Tải bản đầy đủ (.doc) (251 trang)

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2024

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 251 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>Chương 1. <small>ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUMÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</small></b> 3.5. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh

nghiệm thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)

<b>Chương 4.<small>ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCHMẠNG VÀ TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNGTHỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)</small></b>

56 4.1. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền và chuẩn bị

tồn quốc kháng chiến (9/1945 - 12/1946) 4.4. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm

của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

84

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Chương 5.<small>ĐẢNG LÃNH ĐẠO TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI HAICHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG (1954 - 1975)</small></b>

90 5.1. Đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới 90 5.2. Đảng lãnh đạo thực hiện các kế hoạch Nhà nước ở miền

Bắc, đấu tranh chống đế quốc chống Mỹ và tay sai ở miền 5.4. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm

của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

<b>Chương 6.<small>ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐCVIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 1986)</small></b>

123 6.1. Đảng lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước

(1975 - 1976)

123 6.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình

Đảng chỉ đạo xây dựng, bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1981)

<b>6.3. Đảng lãnh đạo đổi mới từng phần (1979 - 1985)</b> 140 6.4. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm quá trình Đảng lãnh

đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1986)

<b>Chương 7.<small>ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘIỞ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI</small></b>

<b>Chương 8.<small>ĐƯỜNG LỐI VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINHTẾ - XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI</small></b>

172 8.1. Đường lối phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới 172 8.2. Chiến lược phát trển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 182

<b>Chương 9.<small>ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ TĂNG CƯỜNG QUỐCPHÒNG - AN NINH VÀ MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐINGOẠI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI</small></b>

9.1. Đường lối của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đổi mới

193 9.2. Đường lối của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại trong

thời kỳ đổi mới

<b>Chương 10.<small>ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNHTRỊ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI</small></b>

212 10.1. Hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới 212

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

10.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới

<b>Chương 11.<small>NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỚN CỦA CÁCHMẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG </small></b>

228 11.1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội 228 11.2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân

232 11.3. Khơng ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết 236 11.4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức

mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế

241 11.5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết

định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

245

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Chương 1</b>

<b>ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUMÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</b>

<b><small>1.1. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU MÔN LỊCHSỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</small></b>

<b>1.1.1. Đối tượng nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

<i>Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một khoa học, đối tượng nghiên cứu là</i>

những quy luật về sự ra đời, phát triển của Đảng và những quy luật về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng.

Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu nhóm quy luật về sự ra đời, phát triển, trưởng thành của Đảng (nghiên cứu về bản thân Đảng). Nhóm quy luật này địi hỏi phải làm rõ: Tính tất yếu khách quan ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là do nhu cầu đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp phát triển đến độ chín muồi địi hỏi phải có Đảng lãnh đạo; quy luật ra đời của Đảng (sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam), vừa phản ánh quy luật chung về sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới, thể hiện tính đặc thù về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đồng thời, làm rõ quy luật xây dựng, phát triển, trưởng thành của Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; về mối quan hệ giữa số lượng, chất lượng đảng viên; thành phần giai cấp và tiêu chuẩn đảng viên; đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng; về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng,…

Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu nhóm quy luật về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng. Nghiên cứu nhóm quy luật này phải làm rõ những vấn đề có tính quy luật trong nội dung lãnh đạo của Đảng; con đường, biện pháp Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi; về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng qua mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Xác định đối tượng nghiên cứu của môn học cần phân biệt rõ ranh giới giữa Lịch sử Đảng với Lịch sử dân tộc, Lịch sử quân sự. Mặc dù giữa ba bộ mơn này có mối liên hệ với nhau, nhưng môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu riêng, không trùng lặp với các chuyên ngành khác trong khoa học lịch sử. Vì vậy, cần nắm vững đối tượng nghiên cứu của từng chuyên ngành lịch sử thì mới lựa chọn được nội dung theo đúng phạm vi xác định, đồng thời làm cơ sở mở rộng nghiên cứu sang các lĩnh vực khác thuộc ngành lịch sử, để hỗ trợ cho việc nghiên cứu, học tập được toàn diện và hiệu quả hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i><b>1.1.2. Chức năng của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam a) Chức năng nhận thức</b></i>

Môn học Lịch sử Đảng giúp học viên học tập, nghiên cứu, tái hiện, miêu tả, giải thích các hiện thực lịch sử về Đảng và quá trình lãnh đạo của Đảng một cách khách quan, khoa học. Qua đó giúp người học nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về đường lối chiến lược, sách lượng của Đảng và những khái niệm, phạm trù, quy luật về sự phát triển của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lịch sử.

Nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam còn giúp người học nhận rõ xu hướng vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam, của xã hội Việt Nam. Học Lịch sử Đảng đồng thời giúp người học nhận thức được quá khứ, hiểu rõ hiện tại và dự đoán được tương lai của sự phát triển. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Khi xem xét bất cứ một hiện tượng xã hội nào trong quá trình phát triển của nó, thì bao giờ người ta cũng tìm thấy trong đó vết tích của q khứ, những cơ sở của hiện tại và những mầm mống của tương lai”<small>1</small>. Dự đoán tương lai là vấn đề khó, nhiều mơn

<i>khoa học xã hội nhân văn có chức năng dự báo, song khoa học Lịch sử Đảng cóđiều kiện để thực hiện sự dự báo đó tốt nhất. Ví dụ: Năm 1942, trong tác phẩmLịch sử nước ta, Hồ Chí Minh đã dự báo: Năm 1945, Việt Nam độc lập. Sau này,</i>

Người cịn nhiều lần dự báo chính xác trong hai cuộc kháng chiến. Để dự báo đúng tương lai địi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức lịch sử sâu, rộng và tư duy lý luận sắc sảo, nhạy bén với cái mới.

<i><b>b) Chức năng giáo dục</b></i>

Chức năng giáo dục của khoa học Lịch sử Đảng là giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức cách mạng, định hướng hành động đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, phục vụ các nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài. Thực hiện tốt chức năng nhận thức là cơ sở thực hiện chức năng giáo dục. Nội dung giáo dục bao gồm những vấn đề cơ bản sau:

Vấn đề quan trọng hàng đầu của Khoa học Lịch sử Đảng là giáo dục nâng cao sự giác ngộ sâu sắc về mục tiêu cách mạng, lý tưởng của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây cũng là nội dung cốt lõi trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và của toàn xã hội Việt Nam, của mọi cn người Việt Nam.

Giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa trong sáng, chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô vanh nước lớn. Chú trọng không ngừng giáo dục chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa yêu nước thời

<small>1 V.I.Lênin, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2005, tr. 218.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đại Hồ Chí Minh, giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử.

Giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng, góp phần nâng cao giác ngộ, niềm tin xã hội chủ nghĩa, giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin tuyệt đối của quần chúng vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và tất yếu thắng lợi của con đường cách mạng vô sản mà Đảng và dân tộc lựa chọn, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nêu cao ý chí quyết tâm, ra sức phấn đấu, cống hiến thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

<i><b>c) Chức năng dự báo</b></i>

Chức năng dự báo của khoa học Lịch sử Đảng là trên cơ sở nhận thức những gì diễn ra trong quá khứ để hiểu rõ về hiện tại và dự báo tương lai của sự phát triển. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng để dự báo chính xác các

<i>sự kiện nổi bật của cách mạng Việt Nam. Năm 1942, trong tác phẩm Lịch sử nướcta, Người dự báo “Năm 1945 Việt Nam độc lập” và thực tế lịch sử đã diễn ra đúng</i>

như dự đoán của Người. Hiện nay, trước những diễn biến nhanh chóng, mau lẹ và phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến năng lực dự báo chiến lược. Có dự báo sát đúng thì mới chủ động đề ra đường lối, chủ trương phù hợp, lượng đón thời cơ, vượt khó khăn, thách thức, đưa đất nước tiếp tục vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ngoài những chức năng cơ bản trên, Khoa học Lịch sử Đảng cịn có chức

<i>năng phê phán. Để tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu của Đảng phải</i>

kiên quyết phê phán những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, hư hỏng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết đấu tranh và đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, thực sự tiêu biểu về đạo đức, trí tuệ, văn minh…

