Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 27 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
Nội dung: Bài tập nhóm
Mơn học: Luật Hơn nhân và gia đình
Đề bài số 01: Các điều kiện để việc nuôi con nuôi được coi là hợp pháp Bảng đánh giá xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện bài tập nhóm (đính kèm)
<i>Hà Nội, ngày ... tháng 11 năm 2023</i>
Kết quả điểm bài viết:... Kết quả điểm thuyết trình:... Điểm kết luận cuối cùng:...
Nhóm trưởng
Lê Thanh Nga
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ VÀ KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHĨM</b>
<small>CóKhơng</small> <sup>Khơng</sup><sub>tốt</sub> <small>Tốt</small> <sup>Tham gia</sup><sub>đầy đủ</sub> <sub>nhiều ý tưởng</sub><sup>Đóng góp</sup>
<b>2</b> Tạ Hương Giang 470702 Nội dung 4.1 + 4.3 <b>XXX</b> A
<b>4</b> Phan Ngọc Hà 470704 Nội dung 3.2 + Powerpoint <b>XXXX</b> A
<b>5</b> Trần Hà Anh 470705 Mở + Kết + Khái niệm <b>XXX</b> A
<b>6</b> Nguyễn Việt Đức 470706 Thuyết trình + In BTN <b>XXX</b> A
<b>8</b> Lê Thanh Nga – NT 470708 <sub>4.2 + 4.4</sub><sup>Tổng hợp, chỉnh word, Nội dung</sup> <b>XXX</b> A
<b>11</b> Nguyễn Hoàng Anh Thư 470711 Nội dung 3.1 <b>XXXX</b> A
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT</b>
Công ước La Hay năm 1993 : Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trên lĩnh lực con nuôi quốc tế
Luật NCN : Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Nghị định 19/2011/NĐ-CP : Nghị định số 19/2011/NĐ-CP của ngày 21 tháng 03 năm 2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 24/2019/NĐ-CP)
<b>MỤC LỤC </b>
MỞ ĐẦU...1
NỘI DUNG...1
1. Một số khái niệm liên quan đến nuôi con nuôi...1
1.1. Khái niệm con nuôi...2
1.2. Khái niệm nuôi con nuôi...2
1.3. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi...3
2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi...3
3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi...5
3.1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi trong nước...5
3.2. Điều kiện đối với người nhận con ni có yếu tố nước ngồi...6
3.3. Người khơng được nhận con ni...9
4. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể...10
4.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận con ni...10
4.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được cho làm con ni...11
4.3. Sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con ni...13
4.4. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước...14
5. Điều kiện về đăng ký việc nuôi con nuôi...14
5.1. Đăng ký nuôi con nuôi trong nước...15
5.2. Đăng ký ni con ni có yếu tố nước ngồi...16
5.3. Đăng ký ni con ni có yếu tố nước ngồi ở khu vực biên giới...18
KẾT LUẬN...19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...
<b> </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>MỞ ĐẦU</b>
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử và ngày nay vấn đề này đã trở thành mối quan tâm đặc biệt khơng chỉ ở cộng đồng quốc tế mà cịn ở Việt Nam. Lý giải tại sao chế định nuôi con nuôi lại được xã hội quan tâm đặc biệt, bởi đó là hành lang pháp lý bảo vệ những lợi ích tốt nhất của trẻ được nhận làm con ni, đồng thời đáp ứng nhu cầu chính đáng của những người nhận con nuôi.
Năm 2010, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua đạo luật về nuôi con nuôi đầu tiên của Việt Nam. Trong những năm qua, pháp luật về ni con ni ở nước ta đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình. Mặt khác, quy định này cịn cổ vũ, động viên, khuyến khích, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam. Vấn đề nuôi con nuôi và quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con ni qua lăng kính của pháp luật đã tạo điều kiện cho các cá nhân, gia đình có nhu cầu muốn nhận nuôi con nuôi, đồng thời cũng tạo cho các em có hồn cảnh đặc biệt được sống trong gia đình giống như mơi trường gia đình gốc của mình. Việc quy định rõ các vấn đề ni con nuôi và cơ sở thiết lập mối quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là thật sự cần thiết để đảm bảo cho trẻ em được nhận nuôi được sống trong mơi trường gia đình an tồn, lành mạnh, hạnh phúc. Đây cũng chính là một trong những biện pháp ngăn ngừa các hành vi lợi dụng hoạt động ni con ni vào mục đích như: trục lợi, hành hạ, bn bán trẻ em…
Vì vậy, nhóm 01 chúng em xin lựa chọn đề tài: “Các điều kiện để việc nuôi con nuôi được cho là hợp pháp” nhằm làm sáng tỏ việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam.
