Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Môn Luật Hành chính: Phân tích các nguyên tắc xây dựng và thực hiện thủ tục hành chính, đánh giá việc cải cách thủ tục hành chính ở nước ta trong giai đoạn vừa qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.91 KB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Trong quản lí hành chính nhà nước (NN), thủ tục hành chính (TTHC) đóng vai trị quan trọng. TTHC hợp lí sẽ tạo nên sự hài hòa, thống nhất trong bộ máy NN, rút ngắn thời gian giải quyết cơng việc, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Cịn TTHC bất hợp lí là mảnh đất tốt cho tệ tham nhũng, cửa quyền, làm giảm lịng tin của nhân dân vào chính quyền, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác giữa nước ta với nước ngoài, gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp (DN). Chính vì vậy, cải cách TTHC là yêu cầu bức xúc của nhân dân, DN, của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngồi, là khâu đột phá của tiến trình CCHC NN. Vậy cải cách TTHC như thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất là mối quan tâm hàng đầu của NN ta hiện

<i>nay. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Phân tích các nguyên tắc xây dựng và thực hiện thủtục hành chính, đánh giá việc cải cách thủ tục hành chính ở nước ta trong giai đoạn vừa qua”</i>

để tìm hiểu và nghiên cứu.

<b>I. Khái niệm TTHC, các nguyên tắc xây dựng và thực hiện TTHC1. Khái niệm TTHC </b>

TTHC là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lí hành chính NNtheo đó cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong q trình giải quyết các cơng việc của quản lí hành chính NN.

Nội dung của TTHC rất rộng, bao gồm: Thứ nhất, số lượng các hoạt động cụ thể cần thực hiện để tiến hành những hoạt động quản lí nhất định. Thứ hai, trình tự của các hoạt động cụ thể, mối liên hệ giữa các hoạt động đó. Thứ ba, nội dung, mục đích của các hoạt động cụ thể. Thứ tư, cách thức tiến hành, thời hạn tiến hành các hoạt động cụ thể. Ngồi ra cịn có một số nội dung khác như: chủ thể thực hiện, hồ sơ biểu mẫu và các tài liệu khác cần thiết có liên quan.

Đặc điểm của TTHC:

 Thứ nhất, TTHC là thủ tục thực hiện các hoạt động quản lí hành chính NNhay TTHC được thực hiện bởi các chủ thể quản lí hành chính NN. Riêng đối với chủ thể quản lí hành chính NN, cần lưu ý quan trọng nhất là các cơ quan hành chính và các cán bộ, cơng chức trong cơ quan này ; bên cạnh đó các cơ quan NNkhác và các cơ quan, tổ chức, cá nhân được trao quyền trong những trường hợp cụ thể do luật định cũng tiến hành các TTHC khi thực hiện hoạt động quản lý hành chính NN.

 Thứ hai, TTHC do quy phạm pháp luật hành chính quy định, gồm: quy phạm nội dung trực tiếp quy định những quyền và nghĩa vụ của chủ thể quản lí và đối tượng quản lí hành chính NNvà quy phạm thủ tục quy định cách thực hiện quy phạm nội dung.

 Thứ ba, TTHC có tính mềm dẻo, linh hoạt. Có rất nhiều TTHC để phù hợp với các loại cơng việc khác nhau, thậm chí một cơng việc cũng có thể cần các TTHC khác nhau. Mặt khác các TTHC thường xuyên được thay đổi để thích ứng với sựu biến đổi linh hoạt của hoạt động quản lí

<b>2. Các nguyên tắc xây dựng và thực hiện TTHC </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>a. Nguyên tắc pháp chế</b>

Trước hết, chỉ cơ quan nn có thẩm quyền mới có quyền định ra TTHC. Hiện nay, thẩm quyền quy định TTHC tập trung vào các cơ quan nn ở trung ương. Đối với những TTHC cần phải có quy định riêng để phù hợp với từng địa phương thì phải có văn bản ủy quyền, có sự thống nhất và được cơng bố cơng khai. Bên cạnh đó, ngun tắc pháp chế cịn địi hỏi có sự thống nhất tương đối giữa các TTHC của những hoạt động quản lí tương tự nhau. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự thống nhất trong việc quy định TTHC, đồng thời hạn chế việc các chủ thế tự tiện đặt ra các thủ tục mới thay thế các thủ tục hiện có, hạn chế tình trạng quan liêu của quyền trong hoạt động quản lí hành chính.

Thứ hai, chỉ cơ quan nn, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mới có quyefn thực hiện TTHC và thực hiện TTHC trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định.

Thứ ba, TTHC phải được thực hiện đúng pháp luật. Mỗi TTHC được thực hiện nhiều lần ở những thời điểm khác nhau, bởi các chủ thể khác nhau, sự tuân thủ nghiêm ngặt các TTHC tạo nên tính khoa học, đồng bộ, thống nhất trong quản lí hành chính NN

<b>b. Nguyên tắc khách quan </b>

Định ra TTHC phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của hoạt động quản lí nhằm đưa ra quy trình hợp lí, thuận tiện nhất, mang lại kết quả cao nhất cho quản lí. Những hoạt động quản lí phức tạp, có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của NN, cộng đồng, tổ chức, cá nhân mà những sai sót nhỏ cũng có thể gây hậu quả bất lợi cho xã hội thì thủ tục cần chặt chẽ, chi tiết để định ra từng khâu, từng bước, từng giai đoạn cụ thể của hoạt động đó. Những hoạt động quản li, đơn giản, gián tiếp tác động đến những lợi ich khác nhau thì các TTHC không cần quy định ở mức chi tiết.