<b>1.1.3. Nhiệm vụ của mơn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

<i><b>a) Trình bày đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạncách mạng</b></i>

Trình bày đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất của khoa học Lịch sử Đảng. Đảng lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo toàn xã hội trước hết bằng đường lối, chủ trương, chính sách… Hoạch định đường lối là nội dung căn bản trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là nhân tố bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đưa cách mạng phát triển. Trình bày đường lối cách mạng của Đảng phải trung thực, khách quan, khoa học; trong đó cần tập trung làm rõ một số nội dung chủ yếu, như:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>Trình bày hồn cảnh lịch sử hình thành đường lối của Đảng trong từng thờikỳ, giai đoạn cách mạng.</i>

Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, luôn xuất hiện những yêu cầu khác nhau ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử cụ thể, đòi hỏi Đảng phải nắm vững, giải quyết thành công những yêu cầu lịch sử đó.

Trình bày hồn cảnh lịch sử là dựng lại bối cảnh chân thực, sinh động, cụ thể của lịch sử. Chú trọng đi sâu, làm rõ đặc điểm tình hình có liên quan, tác động chi phối đến việc hoạch định đường lối của Đảng; không liệt kê các sự kiện, phải chọn lọc các sự kiện điển hình nhất, liên quan trực tiếp đến sự hình thành đường lối của Đảng ở một thời kỳ, giai đoạn lịch sử nhất định.

Trình bày hồn cảnh lịch sử là làm rõ căn cứ thực tiễn để Đảng vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm cách mạng thế giới, kinh nghiệm cách mạng Việt Nam vào thực tiễn, định ra đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp cho từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng.

<i>Trình bày quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối.</i>

Đường lối cách mạng của Đảng có q trình hình thành và qua chỉ đạo thực tiễn từng bước được bổ sung, phát triển, hoàn thiện. Đường lối ban đầu của Đảng trên từng lĩnh vực, trong mỗi giai đoạn cách mạng có thể đúng trên những vấn đề cơ bản, song thông thường đều mang tính chất đặt nền móng và sơ khai. Qua tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đường lối đó dần được bổ sung, phát triển đi đến hồn thiện cho phù hợp với diễn biến tình hình và thực lực cách mạng. Thực tiễn cho thấy đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hình

<i>thành từ Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, được Hội nghị thành lập Đảng(03/02/1930) thông qua; Luận cương Chính trị (10/1930); các Nghị quyết</i>

Trung ương 6 (11/1939), Trung ương 7 (11/1940), Trung ương 8 (5/1941) bổ sung, phát triển và được hoàn thiện tại Đại hội II (02/1951) của Đảng. Các nội dung đường lối cách mạng trên từng lĩnh vực như đường lối quân sự, kinh tế, đối ngoại… của Đảng cũng diễn ra quá trình hình thành, phát triển, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.

<i>Trình bày quá trình Đảng tổ chức thực hiện đường lối (tổ chức thực tiễn). </i>

Tổ chức thực tiễn là q trình đưa đường lối, chính sách của Đảng vào phong trào hành động cách mạng của quần chúng, biến đường lối thành kết quả trong thực tiễn. Quá trình tổ chức thực hiện đường lối bao gồm nhiều hoạt động đan xen với nhau như công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác chính sách, phát động các phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng lãnh đạo toàn diện các mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối thành Hiến pháp, pháp luật và những chính sách, kế hoạch đồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

bộ, cụ thể. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước. Là Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự kiểm tra của mình đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội, qua đó kịp thời phát hiện, uốn nắn những lệch lạc, phát hiện những nhân tố mới, những kinh nghiệm mới bổ sung và hồn thiện đường lối.

