Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

các con đường hình thành và phát triển tâm lý cá nhân vai trò của giáo viên trong sự phát triển tâm lý của trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.5 KB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

GIẢNG VIÊN HD: TH.S NGUYỄN HỮU HẠNH SINH VIÊN: NGUYỄN THU HƯƠNG MSSV: 725601170

HÀ NỘI, 2022

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô khoa Tâm lý học đã truyền đạt những kiến thức bổ ích cho em. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng viên Nguyễn Hữu Hạnh đã luôn đồng hành và hướng dẫn cho chúng em trong học phần. Thầy đã tạo điều kiện, cơ hội để giúp đỡ và hướng dẫn em làm bài tiểu luận này. Lời cảm ơn chân thành và em chúc thầy ln mạnh khỏe, bình an, vui vẻ, hạnh phúc và thành công trên con đường sự nghiệp giảng dạy của mình.

Học phần “Tâm lý học giáo dục” là môn học khá thú vị, vô cùng bổ ích và có tính thực tế cao, đảm bảo cung cấp đầy đủ kiến thức lý thuyết cũng như thực tế cho quá trình học tập và làm việc của em sau này.

Cuối cùng, với khối lượng kiến thức nhiều và rộng, trong khi đó khả năng và hiểu biết của bản thân em lại có giới hạn và nhiều hạn chế. Vì vậy, trong quá trình thực hiện bài tiểu luận, tuy đã cố gắng hết khả năng của mình nhưng em vẫn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong thầy thông cảm và nhận xét giúp em để bài làm của em hoàn thiện hơn ạ.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 2022.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

MỞ ĐẦU

Thế giới tâm lý con người kì diệu và phong phú, nó được mọi người quan tâm và nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại. Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai, hiện tượng tâm lý đã phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các ngành khoa học về con người. Đây là một ngành khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta cho rằng,tâm lý là những thứ gì đó thuộc về lòng người, về cách ứng xử. Tâm lý học hành vi do John Watson ( 1878-1958) sáng lập ra để nghiên cứu về hành vi. Ông xem hành vi là tổ hợp các phản ứng của cơ thể người trước kích thích của mơi trường bên ngồi. Theo ơng, mọi việc làm ( kể cả suy nghĩ) đều thuộc một trong bốn loại hành vi bên ngoài, bên trong, tự động minh nhiên và tự dộng mặc nhiên. Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn hóa thành những cử động cơ thể. Khi tâm lý học hoạt động Maccxit ra đời, những chân lý khoa học đầu tiên mới lần lượt được kiểm chứng. Quan điểm của Mác-xít trên nền tảng cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Leenin đã vạch ra nguồn gốc, bản chất của tâm lý, ý thức con người; vạch ra đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. Con người tồn tại trong xã hội, lịch sử, lý trí, lao động và phạm trù hoạt động có vai trị to lớn, quan trọng trong nền tâm lý học. Hoạt động là chìa khóa tìm hiểu, hình thành, đánh giá và điều khiển tâm lý. Ý thức được tạo bởi tồn tại xã hội với cuộc sống thực, các quan hệ thực của con người và là tố thành của cuộc sống. Hoạt động giao lưu tạo ra tâm lý, ý thức và ngôn ngữ của con người. Và tâm lý học Mác-xít đã phân tích sự phát triển của tâm lý qua những giai đoạn khác nhau: bào thai, sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, nhi đồng, thiếu niên, trưởng thành, trung niên và già lão.

Vả có khi nào chúng ta tự đặt ra câu hỏi rằng là: “ Tâm lý của mỗi cá nhân hình thành và phát triển qua những con đường nào” hay chưa? Và với một người giáo viên thì liệu rằng họ có thấy được vai trị của mình trong sự phát triển của trẻ hay khơng?

Vì vậy, em thực hiện đề tài “ Các con đường hình thành nên tâm lý các nhân” nhằm đi sâu tìm hiểu, tổng

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

kết một số nét tâm lý lứa tuổi cơ bản và đưa ra một vài ý kiển cá nhân về các vấn đề có liên quan, hướng đến việc củng cố kiến thức cá nhân và giúp mọi người tiếp cận vấn đề một cách thuận lợi hơn.