<b>NỘI DUNG1. Một số khái niệm liên quan đến nuôi con nuôi</b>
Cơ sở pháp lý: Điều 3 Luật NCN:
<b>“Điều 3. Giải thích từ ngữ</b>
Trong Luật này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. <i>Nuôi con nuôi</i> là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
2. <i>Cha mẹ nuôi</i> là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">3. <i>Con nuôi</i> là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
4. <i>Ni con ni trong nước</i> là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau thường trú ở Việt Nam.
5. <i>Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi</i> là việc ni con ni giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngồi. 6. <i>Trẻ em mồ cơi</i> là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã chết và người kia không xác định được.
7. <i>Trẻ em bị bỏ rơi</i> là trẻ em không xác định được cha mẹ đẻ. 8. <i>Gia đình gốc</i> là gia đình của những người có quan hệ huyết thống. 9. <i>Gia đình thay thế</i> là gia đình nhận trẻ em làm con ni.
<i>10. Cơ sở nuôi dưỡng là cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em, cơ sở khác</i>
được thành lập theo pháp luật Việt Nam để ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.”
Theo khoản 3 Điều 3 Luật NCN thì con ni được định nghĩa như sau: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”. Qua đó, khái niệm con ni có bao gồm các nội dung:
(1) Con nuôi là người được một người độc thân hoặc một cặp vợ chồng không sinh ra nhận làm con nuôi, về ngun tắc khơng có quan hệ huyết thống và không mang gen di truyền của người nhận nuôi.
(2) Con ni có thể có huyết thống trong phạm vi nhất định với người nhận nuôi nhưng không do người nhận ni sinh ra. Ví dụ như cơ, dì, chú, bác ruột nhận cháu ruột làm con nuôi.
(3) Người được nhận nuôi chỉ được công nhận là con nuôi của người nhận nuôi khi người được nhận nuôi đáp ứng được các điều kiện của người được nhận nuôi theo quy định của pháp luật, như điều kiện về độ tuổi, ý chí, về chủ thể. Ví dụ: cháu không thể trở thành con nuôi của ông bà nội hoặc ông bà ngoại.<small>1</small>
Khoản 1 Điều 3 Luật NCN nêu khái niệm nuôi con nuôi: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Do đó, việc ni con ni là sự kiện pháp lý làm phát sinh
<small>1 Kiều Thị Huyền Trang, </small><i><small>Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện nay</small></i><small>, Đại học Quốc giaHà Nội, Hà Nội, 2014, tr.6. </small>
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
<i>Khoản 5 Điều 3 Luật NCN định nghĩa: “Ni con ni có yếu tố nước</i>
<i>ngồi là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa</i>
người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”.
Điều 28 Luật NCN quy định có 4 trường hợp ni con ni có yếu tố nước ngồi như sau:
- Người nước ngồi thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi;
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi;
- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con ni;
- Người nước ngồi thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.
<b>2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi</b>
Một người chỉ được nhận làm con nuôi nếu đáp ứng các điều kiện được quy định tại Điều 8 Luật NCN. Cụ thể:
Người được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi”<small>2</small>, hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 1 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và của Luật Trẻ em năm 2016 . Việc nuôi con nuôi<small>34</small>
hướng tới đối tượng trước tiên là trẻ em; một trong các mục đích của việc ni con ni là “bảo đảm cho con ni được ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình” . Vậy nên pháp luật đã quy định độ tuổi tối đa của người<small>5</small>
được nhận làm con ni như trên vì khi nhận người trên 16 tuổi (bao gồm cả người đã thành niên) làm con ni thì sẽ khơng đảm bảo đúng mục đích của việc nuôi con nuôi. Đồng thời, những người ở độ tuổi dưới 16 tuổi chưa có sự trưởng thành nhất định về thể chất và tinh thần (chưa có đầy đủ NLHVDS), rất cần sự quan tâm, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục khi các em khơng có gia đình ni dưỡng. Bên cạnh đó, quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi như trên cũng tương ứng với quy định của các ngành luật khác như Luật Lao động,
<small>2 Khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.</small>
<small>3 Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (đã hết hiệu lực) quy định: Trẻ em quy định trong</small><b><small> “</small></b>
<small>Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”.</small>
<small>4 Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.</small>
<small>5 Điều 2 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.</small>
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Luật Dân sự. Như vậy, quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là tương đối phù hợp về mặt lí luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, để đảm bảo duy trì các mối liên hệ huyết thống trong gia đình và đảm bảo ngun tắc tơn trọng quyền của trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc, khoản 2 Điều 8 Luật NCN quy định trường hợp đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng được nhận làm con nuôi nếu người nhận con nuôi là cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột. Trên thực tế, có những trường hợp các em đã trên 18 tuổi và còn đang đi học (học văn hóa, học nghề, học đại học, cao đẳng, trung cấp…) nhưng Luật NCN quy định các đối tượng này vẫn không thuộc trường hợp được nhận làm con nuôi, kể cả được cha dượng, mẹ kế nhận làm con ni. Vì theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên có NLHVDS đầy đủ (Điều 20); đồng thời Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định độ tuổi kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên (Điều 8); Luật Thanh niên năm 2020 quy định độ tuổi của thanh niên là từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi (Điều 1). Như vậy, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã trưởng thành, có thể tự mình xác lập các quan hệ dân sự, quan hệ xã hội và tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, do đó khơng cịn là đối tượng để được nhận làm con nuôi.