Khi thực hiện TTHC ở tất cả các khâu, các bước, các giai đoạn đều phải dựa trên những căn cứ khoa học. Phải đặt lợi ích của quản lí lên hàng đầu, khơng được tuyệt đối hóa lợi ích của chủ thể quản lí, cũng như đối tượng quản lí.

<b>c. Nguyên tắc công khai, minh bạch</b>

Trong xây dựng thủ tục, nguyên tắc này thể hiện: Thứ nhất, trong trường hợp cần thiết NNtạo điều kiện cho những đối tượng thực hiện thủ tục đóng góp ý kiến. Thứ hai, nội dung các thủ tục phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện. Thứ ba, các TTHC phải được công bố cho người thực hiện thủ tục biết để có thể thực hiện dễ dàng.

Trong thực hiện TTHC , nguyên tắc cơng khai, minh bạch địi hỏi cơng khai hoas quá trình thục hiện thủ tục: họ tên, chức danh người giải quyết công việc; địa ddiemr, thời hạn gải quyết,…

<b>d. Nguyên tắc đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời</b>

Thứ nhất, cần đảm bảo các tiêu chí: Mỗi TTHC chỉ bao gồm những khâu, những bước, những giai đoạn với sự tham gia của những chủ thể thật sự cần thiết để cho việc thực hiện thủ tục không lãng phí thời gian, trì trệ, cơng sức vào những hoạt động khơng thật sự cần thiết. TTHC thường có những khoảng thời gian pháp luật quy định cho các hoạt động cần tiến hành (thời hạn, thời hiệu) nhằm ràng buộc trách nhiệm của cac chủ thể của thủ tục, tạo điều iện đồng thời bắt buộc các chủ thể giải quyết dứt điểm từng vụ việc cụ thể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Thứ hai, phải không ngừng nghiên cứu để xây dựng nền TTHC đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời. Bởi, trong tình hình hiện nay, điều kiện, hồn cảnh, mơi trường, nhiệm vụ quản lí thường xuyên thay đổi nên khả năng thích ứng của nền hành chính trước những biến đổi ấy là rất quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả của quản lí.

<b>e. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các bên tham gia TTHC </b>

Mỗi bên tham gia TTHC (chủ thể sử dụng quyền lực NNvà chủ thể phục tùng quyền lưc NN) đều có thể làm xuất hiện TTHC bằng việc đưa ra yêu cầu hợp pháp, mỗi bên đều phải đáp ứng yêu cầu hợp pháp của bên kia.

Mỗi bên khi tham gia TTHC đều có quyền và nghĩa vụ pháp lí, NNtạo điều kiện và đưa ra những bảo đảm như nhau cho các bên thực hiện. Nếu xảy ra vi phạm pháp luật trong khi thực hiện thủ tục, phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình.

<b>II.Đánh giá việc cải cách TTHC ở nước ta trong giai đoạn vừa qua.</b>

Trước hết, có thể hiểu cải cách TTHC là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan NNcó thẩm quyền. CCHC khơng làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả, chất lượng hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế– xã hội của một quốc gia. Cải cách TTHC có hiệu quả một phần là do quy định của pháp luật, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là sự triển khai cụ thể tại các địa phương, các cơ quan hành chính.

<b>1. Đánh giá việc triển khai cải cách TTHC ở nước ta trong giai đoạn vừa qua </b>

<i>a. Những thành tựu đạt được</i>

 Trước tiên, có thể thấy rõ công tác chỉ đạo, điều hành trong việc cải cách TTHC đang

<i>ngày một cải thiện và hiệu quả. Về phía chính phủ: Có thể nói, nổi bật nhất chính là sự vào</i>

cuộc của CP (Chính phủ) khóa mới 2016-2021 hiện nay. Một trong những hành động đầu tiên trên cương vị Thủ tướng CP-ông Nguyễn Xuân Phúc là chủ trì một cuộc họp rộng mở với giới doanh nhân trong, ngồi nước-những người có vai trị quyết định đối với sự phát triển của đất nước, có nhiều uẩn ức về một nền hành chính với các TTHC tầng tầng lớp lớp đang bó buộc họ. Ơng đã lắng nghe, thấu hiểu và có thơng điệp tại chỗ; ngay sau đó CP đã ban hành các Nghị định nhằm tháo gỡ phần nào những khó khăn ấy. Đó chỉ là một ví dụ về sự hành động của CP trong công tác CCHC. Mặt khác, trong thời gian qua, CP cũng đã chỉ đạo quyết liệt

<i>các bộ, ngành, địa phương thực hiện công tác cải cách TTHC, đồng bộ nhiều giải pháp, nhất</i>

là cải cách TTHC về thuế, hải quan, thủ tục đầu tư và đạt được những kết quả tích cực.Theo Báo cáo Khảo sát Mơi trường Kinh doanh toàn cầu 2017 do Ngân hàng Thế giới (WB) công