NỘI DUNG

I. KHÁI NIỆM CÁ NHÂN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN.

1.KHÁI NIỆM CÁ NHÂN

Cá nhân là một con người cụ thể, sống trong một xã hội nhất định; có đời sống hoạt động giao tiếp và thế giới tâm lý riêng. Cá nhân chính là kết quả của q trình xã hội hóa cá thể người, với tư cách là một cá thể lồi, mang tính tự nhiên. Nói tới cá nhân là nói tới tính chủ thể của một con người, để phân biệt với một nhóm chủ thể và nhóm xã hội.

Để trở thành cá nhân, mỗi người phải trải qua một q trình xã hội hóa, trong đó diên ra q trình con người đó học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm lịch sử-văn hóa của xã hội, chuyển hóa thành kinh nghiệm của bản thân. Đó là quá trình chuyển hóa từ con sinh vật thành con người-xã hội. Vì vậy, có thể nói, khi nhắc tới khái niệm cá nhân, chúng ta phải bắt đầu từ khái niệm con người.

Chung quy, cá nhân chính là khái niệm dùng để chỉ một con người cụ thể sống và hoạt động trong một xã hội nhất định. Một con người, dù già hay trẻ, nam hay nữ, bình thường hay tật nguyền, dân thường hay lãnh đạo thì đều là cá nhân. Và mỗi quá trình phát triển của mỗi cá nhân, từ lúc lọt lòng cho đến khi qua đời sẽ diễn ra theo nhiều giai đoạn khác nhan; ở mội giai đoạn phát triển, cá nhân lại có những đặc điểm riêng về tâm lý.

2.CÁC QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN.

Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý cá nhân Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về số lượng các hiện tượng đang phát triển, mà khơng có sự chuyển biến về chất lượng. Ví dụ: Họ coi sự phát triển tâm lý ở trẻ em là sự tăng số lượng từ trẻ như: tăng tốc độ hình thành kĩ xảo, tăng thời gian tập trung, hoặc tăng khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ...

Từ đó, những người theo quan niệm này đã nhìn nhận khơng kém sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển tâm lý.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Quan niệm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một loại sức mạnh nào đó mà người ta khơng thể điều khiển được, không thể nghiên cứu và nhận thức được. Quan niệm sai lầm này được biểu hiện rõ ràng ở thuyết tiền định, thuyết duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố..

Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý. Nguyên lý phát triển trong triết học Mác- Lenin thừa nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là 1 q trình tích lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.

Quan điểm Mác- xít này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý trẻ em. Bản chất của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải là sự tăng hoặc giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về chất – những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định( như nhu cầu tự lập ở trẻ lên ba...). Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách của trẻ. Xét trong toàn cục, phát triển là cả 1 quá trình kế thừa. Sự phát triển tâm lý trẻ em là 1 q trình trẻ em lĩnh hội nền văn hóa của xã hội loài người. Và bằng lao động của mình, con người đã ghi lại những năng lực, kinh nghiệm... trong các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật..., con người đã tích lũy kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình trong đối tượng do con người tạo ra và các mối quan hệ giữa người với người.

Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa mơi trường, nó chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội khi có vai trị trung gian củ người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác. Bất cứ một mức độ nào của trình độ trước cũng là sự chuẩn bị cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau chuyển sang vị trí chủ yếu.

Tóm lại, sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì nhanh chóng. Đó là một q trình khơng phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến. Chính hoạt động của trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớm làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển.

Nhưng các nhà tâm lý học Mác-xít cũng thừa nhận rằng, sự phát triển tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định( một cơ thể người với những đặc điểm bẩm sinh di truyền của nó). Trẻ em sinh ra với những đặc điểm bẩm sinh, di truyền nhất định. Vì vậy, sự phát triển tâm lý của mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng. Sự khác nhau này có thể ảnh hưởng tới tốc độ đỉnh cao... của các thành tựu của con người cụ thể trong một lĩnh vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương thức khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm lý. Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết để phát triển tâm lý, những điều kiện đó khơng quyết định sự phát triển tâm lý, những điều kiện đó khơng quyết định sự phát triển tâm lý, nó có thể trở thành hiện thực hay khơng cịn phụ thuộc vào một tổ hợp những yếu tố khác nữa. II. CÁC CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT

TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN.