Khoản 3 Điều 8 Luật NCN quy định người được cho làm con nuôi trong hai trường hợp sau: (1) làm con nuôi của một người độc thân hoặc (2) làm con nuôi của vợ chồng. Trường hợp thứ nhất, người con nuôi sẽ là con riêng của người độc thân đó. Trường hợp thứ hai, người con ni sẽ là con chung của cả hai vợ chồng. Pháp luật không thừa nhận việc nuôi con nuôi chung giữa hai người có quan hệ hơn nhân bất hợp pháp.<small>6</small> Luật cũng khơng cho phép người đang có vợ hoặc có chồng tự đứng ra nhận con ni riêng mà khơng có sự thoả thuận và đồng ý của người kia. Việc nhận ni con ni cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng, do cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi. Đây cũng là điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con ni có một mơi trường gia đình trọn vẹn. Mặt khác, nếu được nhận nuôi, trẻ em sẽ có được sự chăm sóc, dạy dỗ đồng thời của cả bố và mẹ, qua đó trẻ được hoàn thiện hơn về thể chất, tinh thần và nhân cách. Ở điều kiện này, luật cho phép người là cha dượng hoặc mẹ kế vẫn được nhận con nuôi (là con riêng của vợ hoặc chồng mình). Điều đó cũng có nghĩa là người được nhận làm con ni vẫn có thể làm con ni của một người khơng đang trong tình
<small>6 Trường Đại học Luật Hà Nội, </small><i><small>Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam</small></i><small>, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2022,trang 272.</small>
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">trạng độc thân (là vợ hoặc chồng của bố hoặc mẹ mình). Đây là trường hợp ngoại lệ đặc biệt vì về ngun tắc, một người khơng thể làm con ni riêng của người đang có vợ hoặc có chồng.
Pháp luật khuyến khích việc nhận trẻ em mồ cơi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt như khuyết tật, bị nhiễm HIV/AIDS, bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành giáo dục phổ cập trung học cơ sở, bị bóc lột, mua bán hoặc bị xâm hại tình dục, vv…làm con ni. Mục đích của việc khuyến khích này là giúp đỡ những trẻ em có hồn cảnh đặc biệt có thể tìm được một mái ấm trọn vẹn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất để các em có cơ hội phát triển toàn diện. Ngoài ra, trong các quy định của pháp luật về điều kiện của người được nhận làm con ni, khơng có quy định cụ thể về hồn cảnh gia đình của trẻ em cần tìm gia đình thay thế. Việc này cần được xem xét là một điều kiện cần thiết đối với người được nhận nuôi để trẻ em tránh bị lợi dụng cho làm con ni nhằm mục đích vụ lợi khác. Dù trong hồn cảnh nào các em cũng có quyền<small>7</small>
được nhận làm con nuôi để hưởng cuộc sống như mơi trường gia đình gốc.
<b>3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi</b>
Một người muốn nhận nuôi con nuôi trong nước phải đáp ứng được các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 14 Luật NCN và không thuộc trường hợp nào quy định tại khoản 2 Điều 14 của Luật này. Theo đó:
Điểm a khoản 1 Điều 14 Luật NCN quy định người nhận con ni phải là người có NLHVDS đầy đủ, tức là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị Toà án tuyên bố mất NLHVDS hoặc bị hạn chế NLHVDS. Mục đích của điều kiện này là để đảm bảo người nhận con ni phải có đủ khả năng bằng hành vi của mình, tự xác lập các quan hệ và thực hiện các quyền, nghĩa vụ đối với việc ni con ni như chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con nuôi, chịu trách nhiệm về những hành vi của con nuôi và gánh chịu những trách nhiệm pháp lý trong việc chăm sóc, giáo dục con ni.
