, đúng hay sai và mức hình phạt là gì. Luật sư và kiểm sát viên là người đưa ra những cáo buộc, bào chữa và những thông tin để thẩm phán có thể ra một bản

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

án, là người gần như quyết định sinh mệnh chính trị, sự nghiệp và danh dự của một cá nhân, tổ chức .

Tóm lại tuy là cả ba chức danh này đều có những điểm khác nhau rõ rệt thế nhưng đều nằm chung trong một bộ máy tư pháp, vì vậy cả 3 nghề đều có vai trò mật thiết với nhau trong việc điều hành một phiên tòa và xử lý các vấn đề pháp lý.

II. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên khi làm việc chung trong hoạt động tư pháp.

2.1. Tổng quan về quy tắc đạo đức nghề nghiệp

Trước tiên, khái niệm quy tắc đạo đức nghề luật được hiểu là một bộ nguyên tắc và hướng dẫn đạo đức mà mọi người tham gia vào hệ thống pháp luật cần tuân theo trong quá trình thực hiện nhiệm vu của họ. Nó tạo nền tảng cho hành vi chuyên nghiệp, trung thực và tơn trọng trong tất cả các khía cạnh của công việc liên quan đến luật và hệ thống pháp luật.

Do đó, khơng thể phủ nhận tầm quan trọng của vai trò các quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi làm việc trong hoạt động tư pháp. Đầu tiên, quy tắc đạo đức nghề nghiệp đảm bảo tính chuyên nghiệp: chúng đảm bảo rằng tất cả những người tham gia vào hệ thống pháp luật thực hiện công việc của họ với tôn trọng cao độ, đạo đức và đáng tin cậy. Ngoài ra, các quy tắc đạo đức nghề nghiệp còn giúp bảo vệ quyền lợi của khách hàng: Quy tắc đạo đức đảm bảo rằng tất cả những người tham gia vào hệ thống pháp luật phải đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu và hành động với trung thực và tận tâm. Bên cạnh đó, vai trị cũng khơng kém phần quan trọng là xử lý xung đột lợi ích: chúng định hình cách mọi người tham gia vào lĩnh vực luật xử lý xung đột lợi ích giữa các bên một cách công bằng và đúng luật, đảm bảo sự công bằng trong hệ thống pháp luật. Và vai trò cuối cùng khơng thể thiếu chính là tơn trọng hệ thống pháp luật: quy tắc đạo đức nghề nghiệp đóng góp vào việc duy trì sự tơn trọng và uy tín của hệ thống pháp luật trong mắt công chúng và đối tác liên quan.

Tổng kết lại, quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực luật là một tập hợp các nguyên tắc và hướng dẫn đạo đức quan trọng mà những người tham gia vào hệ

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thống pháp luật cần tuân thủ. Được hình thành từ luật pháp, tổ chức chuyên ngành và lịch sử nghề nghiệp, quy tắc này đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo tính chun nghiệp, trung thực và tơn trọng trong mọi khía cạnh của cơng việc liên quan đến luật và hệ thống pháp luật. Nó giúp bảo vệ quyền lợi của khách hàng, xử lý xung đột lợi ích một cách cơng bằng, và duy trì uy tín và sự tơn trọng của hệ thống pháp luật trong xã hội.

2.2. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh khi làm việc chung trong hoạt động tư pháp.

Như đã đề cập trước đó, ba chức danh nghề luật gồm Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên đều có những nét tương đồng và khác biệt riêng. Tuy nhiên không thể phủ nhận được rằng ba chức danh này là những công việc cao quý của xã hội. Dù mỗi chức danh đều hướng đến một lĩnh vực riêng liên quan đến luật pháp song giữa chúng vẫn có mối quan hệ chặt chẽ trong hoạt động tư pháp ở nước ta. Do vậy nhiều tình huống khiến ba chức danh này phải cùng nhau làm việc, cùng tham gia vào quá trình thi hành án. Vậy nên ngoài những quy tắc nghề nghiệp riêng, để đảm bảo cho hoạt động tư pháp được thực hiện một cách khách quan, cơng bằng, đúng pháp luật địi hỏi các chức danh tư pháp trong đó có Thẩm phán, Luật sư và Kiểm sát viên phải tuân thủ các quy tắc nghề nghiệp chung khi làm việc cùng nhau. Ở Việt Nam đã có 3 bộ quy tắc riêng dành riêng cho từng chức danh được ban hành:

- “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán” (Ban hành kèm theo Quyết định số 87/QĐ-HĐTC ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia) gồm 17 điều.

- “Bộ quy tắc và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam” ((Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc) gồm 32 quy tắc.

- “Quy tắc chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ kiểm sát” (Ban hành kèm theo Quyết định số 21/QĐ-VKSTC ngày 07 tháng 2 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) gồm 10 điều.

Ngồi những văn bản nêu trên, cịn có một số văn bản pháp luật khác cũng nêu ra được những quy tắc đạo đức, ứng xử của các chức danh. Cu thể là:

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

- “Quyết định về quy tắc ứng xử của cán bộ, cơng chức ngành Tịa án Nhân dân” của Tòa án Nhân dân Tối cao năm 2008, dành cho chức danh Thẩm phán.

- “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam” của Liên đoàn Luật sư Việt Nam năm 2011, dành cho chức danh Luật sư.

- “Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của tòa án” của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao năm 2017, dành cho chức danh Kiểm sát viên.

- Các văn bản khác đề cập đến quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh nghề luật trong hoạt động tư pháp như Bộ luật Tố tung Dân sự năm 2015 đã có đề cập đến nghĩa vu của kiểm sát viên, thẩm phán và luật sư ở các điều 48, 58 và 76, trong khi ở Bộ luật Tố tung Hình sự năm 2015, sự đề cập đó được thể hiện trong các điều 42, 45 và 73.

Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật kết hợp với kết quả của quá trình tìm hiểu, thảo luận có thể đưa ra một số quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh tư pháp khi làm việc chung trong hoạt động tư pháp, cu thể như sau:

1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật: Đây là quy tắc cơ bản nhất, đòi hỏi các chức danh tư pháp phải tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và các quy định của pháp luật về hoạt động tư pháp. Khoản 1 Điều 3 của bộ quy tắc dành cho Kiểm sát viên có nói: “Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với Đảng Cộng sản Việt Nam; nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân”.

2. Công minh, khách quan, trung thực: Người làm nghề tư pháp là những người có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức. Do đó, họ phải luôn tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, trong đó có việc phải ln cơng minh, khách quan, trung thực trong khi thực thi nhiệm vu. Khoản 1 Điều 6 của bộ quy tắc dành cho Thẩm phán viết: “Thẩm phán có trách nhiệm bảo đảm sự cơng bằng, bình đẳng để những người tham gia tố tung thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vu của họ trong q trình giải quyết vu việc tại Tịa án”. Việc luôn công minh, khách quan, trung thực trong khi

<small>11</small>

</div>

×