Có nhiều con đường hình thành và phát triển tâm lý cá nhân với những con đường phổ biến như: kế thừa, bắt chước, đồng nhất hóa, lây lan, thỏa hiệp, học tập... Kế thừa:

Kế thừa được hiểu là sự chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác các giá trị vật chất( công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, cơng trình văn hóa nghệ thuật, văn hóa...) hay các giá trị tinh thần( phong tục tập quán, truyền thống của quê hương, kinh nghiệm sản xuất...) Trong tâm lý học, kế thừa là quá trình cá nhân biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, nề nếp, truyền thống của gia đình, cộng đồng vốn được hình thành trong lịch sử và loại bỏ đi những nét tâm lý truyền thống khơng cịn phù hợp.

Ví dụ: : “Trọng nam khinh nữ” là nét tâm lý đã có từ rất lâu và đây được xem là một quan điểm sai lầm bởi trong xã hội ngày nay nam, nữ bình đẳng như nhau. Mỗi cá nhân khi hình thành và phát triển nhân cách phải biết

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

lựa chọn những quan điểm đúng đắn để học tập, loại bỏ và nói khơng với những quan điểm lệch lạc để tránh ảnh hưởng đến tâm lý cũng như nhân cách của mỗi người. Kế thừa tâm lý diễn ra với nhiều con đường khác nhau. Nó có thể là con đường của “vơ thức tập thể”, tức là cá nhân sống trong một mơi trường nhóm , cộng đồng xã hội nào đó với các đặc điểm tâm lý riêng,ở đó cá nhân có sự kế thừa các đặc điểm tâm lý đó mà bản thân cá nhân khơng ý thức được điều đó. Các thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước và tiếp tục duy trì các nét tâm lý đó. Tính cách dân tộc, lịng tự hào dân tộc , cách thức ứng xử với người khác, thậm chí là cr cách thức nhìn nhận, đánh giá và tư duy của cả một cộng đồng là minh chứng rõ ràng về con đường kế thừa này.

Nói đến cách tư duy của các dân tộc, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến hai kiểu tư duy có sự phân biệt tương đối rõ rệt. Mỗi kiểu tư duy gắn với các cộng đồng người ở các khu vực và các nền văn hóa khác nhau. Đó là kiểu tư duy biện chứng nhìn nhận sự vật luôn vận động và biến đổi liên tục, thậm chí khơng thấy được sự ổn định tương đối của nó trong các xã hội phương Đơng mà thuyết “vơ thường- sắc khơng” của Phật giáo là ví dụ. Ngược lại là kiểu tư duy logic chặt chẽ coi trọng sự ổn định của sự vật đến mức siêu hình của phương Tây. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó được kế thừa một cách “tự nhiên”. Chúng ngấm vào từng cá nhân trong cộng đồng xã hội thông qua giao tiếp tương tác của cá nhân với các cá nhân khác trong các nhóm xã hội.

Theo cách nói của Mác: “Sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào các cá nhân mà nó giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp”. Bên cạnh con đường kế thừa tự nhiên là kế thừa một cách có ý thức, thơng qua các tác động giáo dục của xã hội. Bất kì một thể chế xã hội nào cũng đề cao các giá trị truyền thống nào đó phù hợp với tính chất và xu hướng phát triển của nó. Do vậy, việc giáo dục các giá trị, các chuẩn mực trở thành cơng việc được tổ chức một cách có ý thức trong các hoạt động của xã hội đó như giáo dục, truyền thông. Đồng thời, mỗi cá nhân ở mức độ phát triển nhất định, có khả năng lựa chọn những giá trị phù hợp với bản thân để kế thừa.

