Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

chữ nôm dao một di sản văn hóa phi vật thể quý báu của đồng bào dân tộc dao ở lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.84 MB, 14 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘIKHOA VIỆT NAM HỌC</b>

<b>BÀI TIỂU LUẬN</b>

<b>HỌC PHẦN: DI SẢN VÀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HĨA HÁN NƠM</b>

<b>Học kỳ 1 năm học 2022-2023</b>

<b>Tên chủ đề: </b>

<b>Câu 1. Chữ Nôm Dao - một di sản văn hóa phi vật thể quý báu của đồng bào dântộc Dao ở Lào Cai.</b>

<b>Câu 2. Di tích lịch sử đền Thượng mang đậm nét văn hóa truyền thống của cộng</b>

<i><b>đồng các dân tộc Lào Cai.</b></i>

<b>HÀ NỘI-2022</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Thông tin cá nhân sinh viên:</b>

Họ tên sinh viên: Nguyễn Phúc Quyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1. MỞ ĐẦU</b>

Di sản văn hóa là những tài sản vơ giá do ơng cha ta để lại cho hậu thế. Đó là những chứng tích vật chất và tinh thần, phản ánh sâu sắc nhất về đặc trưng văn hoá, về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước hào hùng, vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nguồn sức mạnh ấy đem lại tinh thần to lớn, là nội lực tiềm tàng của dân tộc qua bao thăng trầmcủa lịch sử. Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội đời sống tinh thần của con người được nâng lên rõ rệt. Nhu cầu tìm hiểu, hưởng thụ văn hóa, đặc biệt là các di sản văn hóa gắn liền với địa phương nơi mình sinh sống ngày càng được đông đảo mọi người quan tâm. Gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hóa như thế nào để vừa giữ được giá trị truyền thống ông cha để lại, vừa vận dụng sáng tạo những giá trị văn hóa mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nhu cầu của người dân luôn là một vấn đề được ngành văn hóa chú trọng và quan tâm.

Với vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, là cầu nối của tuyến hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phịng, là cửa ngõ quan trọng và hành trình ngắn nhất nối Việt Nam, ASEAN với Vân Nam và từ Vân Nam đi các tỉnh Tây Nam Trung Quốc. Tỉnh Lào Cai có lợi thế nổi bật thu hút đơng đảo các du khách trong và ngồi nước đến tham quan, chiêm ngưỡng và trải nghiệm những di sản văn hóa quý báu của quê hương. Vốn là điểm sáng của vùng biên ải xa xôi, Lào Cai là một tỉnh có đơng đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tập trung tại nơi đây. Những mảnh ghép về truyền thống, phong tục tập quán đặc sắc của cộng đồng các dân tộc đã giúp cho bản đồ văn hóa Lào Cai trở nên phong phú và rực rỡ hơn bao giờ hết. Đặc biệt ta không thể không kể đến hai di sản văn hóa tiêu biểu đó chính là chữ Nơm Dao – một di sản văn hóa phi vật thể độc đáo và quý báu của dân tộc Dao và di tích lịch sử đền Thượng mang đậm nét văn hóa truyền thống của người dân Lào Cai.

<b>2. NỘI DUNG</b>

<b>2.1.Chữ Nôm Dao - một di sản văn hóa phi vật thể quý báu của đồng bào dân tộc Dao ở Lào Cai.</b>

<b>2.1.1. Khái quát về dân tộc Dao ở Lào Cai.</b>

Người Dao ở Lào Cai có gần 90 nghìn người, gồm ba ngành Dao khác nhau: Dao Đỏ, Dao Họ, Dao Tuyển, cư trú ở các xã vùng cao của huyện Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng, Bắc Hà,... Người Dao Lào Cai được biết đến khá nổi tiếng vì sở hữu kho sách cổ quý giá với hàng vạn quyển được

lưu giữ tại các hộ gia đình. Để gìn giữ và phát huy giá trị di sản sách cổ và nghề bốc thuốc Nam cho đến ngày nay là nhờ truyền thống dạy chữ, nghề bốc thuốc cho thế hệ sau vào dịp Tết Nguyên đán.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Trong cộng đồng các dân tộc Lào Cai, người Dao có đời sống văn hóa phong phú và đậm bản sắc. Trải qua thăng trầm của thời gian, kho tàng văn hóa dân gian vẫn được lưu giữ gần như nguyên bản.