<i>bố, Việt Nam xếp thứ 82/190 quốc gia được đánh giá (tăng 9 bậc so với năm 2015). Về phíacác cấp bộ, ngành, và cơ quan khác của NN đã chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành,</i>

thông tin tuyên truyền và kiểm tra thực hiện nhằm triển khai có hiệu quả chủ trương của Đảng và CP về CCHC nói chung, TTHC nói riêng. Đơn cử như cơng tác tổ chức, chỉ đạo, điều hành của Tổng cục Thuế. Liên tục từ đầu năm đến nay, Tổng cục Thuế đã ban hành nhiều quyết định để triển khai cải cách hành chính (CCHC) như: QĐ số 42/QĐ-TCT xây dựng Kế hoạch CCHC của Tổng cục Thuế năm 2017; QĐ số 116/QĐ-TCT về Kế hoạch triển khai nhiệm vụ kiểm sốt THỦ TỤC HÀNH CHÍNH;… Kết quả đầu ra của các nỗ lực này đã được ghi nhận

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i>bằng những con số rất cụ thể (đề cập ở phần sau của bài). Về phía địa phương, công tác chỉ</i>

đạo, điều hành ở một số nơi đã thực sự phát huy hiệu quả. Có thể nói, tốc độ, kết quả và hiệu quả của quá trình CCHC nói chung, TTHC nói riêng phụ thuộc rất lớn vào mức độ quyết tâm của lãnh đạo. Thực tế cho thấy, ở đâu người đứng đầu quan tâm, sâu sát, chỉ đạo quyết liệt trong cơng tác CCHC thì ở đó đơn vị thường được xếp ở vị thứ cao. Tiêu biểu trong những năm qua phải kể đến thành phố Đà Nẵng. Sự chỉ đạo xuyên suốt, quyết liệt, kiên trì và quyết tâm của cả hệ thống chính trị từ lãnh đạo Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố đến lãnh đạo các cấp, các ngành có thể nói là điều kiện tiên quyết. Sự quan tâm lãnh đạo của Thành ủy, UBND đối với công tác CCHC được cụ thể hoá bằng nhiều văn bản và hành động cụ thể như: tiến hành các cuộc kiểm tra đột xuất, tăng cường thi đua giữa các đơn vị, áp dụng nhiều mơ

<i>hình mới, sáng tạo, đột phá (như “Mơ hình một cửa điện tử tập trung”, “Khảo sát trực tuyếnmức độ hài lịng của cơng dân, tổ chức đối với công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận tiếpnhận và trả kết quả hồ sơ TTHC”, “Thực hiện cơ chế liên kết trong giải quyết TTHC về cấpgiấy phép kinh doanh có điều kiện giữa các sở, ban, ngành”, “Dịch vụ chuyển phát nhanh kếtquả giải quyết hồ sơ TTHC theo địa chỉ yêu cầu của công dân, tổ chức”…),… Nhờ vậy mà</i>

<b>chỉ số cải cách hành chính năm 2016 của thành phố tiếp tục dẫn đầu nhóm địa phương với</b>

90,32%.

 Về tính cơng khai, minh bạch: Nhìn chung quá trình thự hiện TTHC đang ngày càng được cơng khai hóa. Phần lớn các TTHC hiện nay cơng khai họ tên, chức danh người có trách nhiệm, giải quyết công việc; địa điểm, thời hạn, kết quả giải quyết cơng việc. Các TTHC hiện nay có thể tìm hiểu một cách khá dễ dàng nhờ Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC. Website này không những cung cấp một địa điểm duy nhất để người sử dụng có thể tìm kiếm các TTHC quan tâm, tăng cường khả năng tiếp cận thông tin về các quy định mà cịn tăng tính minh bạch của hệ thống thể chế và thiết lập một cơ sở lịch sử về hệ thống TTHC.

<i>Chẳng hạn trong lĩnh vực tài nguyên môi trường, đã niêm yết công khai danh mục TTHC</i>

tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả và trên trang thông tin điện tử của cơ quan Tài nguyên và Mơi trường; cơng khai quy trình, TTHC, các chủ trương, chế độ chính sách liên quan đến lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường, đặc biệt là lĩnh vực đất đai, khống sản (thơng tin quy hoạch về sử dụng đất, chế độ chính sách trong cơng tác thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng và

<i>tái định cư...) giảm phiền hà và rút ngắn thời gian thực hiện TTHC so với quy định... Còn ởcác địa phương, đơn cử như tại Đà Nẵng, với chủ trương: Chỉ khi cơng khai, minh bạch cho</i>

“dân biết” thì mới tạo cơ sở cho việc “dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chính vì vậy 100% thủ tục hành đã được cơng khai thơng qua nhiều hình thức như niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, đăng tải trên trang thông tin điện tử của thành phố, Cơ sở dữ liệu quốc gia và trên website của từng cơ quan, đơn vị. Ngoài ra, ngày càng nhiều kênh thông tin khác ra đời hỗ trợ đẩy mạnh công khai TTHC và các quy định pháp luật đến người dân. Đáng chú ý nhất là Trung tâm Thông tin dịch vụ công thuộc Sở Thông tin và Truyền thơng thành phố Đà Nẵng, đóng vai trị trung tâm hỗ trợ thơng tin về dịch vụ hành chính cơng đa phương diện, là nơi mà các tổ chức công dân có thể truy vấn về tình trạng xử lý hồ sơ; thực hiện đánh giá mức độ hài lòng của tổ chức, công dân khi tham gia các dịch vụ công trực tuyến của thành phố; tiếp nhận

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

mọi thông tin của người dân (khiếu nại, tố cáo, phản ánh thực trạng hạ tầng kỹ thuật,…) chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền liên quan xử lý một cách nhanh chóng, kịp thời.

 Đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời

Tính đến hết q III/2015, các Bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền hoặc trình CP, Thủ tướng CP ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đơn giản hóa 4.471/4.723 TTHC

<i>(đạt tỷ lệ 94,7%). Chẳng hạn, trong lĩnh vực Thuế: Đã giảm số giờ nộp thuế từ 537 giờ/năm</i>

xuống còn 117 giờ/năm (giảm 420 giờ, vượt mục tiêu đề ra là 121,5 giờ trong năm 2015), đồng thời giảm được 8 lần khai và nộp thuế GTGT, giảm được 4 lần nộp tờ khai thuế TNDN tạm tính. Thời gian hồn thuế được rút ngắn, đối với trường hợp “kiểm tra trước, hồn thuế sau” từ 60 ngày xuống cịn 40 ngày và “hoàn thuế trước kiểm tra sau” từ 15 ngày xuống còn 06 ngày; rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 5 ngày làm việc

<i>xuống 3 ngày làm việc. Trong năm 2017, Bộ Cơng Thương sẽ bãi bỏ hồn tồn 15 thủ tục và</i>

đơn giản hóa 108 TTHC trong tổng số khoảng 440 thủ tục của 17 lĩnh vực- khối lượng thủ tục cắt giảm và đơn giản hóa lên tới gần 30% tổng số TTHC hiện có của ngành cơng thương, ước tính tiết kiệm được khoảng 4,3 tỷ/năm. Tuy nhiên vẫn nhằm đảm bảo sự kiểm soát hữu hiệu của NN đối với các hoạt động đó. Bộ xác định rõ, không cắt giảm thủ tục một cách ồ ạt, đơn giản hóa quá mức gây khó khăn cho họa động kiểm soát. Với những thủ tục được xem là rườm rà và quá nhiều nên rà soát lại, lấy ý kiến người dân và DN để sửa đổi bổ sung, cải tiến

<i>bao gồm cắt giảm. Không chỉ là những cơ quan chuyên môn, mà ngay cả tại các địa phương,</i>

TTHC cũng đã được đơn giản hóa ở nhiều nơi. Đơn cử như ở tỉnh Hà Tĩnh, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt việc đơn giản hóa TTHC với mục tiêu đơn giản hóa tối thiểu 1/3 TTHC và giảm 1/2 thời gian giải quyết. UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành, đơn vị, địa phương tự kiểm tra, rà soát các văn bản để chủ động loại bỏ (cắt, bỏ, giảm, hủy) các quy định đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển. Kết quả có 18/18 đơn vị sở, ban, ngành xây dựng kế hoạch đơn giản hóa TTHC với 1.232/1.432 TTHC đưa vào kế hoạch, trong đó có 643 TTHC được đơn giản hóa về thành phần hồ sơ. Ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã, cơ bản đáp ứng mục tiêu giảm 1/2 thời gian giải quyết các TTHC (cấp tỉnh đạt 61%, cấp huyện 57%, cấp xã 51%).

Để có được kết quả đó, một phần là nhờ các giải pháp hữu hiệu như: đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học, công nghệ; thực hiện cơ chế 1 cửa, 1 cửa liên thông, 1 cửa liên thông hiện đại, xây dựng trung tâm hành chính cơng;…

<i>Thứ nhất, cơng tác đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học, công nghệ. Hệ thống ứng</i>

dụng quản lý thuế tập trung (TMS) và Hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố, với số lượng DN đang thực hiện khai thuế qua mạng là 512 nghìn DN, đạt tỷ lệ gần 99% tổng số DN trên cả nước; đã kết nối với 29 Ngân hàng thương mại trong việc nộp thuế điện tử, số lượng DN đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế là 479.001 DN trên tổng số 512.856 DN đang hoạt động đạt 93,4%. Đơn cử như tỉnh Bình Dương, đã quyết tâm trong việc cải cách TTHC và có bước đi đúng đắn là đẩy mạnh đầu tư, ứng dụng CNTT trong giải quyết TTHC. Hệ thống các thiết bị phục vụ đã được đưa vào vận hành như: hệ thống bốc số tự động, bảng thông tin điện tử hiển thị kết quả giải quyết TTHC, thiết bị tra cứu (lcios) tình trạng hồ sơ, hệ thống camera giám sát, thiết bị lấy ý kiến đánh giá của người

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

dân, DN về thái độ phục vụ của cán bộ, công chức tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trang thông tin hành chính cơng của tỉnh cũng được hồn thiện, tích hợp dữ liệu (100% TTHC cấp tỉnh, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 2, 3, tiến tới mức độ 4 theo lộ trình), hệ thống cung cấp thông tin TTHC, tổng đài nhắn tin... sẽ đưa vào vận hành đồng bộ, giúp người dân, DN có thể tra cứu thơng tin, kết quả TTHC nhanh chóng, chính xác, mọi lúc, mọi nơi. Bình Dương. Kết quả là từ vị trí thứ 12 về chỉ số CCHC (năm 2014) đã vượt lên 7 hạng để đứng vị trí thứ 5/63 tỉnh thành (theo kết quả cơng bố ngày 30/5/2017).