Và nhờ có sự kế thừa này mà mỗi cá nhân đã có những “nguyên liêu” đầu tiên để phục vụ cho q trình “xã hội hóa” của chính bản thân mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Bắt chước:

Bắt chước là làm theo có ý thức (có chủ ý) và vơ thức. Đối với cá nhân, bắt chước là một phương thức hịa nhập mình vào nhóm xã hội. Trong nhiều trường hợp, việc bắt chước là một phương thức lĩnh hội những hành vi, thói quen, cách ứng xử và những nét tâm lý chung của nhóm. Bắt chước tâm lý có tầm quan trọng đáng kể trong việc đồng hóa trải nghiệm xã hội của một người, được quan sát trong nhiều giai đoạn phát triển cá nhân khác nhau

Ví dụ: Ở lứa tuổi mẫu giáo và trẻ nhỏ, thông qua bắt chước, các chuẩn mực hành vi, kỹ năng tự phục vụ và hành động khách quan được thông qua. Ở lứa tuổi lớn hơn nó lại mang một ý nghĩa khác.

Hiện tượng bắt chước là một hiện tượng xã hội học vơ cùng hợp lý. Ví dụ như,khi một người phải chịu áp lực với sự trợ giúp của các chuẩn mực xã hội, thì hầu hết những người tham gia trong một nhóm xã hội hành xử theo một cách nhất định, thực hiện các hành động cụ thể và sẽ khó để một người chống lại điều này. Trong trường hợp này, bắt chước là một kiểu suy nghĩ của nhóm. Mọi người muốn cảm nhận và hiểu rằng họ đúng. Những người này cư xử theo cách này để phù hợp với những người khác. Họ xem cách người khác cư xử và lấy ví dụ, sao chép mơ hình hành vi của họ, tin rằng điều này là chính xác, vì đa số hành xử theo cách này.

Trong hiện tượng bắt chước, nỗi sợ bị cơ lập có vấn đề. Mọi người đều muốn được hiểu và dễ chịu để được chấp nhận trong xã hội, bởi vì nhiều người không muốn trở thành những con quạ trắng để rồi bị loại khỏi nhóm. Đó là nhu cầu cơng nhận góp phần vào sự chấp nhận của họ đối với các giá trị và chuẩn mực của đa số.

Nói về hiệu ứng của bắt chước, nó là một biểu hiện hồn tồn khơng ổn định, bởi vì mọi người có thể dễ dàng chấp nhận sở thích và từ bỏ chúng nhanh chóng. Hiện tượng này trong khía cạnh tâm lý và xã hội học là một ý thức theo sau hành vi của người khác, một sự giải trí của hành vi nhận thức.

Cơ chế bắt chước trong tâm lý học có thể có ý thức và vô thức, tuyệt đối hoặc một phần, sáng tạo và nghĩa đen, tự nguyện và bắt buộc. Bắt chước như một cơ chế của tâm lý đại chúng có một đặc điểm đến nỗi nó biểu hiện bằng sự suy giảm ý thức cá nhân. Sự cần thiết là trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

quần chúng, không chỉ giúp giảm mức độ hợp lí mà nó cịn làm tăng cảm xúc. Trạng thái cảm xúc này góp phần khiến một người mong muốn chia sẻ nó với những người khác. Nếu tình huống thuận lợi phát sinh cho điều này, khả năng bắt chước sẽ được cập nhật. Các yếu tố thuận lợi có thể là sự hiện diện của một số người nhất định cảm thấy điều kiện gần gũi, sẵn sàng chia sẻ nó. Nó chỉ ra rằng nó sẽ trở thành cơ chế của hành vi vì nó trở thành một khả năng cụ thể từ một khả năng tiềm năng. Một người bắt đầu hiển thị các mơ hình hành vi cảm nhận của mọi người trong trạng thái cảm xúc tương tự, quan sát các mơ hình đề xuất điều chỉnh trạng thái cảm xúc tạo ra một khối người bắt chước lẫn nhau. Với sự tương tác này, trạng thái thử nghiệm tăng cường, đạt đến đỉnh điểm và sau đó giảm dần, trạng thái thử nghiệm tăng cường, đạt đến đỉnh điểm và sau đó giảm dần.

Khả năng bắt chước là vơ hạn, nó cạn kiệt, xả trạng thái cảm xúc, trong khi nhu cầu điều chỉnh trạng thái này đã bão hịa, sau đó kiểm sốt hành vi bắt đầu được khôi phục.