<i><b>b) Trình bày phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạocủa Đảng</b></i>

Đảng lãnh đạo trước hết bằng đường lối, chiến lược và sách lược cách mạng. Song để đường lối của Đảng trở thành kết quả cụ thể trong thực tiễn cách mạng thì đường lối đó phải được đưa vào phong trào hành động của quần chúng. Vì vậy, để hồn thành tốt nhiệm vụ, Đảng phải biết tập hợp, tổ chức, tuyên truyền, giáo dục và phát động quần chúng lên mặt trận đấu tranh theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Tiến trình cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng luôn nhận thức rõ vai trò “đầu tàu” của quần chúng nhân dân trong lịch sử, quán triệt sâu sắc quan điểm “lấy dân làm gốc” trong mọi hoạt động lãnh đạo cách mạng của mình và hết sức chú trọng cơng tác tổ chức, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân. Nhờ đó, sức mạnh của quần chúng nhân dân đã được phát huy cao độ và mối quan hệ Đảng - dân ngày càng bền chặt hơn. Trình bày phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng là trình bày những vấn đề sau đây:

Quá trình Đảng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu sát hợp với nguyện vọng, khả năng của quần chúng và tiến hành tập hợp, vận động, tuyên truyền, giáo dục, huy động, tổ chức quần chúng với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử nên đã lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhất tề đứng lên, tin theo Đảng và đấu tranh cách mạng.

Trình bày sự phát triển phong trào cách mạng của quần chúng đi từ thấp đến cao trong những bối cảnh lịch sử cụ thể. Phong trào cách mạng thường đạt tới cao trào, song đơi khi cũng có tổn thất, mất mát, thậm chí có khi thối trào, nhưng kết cục đều phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.

Từ quá trình lãnh đạo của Đảng và phong trào hành động cách mạng của quần chúng để làm nổi bật mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Đó là mối quan hệ máu thịt giữa lãnh đạo với thực hiện trong sự gắn kết bền vững trên cơ sở hội tụ thống nhất của ý Đảng - lịng dân. Có Đảng lãnh đạo, phong trào quần chúng trở nên tự giác, có mục đích rõ ràng và được tổ chức chặt chẽ. Ngược lại., quần chúng nhân dân là người trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng bằng những kết quả sinh động trong thực tiễn và đóng góp trí tuệ, cơng sức cho sự hình thành, phát triển, hồn thiện đường lối cách mạng của Đảng nói chung, với cơng tác xây dựng Đảng nói riêng. Ví dụ, Chỉ thị 100 (1/1981) của Ban Bí thư

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

“Về khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp”, là kết quả tổng kết từ các hiện tượng khoán “chui” ở cơ sở và làm thí điểm khốn cây lúa vụ mùa năm 1980 dưới sự chỉ đạo của các tỉnh uỷ.

Trình bày phong trào cách mạng của quần chúng, rút ra được những bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào quần chúng. Đó là bài học kinh nghiệm về phát động một cao trào cách mạng; về tổ chức và nuôi dưỡng phong trào, nhất là lúc cách mạng khó khăn. Trong điều kiện ngày nay cần đặc biệt quan tâm đến sự tổng kết những chủ trương, biện pháp làm cho Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, bảo vệ Đảng, tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng. Tổng kết rút ra những bài học về phong trào cách mạng của quần chúng cũng là tổng kết sự lãnh đạo của Đảng.

<i><b>c) Trình bày nhiệm vụ xây dựng Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng</b></i>

Nhiệm vụ này đòi hỏi phải trình bày tồn bộ tiến trình lịch sử xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng luôn ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước, thời đại trong mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng. Nội dung đó bao gồm những vấn đề sau đây:

Trình bày quá trình hình thành, phát triển, hồn chỉnh đường lối về cơng tác xây dựng Đảng trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Trong đó cần làm rõ về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ… của công tác xây dựng Đảng; về nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng; về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.

Quá trình xây dựng, củng cố, phát triển đội ngũ Đảng viên và hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Công tác tuyên truyền, giáo dục bồi đắp lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, niềm tin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhiệm vụ xây dựng và đấu tranh tư tưởng, lý luận trong nội bộ Đảng và trình bày những bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng.