Đồng bào Dao có kho tàng tri thức về y học phong phú, do quá trình dài sinh sống trên núi cao Sapa , người dân trong bản ốm đau đều tự chữa bằng cây thuốc mọc trong tự nhiên. Do vậy người Dao đúc kết được những bài thuốc dân gian đa dạng và q giá. Chính chữ Nơm Dao đã được dân tộc nơi đây dùng để ghi chép lại những thành tựu đó từ xưa cho đến nay.

<b>2.1.2. Nét đặc sắc trong chữ Nôm Dao.</b>

Chữ Nôm Dao là một hệ thống ký tự chữ Hán được phiên âm ra tiếng Dao. Cộng đồng người Dao cho đến nay vẫn còn lưu giữ một quyển sách dùng để dạy những người bắt đầu học chữ người Dao, bằng tiếng Dao có cuốn “Tam tự kinh” - sách học vỡ lòng của hệ thống giáo dục Nho giáo thời xưa ở Việt Nam. Đây là những chữ Hán dạng phồn thể, được giữ nguyên tự dạng.

Tầng lớp trí thức người Dao qua các thế hệ đã Dao hóa cách phát âm các chữ Hán, cho gần gũi với tiếng Dao và vẫn giữ nguyên gốc nghĩa của các từ trong sách này. Phiên âm này được đọc theo một cách hoàn toàn khác tiếng Dao sử dụng trong cuộc sống thường ngày, nên các nhà nghiên cứu gọi đó là tiếng Dao trong văn chương. Trong q trình giao lưu văn hóa, người Dao cũng tiếp nhận một số từ của Nôm Tày, Nôm Việt.

Hàng năm, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, trong từng gia đình người Dao lại diễn ra các lễ trao truyền, giáo dục ý thức tu luyện đạo đức, lối sống, cụ thể là việc dạy các con cháu học chữ Nôm Dao. Tết Nguyên đán của người Dao là dịp để cộng đồng tôn vinh việc học hành, lễ nghĩa, học nghề và học cách làm người.

Trong quan niệm của họ, con trai sáng thức dậy khơng được phép ăn gì vì lý của dân tộc nếu ăn bánh hay bất cứ thứ gì khác trước khi học chữ Nơm Dao sẽ không thông minh, sáng dạ, học chữ không nhớ được. Với người Dao dạy chữ không chỉ đơn giản ở việc dạy cho con biết đọc biết viết chữ của tộc người mà còn dạy con học biết cái tình cái lý, khơng qn gốc rễ tổ tơng.

Người Dao đỏ cịn chọn ngày tốt để dạy chữ Nôm Dao cho con, những ngày từ mùng một Tết đến 15 tháng Giêng theo quan niệm của họ đều là ngày tốt nhưng chọn ra ngày hợp với tuổi của con thì việc học hành sẽ tấn tới, học tập thành công để trở thành thầy cúng - người mà cả cộng đồng tôn trọng.

Ở thôn Tả Chải (xã Tả Phìn, thị xã Sapa, tỉnh Lào Cai) có một ơng đồ dạy chữ Nơm Dao. Đó chính là ơng Tẩn Vần Siệu. Người dân gọi ơng một cách tơn kính, coi ơng là tau coỏng, nghĩa là người học rộng, biết nhiều, là bậc trí giả của người Dao. Ơng được cha mình - một thầy dạy chữ Nơm Dao có tiếng làm lễ khai tâm. Người Dao

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

quan niệm, nghi thức này sẽ khai mở cho lịng dạ, trí tuệ của con trẻ được thơng suốt, tồn tâm hướng về việc học. Những trang sách dãi dầu thời gian đã cứu rỗi cuộc đời ơng. Ơng hiểu cái lẽ rằng phải truyền dạy những gì mà thủy tổ Bàn Vương đúc kết qua hàng trăm năm trong những pho sách cổ ấy cho những người dân trong bản. Từ đó, khơng chỉ dạy cho học trị chữ Nơm Dao, mà dạy trị cả những hiểu biết của mình và những kiến thức trong sách cổ.