Cơ chế bắt chước trong việc hình thành tâm lý cá nhân sẽ có nhiều dấu hiệu khác nhau ở các nhóm tuổi khác nhau.

Ví dụ: - Ở thời thơ ấu, hiện tượng này đặc trưng bởi thực tế là đứa trẻ cảm nhận được giọng nói và chuyển động của người lớn, cố gắng xác định lần tiếp xúc đầu tiên với nó.

Ở lứa tuổi của một trẻ mẫu giáo, bắt chước tâm lý đã là một cái nhìn sâu sắc về cấu trúc ngữ nghĩa của hoạt động của một cá nhân. Nó phát triển, trải qua các giai nhất định và hoạt động hàng đầu liên quan đến tuổi tác, từ đó trị chơi cốt truyện cũng thay đổ. Đầu tiên, trẻ bắt đầu bắt chước các tính năng mở các hoạt động của người lớn, dần dần bắt đầu sao chép các mơ hình hành vi phản ánh ý nghĩa của tình huống.

-Ở tuổi thanh thiếu niên, bắt chước được định hướng nhiều hơn về nhận dạng bên ngoài với một người quan trọng hoặc với một khuôn mẫu về đặc điểm hành vi cá nhân. Ở người lớn, nó là một yếu tố của đào tạo trong các hoạt động của một số loại ( chuyên nghiệp, thể thao, cá nhân và những người khác).

Bắt chước tạo nên sự thống nhất trong ý thức, trong hành động, lối sống của các thành viên, tạo nên những

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đặc điểm tâm lý chung trong nhân cách của họ. Chính vì thế, bắt chước là một phương thức trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân trong nhóm xã hội: con cháu bắt chước tấm gương của ông bà, cha mẹ: học sinh bắt chước hành vi của giáo viên ... cả mặt tốt lẫn mặt xấu, mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực... Qua cơ chế bắt chước, mối quan hệ tương tác giữa các thành viên trong nhóm, đặc biệt là trong gia đình được bộc lộ rõ nét. Trong gia đình, sức mạnh ảnh hưởng của cha mẹ là ở lòng yêu thương, tin tưởng của họ vào con cái mình và ở niềm tin của trẻ đối với những người thương yêu của nó. Trong con mắt của trẻ em, cha mẹ là một mẫu hình chuẩn, mọi việc làm của cha mẹ đều đúng và trẻ muốn bắt chước cha mẹ, muốn trở thành một người giống với cha mẹ của mình. Trẻ bắt chước cha mẹ trong mọi hành động, lời nói. Những quan niệm đầu tiên về lý tưởng, về sự hồn thiện của trẻ có được từ “nguyên mẫu” cha mẹ. Trẻ sẽ cảm thấy tự hào khi giống cha mẹ về tính cách, khuynh hướng. Việc mong muốn được giống cha mẹ trở thành một động lực thúc đẩy trẻ ngày càng cố gắng học tập và rèn luyện theo những điều cha mẹ dạy bảo, hướng dẫn.

Đồng nhất hóa:

Có nhiều quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có quan điểm coi đồng nhất hóa như một q trình so sánh, đối chiếu một đối tượng này với đối tượng khác theo một quan điểm hay tiêu chí nhất định, từ đó khái quát, xác lập sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ khi cá nhân nhận biết các phẩm chất khác của một số cá nhân khác sẽ tiến hành việc sắp xếp cá nhân đó theo các kiểu loại khác nhau và sau đó có thế bắt chước, phỏng theo một kiểu nào đó. Như vậy theo cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá nhân lựa chọn và đồng nhất bản thân với các chủ thể khác hay với nhóm nào đó.

Theo S.Freud, đồng nhất hóa có thể hiểu như sau: -Sự đồng nhất hóa là hình thức sơ cổ nhất của sự ràng buộc với đối tượng

-Vì sự biến đổi thối hóa, sự đồng nhất hóa chiếm chỗ của sự ràng buộc Libido với đối tượng, sở dĩ như vậy là vì đối tượng được đưa vào trong cái tơi.

-Sự đồng nhất hóa xuất hiện khi nào một người nhận thấy mình có một nét chung với một người khác, tuy rằng người khác ấy không phải là đối tượng của Libido.

</div>

×