Lịch sử xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức gắn bó chặt chẽ với nhau. Trình bày nhiệm vụ xây dựng Đảng phải bắt đầu từ nhiệm vụ chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử, đó là căn cứ để Đảng xác định yêu cầu cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm đáp ứng hiệu quả với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Do đó, u cầu về xây dựng Đảng có những tiêu chuẩn chung của đảng viên cho mọi thời kỳ, nhưng cũng có những tiêu chí cụ thể trong từng thời kỳ cách mạng. Bởi vậy, trình bày vấn đề xây dựng Đảng là phải trình bày cụ thể thực tiễn cơng tác xây dựng Đảng đã tiến hành trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng bằng sự gắn kết chặt chẽ giữ lý luận và

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

thực tiễn. Qua đó làm nổi rõ sứ phát triển về nhận thức và tư duy lý luận, kết quả và kinh nghiệm của công tác xây dựng Đảng…

<i><b>d) Trình bày kinh nghiệm của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng và bài họckinh nghiệm tổng quát của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng</b></i>

Kinh nghiệm được khái quát từ thực tiễn, quay trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn tiếp tục bổ sung làm cho kinh nghiệm phát triển đầy đủ, sâu sắc hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm”<small>1</small>.

Trong lịch sử Đảng, trình bày kinh nghiệm là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, được tổng kết ở các cấp độ khác nhau:

<i>Cấp độ thứ nhất: Là kinh nghiệm lịch sử của từng thời kỳ. Vấn đề này</i>

thường là từ diễn biến, sự kiện lịch sử để tổng kết thành những kinh nghiệm. Vì vậy, kinh nghiệm gắn với một thời kỳ lịch sử nhất định.

<i>Cấp độ thứ hai: Là bài học lịch sử được tổng kết trong khoảng thời gian dài</i>

hơn, ở trình độ cao hơn thành những vấn đề mang tính quy luật, những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam. Cấp độ này thường là tổng kết những bài học kinh nghiệm trong một quá trình thực hiện những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, công cuộc đổi mới), hoặc đúc kết những bài học kinh nghiệm tổng quát của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trình bày kinh nghiệm, bài học kinh nghiệm nhưng khơng rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, hoặc chủ quan duy ý chí.

Trình bày kinh nghiệm phải khách quan, trung thực, gắn kết chặt chẽ giưa lý luận với thực tiên, tránh phương pháp lựa chọn sự kiện gượng ép “gọt chân cho vừa giầy”. Vì vậy, khi trình bày phải tơn trọng sự thật lịch sử, cách mạng có thể thành cơng, nhưng cũng có sai lầm thiếu sót; có chiến thắng, nhưng cũng có hy sinh mất mát; có dự báo đúng, sáng suốt, nhưng cũng có thể có dự báo sai, xảy ra bất ngờ, bị động...

Cần phân biệt giữa lý luận và kinh nghiệm. Lý luận định hướng hoạt động thực tiễn, còn kinh nghiệm được nghiên cứu, khái quát từ thực tiễn trên cơ sở lý luận gắn với hoạt động thực tiễn. Vì vậy, khi vận dụng kinh nghiệm phải chú trọng tính hiệu quả, thiết thực. Có những kinh nghiệm đúng với thời kỳ này, đúng với nước này, nhưng sẽ sai lầm khi vận dụng máy móc vào thời kỳ khác, nước khác. Vì vậy, cần chống tư tưởng chủ quan, giản đơn, phiến diện và máy móc trong việc tổng kết thực tiễn, trình bày, vận dụng kinh nghiệm.

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 417.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b><small>1.2. NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP, Ý NGHĨA CỦA MÔN LỊCH SỬĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</small></b>

<i><b>1.2.1. Nguyên tắc nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam</b></i>

Tính Đảng, tính khoa học là nguyên tắc hàng đầu trong nghiên cứu môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nắm vững tính Đảng, tính khoa học là nguyên tắc quan trọng nhất, chỉ đạo mọi hoạt động nghiên cứu, học tập, trình bày một cơng trình Khoa học Lịch sử Đảng.

Tính Đảng trong môn Lịch sử Đảng đòi hỏi phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét, đánh giá khách quan, trung thực các sự kiện, quá trình lịch sử, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; triệt để đấu tranh chống thái độ vô trách nhiệm, các quan điểm cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc; bảo vệ Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “Tính phi đảng trong xã hội tư sản chỉ là biểu hiện giả dối, che đậy, tiêu cực của tình trạng đứng trong đảng của những kẻ no bụng, đứng trong đảng của bọn thống trị, đứng trong đảng của bọn bóc lột. Tính phi đảng là tư tưởng tư sản. Tính đảng là tư tưởng xã hội chủ nghĩa”<small>1</small>.