<i><b>Chữ viết Nôm Dao của học viên, phải viết bằng bút lông và mực tàu.</b></i>

<i><b>Chữ Nơm được viết trên giấy dó của dân tộc Dao (trưng bày ở bảo tàng văn học).</b></i>

Ta có thể thấy một số văn bản chữ Nơm Dao thường được viết trên giấy dó. Một số văn bản được viết trên vải hoặc khắc trên gỗ. Số lượng thư tịch cổ còn lại là các sách thiên văn, địa lý, kinh Phật, truyện cổ tích, thơ ca, sách cúng, gia phả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i><b>Ví dụ về tên gọi một số bộ phận cơ thể người được viết bằng (1) chữ Nôm Dao (2)cách phát âm và (3) dịch nghĩa.</b></i>

Các cuốn sách cổ bằng chữ viết Nôm Dao chứa đựng cả kho tàng tri thức của dân tộc được đúc rút qua nhiều thế hệ, phản ánh nguồn gốc, lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Dao, phản ánh quan niệm của người Dao về vũ trụ, lý giải về các hiện tượng tự nhiên, ghi chép gia phả của từng dịng tộc, kể lại q trình thiên di, tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm, răn dạy cách đối nhân xử thế, truyền đạt kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, các phong tục tập quán và mọi mặt đời sống tinh thần

Sách chữ Nôm Dao các thầy cúng sử dụng như một công cụ tâm linh, tuy nhiên kiến thức trong mỗi cuốn sách đó mang những giá trị riêng về lịch sử, văn hóa. Giá trị đầu tiên phải kể đến chính là chữ viết Nơm Dao.

Chữ “Nơm Dao” thoạt nhìn khơng khác gì hệ thống chữ Hán, nhưng đó là một hệ thống ký tự chữ Hán được phiên âm ra tiếng Dao. Tức là người Dao mượn

chữ Hán để ghi chép tiếng nói của mình. Muốn khai mở tài sản văn hóa vơ giá của dân tộc Dao, trước hết cần gìn giữ được “chìa khóa”, mà đó khơng gì khác, chính là chữ Nôm Dao.

<b>2.1.3. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị chữ Nôm Dao. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Việc phát huy giá trị chữ Nơm Dao cũng cịn gặp phải nhiều khó khăn khi các giải pháp chỉ mang tính nhất thời, khi hết dự án thì các lớp học cũng tự tan rã. Việc bảo tồn, truyền dạy chữ Nơm - Dao tại nhiều địa phương khó triển khai do chưa có một bộ giáo trình cụ thể, thống nhất. Nhiều phương án bảo tồn vẫn mang tính đơn lẻ, chưa có lộ trình dài hơi, khó triển khai,chưa áp dụng rộng rãi cho tất cả các địa phương có người Dao sinh sống. Về riêng dân tộc Dao, truyền thống các gia đình, dịng họ tổ chức truyền dạy chữ Nôm Dao cho con cháu vào dịp đầu xuân năm mới cũng không cịn được người Dao duy trì tích cực.

Hiện nay dân tộc Dao vẫn còn lưu truyền và sử dụng chữ viết của mình. Tuy nhiên, số người biết đọc và viết được chữ Dao chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, chủ yếu là các thầy mo, thầy cúng và một số các cụ cao tuổi trong dòng họ truyền lại cho các học trò, con cháu của mình.