Theo điểm b khoản 1 Điều 14 Luật NCN, tuổi của người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi phải chênh lệch tối thiểu 20 tuổi. Quy định này đặt ra để đảm bảo sự tương thích trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con về mặt sinh học, phù hợp với phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống của gia đình Việt Nam và đảm bảo sự tác động về giáo dục của cha mẹ nuôi đối với con nuôi. Tuy nhiên, điều kiện về độ tuổi này không đặt ra trong trường hợp: cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng
<small>7 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd, trang 273.</small>
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">làm con ni hoặc cơ, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con ni. Sở dĩ có quy định như vậy là để tạo điều kiện tối đa cho trẻ được sống trong mơi trường gia đình gốc của mình, được nhận nuôi và nhận sự dưỡng dục đến từ những người thân cận, gần gũi nhất.
Đây là những điều kiện tối thiểu, cơ bản, cần thiết để đảm bảo cuộc sống ổn định, tạo môi trường sống, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt nhất cho con nuôi. Điều kiện này đồng thời khẳng định sự sẵn sàng của người muốn nhận nuôi con nuôi, đã chuẩn bị đầy đủ mọi mặt để có thể bảo đảm trách nhiệm đối với việc nuôi dưỡng con nuôi. Cũng giống như điều kiện về độ tuổi, việc phải có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở không áp dụng trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con ni hoặc cơ, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi (khoản 3 Điều 14 Luật NCN).
Điểm d khoản 1 Điều 14 Luật NCN quy định người nhận con ni phải có tư cách đạo đức tốt Đạo đức là tổng thể những<i>.</i>
quan điểm, quan niệm về chân-thiện-mỹ, nghĩa vụ, danh dự,…, mà cốt lõi là điều thiện, và những quy tắc xử sự được hình thành trên cơ sở những quan niệm ấy. Đạo đức đóng vai trị vơ cùng to lớn, quan trọng đối sự phát triển của mỗi người. Trẻ em là đối tượng đang ở độ tuổi trưởng thành, tiếp thu nhanh, học hỏi từ những giá trị xung quanh để hình thành nên tư chất đạo đức của riêng mình. Bởi vậy để trẻ được lớn lên phát triển lành mạnh, đặc biệt là về mặt nhân cách, đạo đức thì cần được ni dưỡng bởi người có tư cách đạo đức tốt. Người đó sẽ trực tiếp tác động đến sự phát triển của trẻ bởi “Con cái chính là tấm gương phản chiếu của cha mẹ”. Vì vậy, việc quy định điều kiện về đạo đức đối với người nhận con nuôi là rất cần thiết.
Những điều kiện nêu trên mà pháp luật đặt ra đối với người nhận con nuôi trong nước là vơ cùng thiết thực để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ, thể hiện mong muốn của Nhà nước trong việc thiết lập một môi trường gia đình an tồn, đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ cho trẻ được nhận làm con nuôi.
Cơ sở pháp lý: Điều 14, 28, 29 Luật NCN.
Các nhà làm luật đã dự liệu ngồi những trường hợp nhận ni con ni trong nước thì cịn những trường hợp nhận ni con ni có yếu tố nước ngồi mà khi đó, người nhận con ni và người được nhận làm con ni, có một trong hai bên không mang quốc tịch Việt Nam hoặc không thường trú tại Việt Nam.
<small>8 Theo Khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.</small>
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Cụ thể các trường hợp được quy định tại Điều 28 Luật NCN được phân tích như sau.
trong 02 trường hợp: (1) Xin con nuôi thông thường; (2) Xin con ni đích danh.
Trường hợp thứ nhất được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật NCN, trường hợp thứ hai được quy định tại khoản 2 của Điều luật này. Với trường hợp xin con ni đích danh, người nhận con nuôi phải là một trong các đối tượng sau: cha dượng, mẹ kế; cơ, cậu, dì, chú, bác ruột; đã nhận nuôi anh, chị, em ruột của người được nhận làm con nuôi. Hoặc người được nhận làm con nuôi là đối tượng: trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo khác<small>9</small>. Từ đó có thể suy ra, với trường hợp xin con ni thơng thường (khơng đích danh), việc ni con ni hình thành nên mối quan hệ giữa cha mẹ và con không nằm trong những trường hợp nêu trên. Sự kiện nhận nuôi con nuôi áp dụng pháp luật của đất nước nơi người nhận con nuôi thường trú và người nhận con nuôi phải thoả mãn các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật NCN (theo khoản 1 Điều 29 Luật NCN) – giống với điều kiện của người nhận con nuôi trong nước.