<i>Thứ hai, thực hiện cơ chế 1 cửa, 1 cửa liên thơng, kết quả cơ quan hành chính NN ở địa</i>

phương, nhiều cơ quan hành chính ở các cấp đã áp dụng và có những chuyển biến rõ nét. Theo đó, TTHC đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật và được cơng khai các TTHC, mức thu phí, lệ phí, giấy tờ, hồ sơ và thời gian giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân; Việc nhận yêu cầu và trả kết quả trở nên dễ dàng vì chỉ cần thực hiện tại một bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, nhờ đó bảo đảm giải quyết cơng việc nhanh chóng, thuận tiện cho tổ chức, cá nhân. Theo Tổng cục Hải quan, từ khi triển khai cơ chế 1 cửa quốc gia, xếp hạng chỉ số giao lưu hàng hoá qua biên giới của Việt Nam đã thăng 15 hạng và đứng trong 4 nước hàng đầu khu vực Asean sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Thời gian thực hiện thủ tục xuất khẩu còn 108 giờ, thủ tục nhập khẩu còn 138 giờ. Thời gian chuẩn bị hồ sơ nhập khẩu giảm 30 giờ, chuẩn bị hồ sơ xuất khẩu giảm 33 giờ và tính đến ngày 25.11.2016, trên cổng thơng tin một cửa quốc gia đã xử lý gần 213.000 bộ hồ sơ với sự tham gia của hơn 8.350 DN. Ở các địa phương, tiêu biểu phải kể đến các tỉnh xây dựng trung tâm hành chính cơng như Đà Nẵng, Quảng Ninh, Hà Giang, Thái Bình, Bình Dương,… đã đem lại hiệu quả vơ cùng lớn. Chẳng hạn ở tỉnh Bình Dương, mơ hình 1 cửa liên thơng của tỉnh Bình Dương đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của người dân. Trung tâm hành chính cơng là nơi tổ chức bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả theo cơ chế 1 cửa, 1 cửa liên thông của 20 sở ban ngành trong giải quyết TTHC cho người dân, DN. 100% TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các sở ban ngành đều được tổ chức tiếp nhận,hướng dẫn tại Trung tâm. Người dân và DN không phải trực tiếp đến các phịng ban chun mơn để nộp hồ sơ. Các sở ban ngành đều sử dụng phần mềm 1 cửa điện tử và 1 số phần mềm chuyên ngành của các bộ ngành Trung Ương. Phần mềm 1 cửa dùng chung giúp người dân, DN, lãnh đạo các sở ban ngành, lãnh đạo tỉnh theo dõi, giám sát việc tiếp nhận hồ sơ TTHC tại Trung tâm. Kết quả giải quyết TTHC được tổng hợp và cơng khai tại 4 màn hình ti vi, trong đó có 1 màn hình tivi đặt tại UBND tỉnh. Đến nay, 20 sở, ban, ngành và một số chi cục trực thuộc đã tổ chức thực hiện 1.426 thủ tục, đạt 100% TTHC được giải quyết theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp tỉnh. Các TTHC có tính chất liên thơng hiện đang thực hiện là 249 thủ tục, 32 TTHC giải quyết trong ngày. Tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hạn đạt 99,4% (số liệu theo dõi từ tháng 4/2014 đến nay).

 Về công tác kiểm sốt, rà sốt TTHC hành chính: Nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả, cơng tác cải cách TTHC cần phải đi liền với kiểm soát, rà sốt TTHC. Hiện nay, cơng tác kiểm sốt TTHC đã có những chuyển động rất tích cực trong tồn bộ bộ máy hành chính từ trung ương tới địa phương. Đến nay, đã có tất cả các bộ, ngành và 63/63 địa phương triển khai việc thành lập phòng kiểm sốt TTHC đặt tại văn phịng bộ, ngành, UBND cấp tỉnh. Cùng với

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

việc kiện toàn về tổ chức và nhân sự cho phịng kiểm sốt TTHC, hệ thống cán bộ đầu mối kiêm nhiệm làm công tác kiểm soát TTHC tại các vụ, cục, sở, ban, ngành, UBND cấp huyện và cấp xã cũng được quan tâm, kiện toàn. Hay như kết quả thực hiện rà sốt, kiến nghị đơn giản hóa TTHC trong 6 tháng đầu năm 2017: Sở GTVT đã thực hiện rà soát 11 TTHC trong lĩnh vực vận tải đường bộ, qua rà sốt đã kiến nghị đơn giản hóa 02 thủ tục (Đổi giấy phép lái xe do ngành Công an cấp và Đổi giấy phép lái xe quân sự do Bộ Quốc phịng cấp)