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giúp các dân tộc có điều kiện phát triển và tiến bộ nhanh về kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếng nói và chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu số đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường và tại các trung tâm học tập cộng đồng thuộc 30 tỉnh, thành trong cả nước. Nhiều chương trình phát thanh, truyền hình, báo in bằng chữ dân tộc đã được phát sóng, phát hành tại nhiều địa phương.

Tại tỉnh Lào Cai đã triển khai dự án “Sưu tầm, biên soạn và thí điểm tổ chức một số lớp truyền dạy chữ Nôm Dao cho thanh, thiếu niên dân tộc Dao” do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai làm chủ nhiệm. Trong 10 năm qua, Lào Cai đã tiến hành tổng kiểm kê kho sách cổ và nhu cầu học chữ nôm của người dân tộc Dao tại 468 thôn, bản thuộc 8/9 huyện, thành phố của tỉnh, để có phương án bảo tồn và truyền dạy chữ Nôm trong cộng đồng người Dao. Đến nay, đã có hơn 20 lớp học chữ Nơm - Dao được mở tại các thôn, bản với trên 200 học viên tham gia.

Để bảo tồn chữ viết của dân tộc Dao sẽ còn rất nhiều việc phải làm. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Dao gợi ý, giải pháp trước mắt sẽ phải biên soạn lại bộ giáo trình chữ Nơm Dao. Mở lớp bồi dưỡng cho những người thầy cúng

“trí thức” Dao để thống nhất phương pháp, cách thức dạy và học chữ Nôm Dao. Từ đó tăng cường mở lớp dạy và học cho cán bộ, công nhân viên chức hiểu biết thêm về chữ Nơm Dao.

<b>2.2.Đền Thượng – di tích lịch sử mang đậm nét văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Lào Cai. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>2.2.1. Khái quát về Đền Thượng.</b>

Đền Thượng là một trong những di tích lịch sử quan trọng thuộc vùng Đơng Bắc. Đền cịn có tên gọi khác là Thánh Trần Từ, được xây dựng vào thời Lê, niên hiệu Chính Hịa (1680 - 1705). Nơi đây thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn – người đã có cơng lớn trong sự nghiệp bảo vệ bờ cõi nước ta.

Đền tọa lạc trên ngọn đồi Hỏa Hiệu, thuộc dãy núi Mai Lãnh của thành phố Lào Cai. Dù đã trải qua hơn ba trăm năm vật đổi sao dời, đất nước hứng chịu biết bao thăng trầm song ngồi đền vẫn vững vàng bên dịng sơng Nậm Thi và trở thành cột mốc tâm linh vững vàng của vùng biên cương phía Bắc.

Đền Thượng nằm trong quần thể di tích văn hóa bao gồm: Chùa Tân Bảo, Đền Am, Đền Mẫu, Đền Cấm, Đền Quan. Khuôn viên Đền rất rộng lớn, phía ngồi cổng ta có thể chiêm ngưỡng cây đa 300 tuổi đang vươn cành trổ tán, được công nhận là “cây đa di sản” có chu vi lớn nhất Việt Nam. Dưới bóng cây cổ thụ là miếu thờ Bà chúa Thượng Ngàn (Nữ chúa rừng xanh).

Đặc biệt, đền Thượng được đầu tư, xây dựng khang trang với 7 gian thờ chính gồm: Cung thờ Phật Thích ca Mâu ni, Cung thờ Tam tịa Thánh Mẫu; Ban thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo; Cung thờ Đức vua cha Ngọc Hoàng… và các ban thờ phía Tả Vu - Hữu Vu thờ Chầu bà Đệ Nhị Sơn Trang, Thập Nhị Tiên Cô, Chầu hầu cận Chúa và Cậu Bé thủ đền… tất cả đều được sắp đặt theo trình tự. Các pho tượng thờ sơn son thếp vàng mang dáng vẻ uy nghi tráng lệ. Bên cạnh Đền Thượng là ngôi đình hình vng với 4 cửa, 8 rồng chầu, giữa phương đình hình rùa vàng lưng đội bia đá khắc tích "Đức Thánh Trần".