cũng có 02 trường hợp xin con ni thơng thường và xin con ni đích danh như người Việt Nam định cư tại nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Tuy nhiên với trường hợp xin con nuôi thông thường, khoản 1 Điều 28 Luật NCN có quy định thêm về đất nước nơi người nhận nuôi thường trú phải là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam. Điển hình là Cơng ước La Hay năm 1993. Về cơ bản, các quy định của Công ước La Hay năm 1993 đã được nội luật hoá ở mức tối đa trong Luật NCN và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Bên cạnh đó, Việt Nam đã trải qua hơn mười năm thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với các nước Pháp, Ý, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Ailen, Hoa Kỳ, Canada, Thuỵ Sỹ và Tây Ban Nha. Cịn đối với trường<small>10</small>
hợp xin con ni đích danh, người nhận con ni (là người nước ngồi thường trú ở nước ngồi) nếu khơng thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 28 Luật NCN thì Luật cịn quy định thêm một trường hợp để họ có
<small>9 Xem quy định chi tiết về Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con ni tạiĐiều 3 Nghị định 19/2011/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 24/2019/NĐ-CP)</small>
<small>10 Đào Hà, Cục Con nuôi (2011), “Việt Nam đã phê chuẩn Công ước LaHay số 33 ngày 29/5/1193 về bảo vệ trẻem và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”, </small><i><small>Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp</small></i><small>, nguồn: truy cập: 27/10/2023.</small>
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thể nhận đích danh một trẻ em Việt Nam làm con ni, đó là “đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm ” (điểm đ khoản 2 Điều 28<small>11</small>
Luật NCN). Đây là một điều kiện hợp lý, cần thiết đối với trường hợp người nước ngoài thường trú ở nước ngoài muốn nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam. Người nhận con nuôi phải có khoảng thời gian tối thiểu là 01 năm để làm quen, hịa nhập với nền văn hóa, cộng đồng người Việt Nam. Người nhận con nuôi sẽ hiểu hơn về con người Việt, lối sống Việt để đi đến quyết định nhận nuôi trẻ em Việt Nam qua việc suy nghĩ kỹ càng, thấu đáo. Sau khi nhận nuôi, họ sẽ xây dựng một gia đình mới để ni dưỡng đứa trẻ một cách tốt nhất có thể, phù hợp với văn hóa đơi bên. Sự kiện nhận nuôi con nuôi cũng được áp dụng pháp luật của đất nước nơi người nhận con nuôi thường trú và người nhận con nuôi thoả mãn các điều kiện tại Điều 14 Luật NCN (khoản 1 Điều 29 Luật NCN) - giống với điều kiện của người nhận con nuôi trong nước.
Ở cả hai trường hợp trên, người được nhận làm con nuôi đều sẽ chuyển đến quốc gia mà người nhận con nuôi thường trú, do đó họ hồn tồn có thể gặp phải những vấn đề như bất đồng ngơn ngữ, “sốc” văn hố hay gặp vấn đề về sức khoẻ (do bị ảnh hưởng bởi thời tiết, khí hậu khác với Việt Nam). Vì vậy, người nhận con ni cần có sự quan tâm, chú ý và dành tình yêu thương sâu sắc tới người được nhận ni, nhằm mục đích cho con ni hịa nhập với văn hóa mới, cộng đồng mới để con có thể phát triển tốt về nhân cách, sức khỏe, trí tuệ. Việc nhận ni con ni trong cả hai trường hợp trên áp dụng pháp luật của đất nước mà người nhận nuôi thường trú là phù hợp, vừa đảm bảo quyền lợi của người được nhận nuôi, vừa xác định rõ pháp luật được áp dụng cho sự kiện này, tránh sự mâu thuẫn giữa pháp luật của các quốc gia.
là trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 28 Luật NCN. Yếu tố nước ngoài trong trường hợp này nằm ở người được nhận làm con nuôi – là trẻ em nước ngoài. Sự kiện này được pháp luật Việt Nam, các Hiệp định, Công ước về nuôi con nuôi mà Việt Nam tham gia điều chỉnh. Sự kiện này được áp dụng pháp luật Việt Nam là Luật NCN, các Nghị định có liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi, Công ước, Hiệp định về nuôi con nuôi mà Việt Nam ký kết như Công ước La Hay năm 1993, Hiệp định Hợp tác về nuôi con ni giữa nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp... Trong trường hợp này, người nhận con nuôi là công dân Việt Nam phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật NCN và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú (khoản 2 Điều 29 Luật
<small>11 Thời gian ít nhất 01 năm được hiểu là thời gian sống và làm việc liên tục tại Việt Nam ít nhất là 1 năm</small>
8
</div>