 Về cơng tác truyền thơng, tun truyền, phổ biến về cải cách TTHC: Việc hợp tác với các đơn vị thơng tấn báo chí trong tun truyền, phổ biến việc thực hiện cải cách TTHC đã đạt được những hiệu quả đáng khích lệ. Đồng thời, với việc thông tin kịp thời quyết tâm của CP trong thực hiện CCHC và triển khai đồng bộ các giải pháp, báo chí là cầu nối thơng tin, góp phần cung cấp cho cộng đồng, xã hội “một cái nhìn” bao quát, khách quan về quá trình đẩy mạnh CCHC,…tạo ra một sự đồng thuận lớn trong toàn xã hội, “chung tay cải cách TTHC”. Trong những năm qua, cơng tác CCHC tại Thành phố Đà Nẵng ln có sự đồng hành của các cơ quan truyền thông như Đài Phát thanhvà Truyền hình Đà Nẵng, Đài Truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng, Báo Đà Nẵng, Báo Công an Đà Nẵng, Cổng Thông tin điện tử thành phố và một số báo, đài Trung ương đặt tại thành phố như Tuổi trẻ, Thanh niên, Dân trí.… Những chương

<i>trình, chuyên mục như “Cùng chúng tôi đối thoại”, “cải cách hành chính”, “Lăng kính cơngvụ”, “5 xây, 3 chống”… đã và đang góp phần thiết thực, hiệu quả vào hiệu ứng lan tỏa của</i>

công tác CCHC đến đông đảo người dân và DN.

 Tình hình tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính: Nhiều cơ quan đã nhận thức rõ được ý nghãi của công tác này khiến cho cải cách TTHC được thực hiện hiệu quả. Đơn cử như Cục Hải quan Đồng Nai, công tác đối thoại DN, tham vấn hải quan – DN và các bên đối tác cũng được tiếp tục duy trì. Cụ thể, theo định kỳ, đơn vị tổ chức các hội nghị đối thoại DN. Song song đó là hoạt động tuyên truyền, giải đáp vướng mắc của DN thông qua chuyên mục “Hải quan Đồng Nai đồng hành cùng DN” trên các báo và đài phát thanh truyền hình và chuyên mục “Tư vấn thủ tục Hải quan qua mạng” trên website của đơn vị. Qua đó giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện thủ tục hải quan, bảo đảm việc tuân thủ chính sách, pháp luật của DN.

 Người thực hiện TTHC: Nhìn chung, so với giai đoạn trước, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm cơng tác CCHC được nâng lên một bước. Tình trạng nhũng nhiễu, hạch sách đã được giảm đáng kể.

<i>b. Những mặt hạn chế còn tồn tại</i>

Đối với nền hành chính của nước ta, cùng với việc thực hiện Nghị định số 63/2010/NĐ-CP của 63/2010/NĐ-CP, những kết quả tích cực bước đầu của hoạt động cải cách TTHC đã đem lại diện mạo mới cho nền hành chính.Tuy nhiên, hoạt động cải cách TTHC của cả nước nói chung và của các cơ quan thực thi tại các cấp chính quyền địa phương nói riêng vẫn cịn nhiều tồn tại, hạn chế.

 Về công tác chỉ đạo, điều hành: Người đứng đầu nhiều cơ quan, tổ chức chưa thể hiện quyết tâm cao và chưa quan tâm đúng mức đến công việc cải cách TTHC, chưa coi CCHC là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

 Về tính cơng khai, minh bạch: u cầu minh bạch về TTHC chủ yếu mới tập trung vào công đoạn xây dựng, soạn thảo và công bố, công khai các quy định về TTHC đã được ban hành. Cơ chế kiểm sốt việc cơng khai, minh bạch trong q trình thực thi giải quyết TTHC cịn chưa chặt chẽ... Công khai, minh bạch về TTHC tại một số địa phương vẫn chưa kịp thời

 Đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời: Ở nhiều địa phương, việc cải cách TTHC cịn chưa được thực hiện hiệu quả. Hình thức vẫn đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân; nặng nề, nhiều cửa, nhiều cấp trung gian, rườm rà, không rõ ràng về trách nhiệm; không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mở cửa và hội nhập; nhiều thủ tục vẫn thiếu thống nhất. Trong khi đó, tiến độ rà sốt, cắt giảm các quy định TTHC bất cập, phiền hà còn chậm; phần lớn bó gọn trong từng cơng việc, chính sách cụ thể; chưa có nhiều các phương án đơn giản hóa TTHC có tính chất liên thơng đa ngành, đa cấp nhằm rút ngắn thời gian và giảm thiểu thành phần hồ sơ, yêu cầu, điều kiện thực hiện TTHC.

<i>Về cơ chế một cửa, một cửa liên thông: Phát biểu tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính</i>