<b>2.2.2. Di văn đền Thượng.</b>

<i><b>*Hồnh phi, câu đối.</b></i>

<i><b>Nội dung câu đối ở mặt phía trước Nghi mơn.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Bức hồnh phi “Văn hiến tự tại” được treo trên Nghi môn. Hai câu đối gợi nhắc đến hào khí Đơng A hay chính là hào khí đời Trần. Nhân dân Đại Việt đã đồng lịng vì nghĩa lớn, giương cao tinh thần quyết tử để chống giặc ngoại xâm.

<i><b>Nội dung câu đối ở mặt sau Nghi mơn.</b></i>

Mặt sau là bức hồnh phi “Quốc thái dân an” với hai câu đối ám chỉ dù trải qua bao thăng trầm lịch sử thì nước Đại Việt ta vẫn được giữ vững, chỉ có cuộc sống con người là đổi thay. Nhân dân đã được hưởng nền thái bình thịnh trị, khơng cịn giặc ngoại xâm chống phá.

<i><b>Nội dung câu đối ở miếu nhỏ dưới gốc đa 300 năm tuổi của đền.</b></i>

Hai câu đối mang ý nghĩa ghi nhận công ơn của Bà chúa Thượng Ngàn (Nữ chúa rừng xanh). Vì trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Bà đã linh ứng giúp cho việc giữ gìn bờ cõi nước Nam.

<i><b> * Văn bia.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Ngôi đình hình vng bên cạnh đền có 4 cửa, 8 rồng chầu. Giữa phương đình là hình rùa vàng, lưng đội bia đá khắc sự tích ngơi đền và đề tựa công lao của Đức Thánh Trần.

Văn bia được lưu giữ tại đền dù trải qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ được nét nguyên vẹn. Hầu hết các chữ trên bia vẫn còn rõ nét, một số chữ bị mất hoặc mờ nét nhưng vẫn khơng gây khó khăn cho người đọc.

<b>2.2.3. Phiên âm, dịch thuật di văn.</b>

Phiên âm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>Việt khí linh đài hồnh khơng lậpĐơng A hào khí vạn cổ tồn.</i>

Dịch nghĩa:

<i>Nước Việt đài thiêng vắt ngang trời Nhà Trần hào khí cịn mn thủa.</i>

Phiên âm:

<i>Thiên địa dịu y, thiên địa cựu Thảo hoa kim dị, thảo hoa tiền. </i>

Dịch nghĩa:

<i>Trời đất vẫn nguyên, trời đất cũCỏ hoa nay khác, cỏ hoa xưa.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Phiên âm:

<i>Thụ mộc đa sinh, sinh thế thếTiên cơ hóa hiện, hiện linh linh.</i>

Dịch nghĩa:

<i>Đa cổ sinh ra đã có thế lạTiên cơ hóa hiện, mang đến sự linh thiêng.</i>

<b>2.2.4. Nét đặc sắc và giá trị của di tích đền Thượng.</b>

Ở Lào Cai, nhân dân qua mấy trăm năm nay luôn coi Đức Thánh Trần là điểm dựa tinh thần, là niềm tự hào của tinh thần chống giặc ngoại xâm của các dân tộc nơi mảnh đất biên cương của tổ quốc. Để rồi cứ vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, hàng vạn du khách trong và ngoài tỉnh Lào Cai lại nô nức đổ về lễ hội đền Thượng để được dâng nén hương thơm tỏ lịng thành kính trước anh linh của Đức Thánh Trần. Lễ hội đền Thượng bao gồm hai phần, phần lễ và phần hội. Lễ hội mang ý nghĩa quốc gia, là niềm tự hào, sự khẳng định về chủ quyền quốc gia, tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam nói chung, của người dân Lào Cai nói riêng.