Nội dung tính Đảng nói chung thể hiện tập trung ở tính giai cấp. Ttuy nhiên, cần phân biệt tính Đảng trong nghiên cứu khoa học, tính Đảng trong tuyên truyền, giảng dạy và tính Đảng trong sinh hoạt Đảng.

Tính khoa học trong Khoa học Lịch sử Đảng là sử dụng các phương pháp khoa học để phản ánh khách quan, trung thực và toàn diện các sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tính khoa học đòi hỏi phải tuân thủ phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận sử học mácxít để trình bày khách quan, trung thực về lịch sử hình thành, tồn tại, phát triển của Đảng và hoạt động hoạch định chủ trương, chỉ đạo thực tiễn cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử.

Tính Đảng và tính khoa học là hai phạm trù khác nhau, nhưng khơng đối lập nhau và có mối quan hệ khăng khít với nhau.

Vì lợi ích giai cấp, dân tộc và của Đảng, địi hỏi mơn Lịch sử Đảng phải nghiên cứu, phản ánh đúng sự thật tiến trình lịch sử để từ đó tìm ra quy luật vận động, phát triển của lịch sử và hành động theo quy luật đó. Đây cũng chính là mục đích mà tính khoa học hướng tới. Do đó, khách quan, trung thực chẳng những là biểu hiện của tính khoa học mà còn là sự biểu hiện cao nhất của tính Đảng.

Tính Đảng và tính khoa học cũng có sự khác nhau nhất định và không thể đồng nhất. Mặc dù tính Đảng, tính khoa học thống nhất với nhau ở mục đích phản

<small>1 V.I.Lênin, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2005, tr. 165.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

ánh trung thực, khách quan lịch sử. Song tính Đảng, tính khoa học khác nhau ở hình thức vận động và được thể hiện qua năng lực chủ quan của mỗi nhà khoa học, mỗi tổ chức chính trị xã hội. Do đó, để tạo sự thống nhất ngày càng cao giữa tính Đảng với tính khoa học đòi hỏi mỗi người, mỗi tổ chức phải thấm nhuần sâu sắc lý luận cách mạng và không ngừng nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt.

Nắm vững tính Đảng, tính khoa học là cơ sở bảo đảm cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập mơn Lịch sử Đảng có định hướng chính trị đúng đắn, không tùy tiện, phiến diện, chủ quan, giáo điều. Cùng với việc nắm vững tính Đảng, tính khoa học, phải nắm vững nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tiễn, lịch sử gắn liền với hiện thực…

<b><small>1</small>.2.2. Phương pháp nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

<i><b>a) Phương pháp chung</b></i>

Lịch sử Đảng là một khoa học nằm trong hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân văn. Do vậy, phương pháp nghiên cứu, dạy và học phải dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và những phương pháp chung của các khoa học xã hội và nhân văn để nghiên cứu, trình bày và nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực, đúng quy luật.

Nhận thức các sự kiện và tiến trình lịch sử trong các mối quan hệ: nguyên nhân và kết quả, hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất, cái chung và cái riêng, phổ biến và đặc thù.

Nhận thức tiến trình cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phải dựa trên lý luận về hình thái kinh tế - xã hội; về giai cấp và đấu tranh giai cấp; về dân tộc và đấu tranh dân tộc; về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử; về các động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội và lịch sử; về cách mạng xã hội và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản.

Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nghiên cứu, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng để hiểu rõ Lịch sử Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy, phong cách khoa học của Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, không ngừng sáng tạo, chống chủ nghĩa giáo điều và chủ quan, duy ý chí.

<i><b> b) Phương pháp cụ thể</b></i>

Khoa học Lịch sử Đảng là bộ phận của Khoa học Lịch sử; do đó, phương pháp nghiên cứu, dạy và học phải tuân theo phương pháp luận khoa học lịch sử.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Trong đó, phương pháp chủ yếu nhất là phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc và sự kết hợp hai phương pháp đó với nhau.