Đinh Tiến Dũng nhận định việc triển khai cơ chế 1 cửa trong năm 2016 có dấu hiệu trùng lại và q trình thực hiện trong thời gian qua không hề đơn giản mà phải “đến từng ông bộ trưởng” và đề nghị các bộ tiếp tục triển khai. Trên thực tế, ngoài một số địa phương như đã đề cập ở phần trên của bài, một lượng không nhỏ các địa phương, các lĩnh vực tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cịn ít; việc kiểm tra, giám sát đối với bộ phận và cán bộ tiếp nhận và trả kết quả chưa thường xuyên, chưa khoa học; tình trạng “khép kín” trong tiếp nhận và trả kết quả quả chưa được khắc phục triệt để có thể là kẽ hở cho những tiêu cực có thể xảy ra. Hoặc ở một số cơ quan, hình thức là đã thực hiện cơ chế một cửa nhưng thực chất lại chưa tuân thủ đúng các yêu cầu của cơ chế. Như tại huyện Đơng Anh, tỉnh Hà Nội vừa qua, Đồn kiểm tra công vụ TP đã kiểm tra đột xuất tại Bộ phận một cửa vào ngày 9/2/2017. tại Bộ phận một cửa, UBND huyện Đơng Anh chưa bố trí hịm thư góp ý, phiếu hẹn trả kết quả thiếu cơng khai thơng tin về đường dây nóng, chưa niêm yết địa chỉ tiếp nhận kiến nghị về TTHC, danh mục TTHC chưa được cập nhật đầy đủ. Đáng quan tâm, mức thu phí, lệ phí tại bảng niêm yết tại Bộ phận một cửa cũng chưa cập nhật theo qui định hiện hành. Ví dụ, trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, UBND huyện Đơng Anh chưa có sự phân biệt giữa cấp mới, thay đổi và cấp lại, mà thu đồng đều mức 100 ngàn đồng/việc.

<i>Về đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học công nghệ: Cơ sở vật chất mới đáp ứng được</i>

cơng việc có tính chất “thủ cơng”; chưa thực hiện được việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào hoạt động. Ngồi ra, diện tích nơi làm việc tại một số cơ quan, đơn vị chưa đạt yêu cầu diện tích đề ra, cơ sở vật chất và trang thiết bị của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một số nơi chưa đồng bộ. Theo bà Lê Thị Hoa, Trưởng phòng Công nghệ thông tin (CNTT) Sở Nội Vụ tỉnh Bà Rịa cho rằng, ứng dụng CNTT phục vụ cho việc theo dõi, thống kê đã được thực hiện ở hầu hết các đơn vị của tỉnh (thông qua phần mềm văn phòng điện tử), nhưng chất lượng hoạt động của hệ thống này không đồng đều. Việc cập nhật, công bố TTHC để phục vụ người dân, DN đến tìm hiểu có sự phân tán đầu mối, nhiều nơi niêm yết, công khai, cập nhật chưa đầy đủ, kịp thời. Trong đó, việc cơng khai thống nhất bộ TTHC trên trang thông tin điện tử của các sở, ngành hầu hết chưa được thực hiện tốt và hiệu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

TTHC phiền hà vẫn là khó khăn lớn mà nhiều DN hiện nay phải đối mặt. Trong bài báo có tiêu đề: Làm nhà ở xã hội:DN phải “đánh đu” với TTHC” mới đây đã chỉ ra: Theo phản ánh từ nhiều DN địa ốc, cái khó nhất của việc làm nhà giá rẻ là TTHC. Theo đó, để nhận được quyết định chấp thuận đầu tư một dự án, các DN phải tự thân vận động, chạy đua với thời gian để "vượt" qua rất nhiều "cửa" tại nhiều sở ngành khác nhau. Cụ thể, tại dự án nhà ở xã hội thuộc địa bàn xã An Phú Tây (huyện Bình Chánh), DN phải mất 2 năm mà vẫn chưa xong hồ sơ. Đầu tiên, công ty phải trình lên cấp huyện để xét duyệt, rồi mất thời gian đợi Sở Xây dựng TP.HCM bổ sung hồ sơ. Sau đó, DN tiếp tục đợi các sở ngành góp ý, cuối cùng là chờ UBND TP.HCM chấp thuận. Mỗi một lần trình là mất 2 tháng và 2 năm chưa xét duyệt xong

 Tình hình tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính: Việc đánh giá cơng tác cải cách TTHC tại cấp trung ương và cả cấp địa phương chưa được triển khai theo hướng tăng cường sự tham gia của người dân, DN vốn là những đối tượng sử dụng dịch vụ công này. Mặt khác tuy đã có Nghị định số 20/2008/NĐ-CP về việc giám sát và góp ý, hiến kế của tồn xã hội nhưng không được triển khai hiệu quả.

 Người thực hiện TTHC: Cơ chế bố trí nguồn lực cho cải cách TTHC chưa đáp ứng yêu cầu; nhất là về bố trí cơng chức đảm bảo kinh nghiệm và năng lực để thực hiện nhiệm vụ đầu mối tham mưu về cải cách TTHC tại các cơ quan hành chính NN. Về cơng tác cán bộ, trong khi vẫn có gần 1/4 các DN cho rằng, cán bộ NNgiải quyết công việc chưa hiệu quả, thì cũng có tới gần 1/3 DN cho rằng cán bộ NNkhông thân thiện khi giải quyết thủ tục cho DN.

Chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cịn nhiều bất cập, chưa sát với thực tiễn; việc tổ chức khảo sát nhu cầu đào tạo và đánh giá chất lượng sau đào tạo chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên.

 Về việc kiểm soát việc tuân thủ pháp luật về TTHC: Thực tế hiện nay diễn ra tình trạng cơ chế “xin-cho”, lợi ích nhóm. Vẫn cịn một số cán bộ, viên chức chưa làm việc hết trách nhiệm, lợi dụng giải quyết cơng việc để có biểu hiện nhũng nhiễu, điều này dẫn đến người dân và tổ chức phàn nàn, khơng vừa lịng.