Để nhân dân các dân tộc Lào Cai và du khách có thể hiểu rõ được hết phong tục xưa của dân tộc trong các lễ hội truyền thống, phần tế lễ Ban Tổ chức lễ hội chuẩn bị một đoàn kiệu rước bài vị của Ngài với những thanh niên trai tráng khỏe mạnh, hùng dũng, cờ phướn, võng lọng rợp trời bước theo tiếng nhạc lưu thủy của dàn bát âm. Khi vào phần tế lễ, đội tế ăn mặc chỉnh tề với những bộ lễ phục của triều phục, từng đợt dâng rượu, dâng hương tế lễ theo nhịp kèn trống cung đình. Sau phần lễ dâng hương của đội tế, chủ tế đọc bản Văn tế kể về công lao cao to lớn như trời đất của Đức Thánh Trần đối với đất nước, lời tế hùng dũng, câu từ khúc triết dễ hiểu, phản ánh được

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

sức mạnh và những công lao to lớn của Ngài khi xưa, đồng thời lời tế còn là lời răn dạy đối với mỗi lớp người sau trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước. Sau phần lễ hết sức trang nghiêm hướng về Đức Thánh Trần của toàn thể nhân dân là đến phần hội đền, đây là lúc tập hợp hàng loạt các tiết mục văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống của các dân tộc Lào Cai vô cùng vui nhộn, cuốn hút hầu hết mọi người tham gia lễ hội.

Đồng thời đến với lễ hội đền Thượng, khách thập phương không chỉ được hồ mình vào khơng gian văn hố của lễ hội, mà còn được thưởng thức những đặc sản nổi tiếng trong bầu khơng khí vui tươi phấn khởi, đồn kết, bình đẳng của lễ hội mà nơi khác khó có được. Khu văn hố ẩm thực trong chương trình Hội Xuân Đền Thượng mang đậm nét văn hoá ẩm thực đặc trưng của các dân tộc

ở Lào Cai như thắng cố, cơm lam, xôi bảy màu, thịt trâu khô... đầy quyến rũ của các tộc người như Hmơng, Dao, Tày, Giáy, Xá Phó...

<b>2.2.5. Vấn đề bảo tồn và quản lí di tích đền Thượng.</b>

Trong những năm qua, công tác bảo tồn và khai thác, phát huy các giá trị của di tích đền Thượng được thành phố Lào Cai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm khai thác di sản văn hóa hướng tới phát triển du lịch bền vững.

Thực hiện đề án số 03 “Phát triển du lịch tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016-2020” và đề án số 08 “Phát triển văn hóa, thể thao tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016-2020” của tỉnh Lào Cai, Thành phố đã ban hành Đề án số 10 “Phát triển văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao gắn với giữ gìn bản sắc văn hố các dân tộc; xây dựng con người Thành phố Lào Cai văn minh, lịch sự, thân thiện, kỷ cương” là sự lựa chọn, là giải pháp phù hợp, cần thiết, có tính đột phá nhằm phát triển di tích lịch sử gắn với điểm đến độc đáo phục vụ các du khách trong và ngoài nước.

Bảo tồn và phát huy di tích lịch sử đền Thượng khơng chỉ dừng lại ở cơng việc sửa chữa, tu bổ mà cịn hướng đến tuyên truyền, quảng bá rộng khắp cả nước, xa hơn nữa là quốc tế.

Ý nghĩa của việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển di tích đền Thượng nói riêng và các di tích lịch sử, văn hóa nói chung là vơ cùng quan trọng nhưng cũng đầy gian nan bởi mỗi một di tích, mỗi một lễ hội truyền thống đều cần đến những điều kiện duy trì khác nhau.

<b>3. KẾT LUẬN.</b>

Hai di sản văn hóa chữ Nơm Dao và đền Thượng đều mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc với mục đích hướng về cội nguồn, tưởng nhớ công lao của thế hệ đi trước. Đây là một trong những nét văn hóa đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng và người dân Lào Cai nói chung. Nhờ có chữ Nơm Dao mà đồng bào Dao có thể lưu giữ

</div>

×