*Ngun nhân của những mặt hạn chế:

Một số nguyên nhân khách quan phải kể đến như ngân sách cịn hạn hẹp, khơng đủ để đầu tư xây dưng khu hành chính cơng hay cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị điện tử cho cơ chế một cửa, một cửa liên thơng; thiếu cán bộ, cơng việc nhiều, trình độ cán bộ, công chức chưa đáp ứng nên dẫn đến việc giải quyết công việc liên quan đến TTHC tại một số nơi chưa kịp thời. Bên cạnh đó CCHC là một cơng việc khó khăn, phức tạp, nhiều lực cản, mà lực cản lớn nhất lại nằm ngay trong chính cac cơ quan hành chính NN. Có thể nói những hạn chế trong cải cách TTHC là do rất nhiều nguyên nhân hợp thành, nhưng trong đó, chủ yếu là do người đứng đầu cơ quan hành chính NNcác cấp chưa quán triệt sâu săc và cưa thực sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện.Vai trò của cơ quan kiểm soát thủ tục chưa được phát huy đúng mức. Ngoài ra, một phần nữa là do phap luật quy định cịn chưa chặt chẽ, thiếu tính thống nhất, dễ gây khó hiểu trong khâu thực hiện.

Ngồi ra, riêng với mơ hình "một cửa", "một cửa liên thơng" hiện nay còn vướng vẫn một số nguyên nhân như: các đơn vị báo cáo không đầy đủ nên việc thống kê, theo dõi và kết luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

chung về tình hình tiếp nhận, giải quyết hồ sơ của các đơn vị cấp tỉnh gặp khó khăn. Việc ứng dụng các trang thiết bị hiện đại khó thực hiện do từng cơ quan với quy mô, số lượng hồ sơ ít, khơng đồng đều, có thể dẫn đến lãng phí khi áp dụng (ví dụ hệ thống camera quan sát, máy bốc số, màn hình tra cứu TTHC, hệ thống lấy ý kiến người dân bằng máy điện tử)… Việc điều tra, lấy ý kiến người dân đối với chất lượng giải quyết TTHC tại các sở, ngành còn phân tán. Có tình trạng các sở, ngành bố trí CBCC không đủ tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu tiếp nhận hồ sơ hoặc bố trí kiêm nhiệm các công việc khác nhau, ảnh hưởng đến hiệu quả công việc…

<b>2. Đánh giá pháp luật về cải cách TTHC ở nước ta hiện nay</b>

*Ưu điểm:

Thứ nhất, về việc cải cách TTHC hiện nay đã được quy định trực tiếp, cụ thể đối với từng lĩnh vực ở nhiều văn bản QPPL của CP, Bộ ngành và các cơ quan hành chính ở địa phương các cấp. Chẳng hạn về tính cơng khai, minh bạch của TTHC, có Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/06/2010 của CP về kiểm sốt TTHC và Thơng tư 05/2014/TT-BTP ngày 07/02/2014 của Bộ Tư pháp Hướng dẫn công bố, niêm yết TTHC và báo cáo về tình hình, kết quả thực hiện kiểm soát TTHC; hay để quy định lập, đăng tải, khai thác dữ liệu TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC thì có thơng tư số 19/2014/TT-TBTP;…Thứ hai, các văn bản thường xuyên được điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế.

*Hạn chế:

Thứ nhất, có quá nhiều văn bản quy định, hơn thế các văn bản về lĩnh vực này hiện nay mới chỉ dừng lại ở các văn bản Nghị định, nghị quyêt, chỉ thị,.. tuy có ý nghĩa về mặt chi tiết, cụ thể, song lại trở nên rườm ra, chồng chéo, không rõ ràng, thống nhất. chẳng hạn, do có quá nhiều văn bản dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn nên các quy định về một TTHC cụ thể có thể được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy tình trạng cơng bố TTHC chưa "đầy đủ, chính xác, kịp thời" sẽ khơng đáp ứng được u cầu về công khai, minh bạch các quy định về TTHC. Thứ hai, chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật chưa cao; một số nội dung quy định chưa rõ ràng, tạo ra cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan và DN; cịn vướng mắc trong quy định về hóa đơn, chứng từ, khai thuế qua mạng, chồng chéo giữa thủ tục thuế và hải quan; thời hạn kiểm tra, thanh tra thuế tại DN...Thứ ba, một số lĩnh vực cần phải nghiên cứu, bổ sung. Như đã nêu nhiều lần trong bài, trong cải cách TTHC, vai tro của người lãnh đạo cơ quan đó là rất quan trọng. Tuy nhiên hiện nay, lại chưa quy định rõ cơ chế nào mang ý nghĩa hối thúc, ràng buộc họ thực hiện.

<b>III.Giải pháp, kiến nghị trong công tác cải cách TTHC ở nước ta hiện nay [1]</b>

Bên cạnh việc phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế yếu kém, tôi xin

<i>nhấn mạnh vào một số giải pháp như sau: Thứ nhất, cần nâng cao cơng tác, quản lí, lãnh đạo.</i>

Sự chỉ đạo xuyên suốt, quyết liệt, kiên trì và quyết tâm của cả hệ thống chính trị từ lãnh đạo Thành uỷ, HĐND, UBND đến lãnh đạo các cấp, các ngành là yếu tố tiên quyết dẫn đến thành

<i>công trong công tác CCHC. Thứ hai, công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra về CCHC</i>

</div>

×