<i>Phương pháp lịch sử, là phương pháp nghiên cứu các sự kiện lịch sử, quá</i>

trình lịch sử trong những bối cảnh lịch sử cụ thể, xác định, trong quá trình vận động, phát triển theo trình tự thời gian lịch sử và mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Phương pháp lịch sử yêu cầu làm rõ quá trình phát sinh, phát triển và hình thức vận động của mỗi sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử và mối liên hệ của chúng với các sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử khác; đồng thời phân biệt được sự khác nhau giữa các sự kiện, quá trình lịch sử.

<i>Phương pháp lơgíc, là phương pháp nghiên cứu các sự kiện lịch sử, quá</i>

trình lịch sử dưới hình thức khái quát lý luận thành những mệnh đề, những nguyên lý, phạm trù… nhằm làm rõ bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Phương pháp lơgíc có vai trị rất quan trọng trong nghiên cứu Lịch sử Đảng để tìm ra bản chất, quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng, để tìm ra chân lý khoa học thơng qua các sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử.

<i>Phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc là hai phương pháp khác nhau,</i>

nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau, được sử dụng nhằm tìm ra chân lý khách quan của sự phát triển lịch sử. Do đó, để nghiên cứu, dạy và học mơn Lịch sử Đảng có chất lượng, hiệu quả cao phải kết hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ, linh hoạt, sáng tạo phương pháp lịch sử với phương pháp lơgíc. Ph.Ăng ghen viết: “Phương pháp lơgíc chẳng qua cũng là phương pháp lịch sử, có điều là đã thốt khỏi hình thái lịch sử và khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi. Lịch sử bắt đầu từ đầu thì tư duy cũng bắt đầu từ đó và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trừu tượng và nhất quán về lý luận”<small>1</small>.

Cùng với phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc, Khoa học Lịch sử Đảng

<i>còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu, phươngpháp lịch đại, đồng đại, phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia...</i>

Để nâng cao chất lượng nghiên cứu, dạy và học Lịch sử Đảng, các phương pháp trên phải được kết hợp sử dụng uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo theo yêu cầu, nội dung trong từng chương, từng phần của Lịch sử Đảng. Chỉ có như vây, nghiên cứu, dạy và học Lịch sử Đảng mới sinh động, đạt chất lượng, hiệu quả cao.

<b>1.2.3. Ý nghĩa nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng

<i>định, là cả một pho lịch sử bằng vàng. Đó chính là tính khoa học, cách mạng,</i>

<small>1 C.Mác và Ph. Ăng ghen, Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2002, tr. 614.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

giá trị thực tiễn sâu sắc trong Cương lĩnh, đường lối của Đảng; là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ do lịch sử đặt ra; những kinh nghiệm, bài học kinh nghiệm quý báu của cách mạng Việt Nam và truyền thống vẻ vang của Đảng.

Nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiền phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam đưa đến những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển của dân tộc. Qua đó, giáo dục lý tưởng, truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc, củng cố, bồi đắp niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn.

Nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần tăng cường đồn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội, xóa bỏ mọi thành kiến, khắc phục khó khăn, ra sức học tập, công tác, cống hiến để xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Đảng, xứng đáng với các đồng chí đã hy sinh vì cách mạng, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, nguyện cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp của Đảng, đất nước.

<b>VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</b>

1. Đối tượng nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Chức năng, nhiệm vụ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Nguyên tắc, phương pháp, ý nghĩa nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>Chương 2</b>

<b>CUỘC VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</b>

<b><small>2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦUTHẾ KỶ XX</small></b>

<b>2.1.1. Tình hình thế giới</b>

Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh, sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì tiến hành xâm lược và áp bức nhân dân các nước thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho đời sống nhân dân lao động ở các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.

Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, Nhà nước Xô Viết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích Nga ra đời. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

<b>2.1.2. Tình hình trong nước</b>

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Để bóc lột được lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp một mặt duy trì phương thức sản xuất phong kiến, mặt khác thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng thực hiện chính sách độc quyền kinh tế trên các mặt: Xuất, nhập khẩu, khai thác mỏ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, thuốc phiện, muối, rượu, chiếm đất lập đồn điền, đặt ra hàng trăm thứ thuế vơ lý. Chúng bóc lột đến tận xương tủy, khiến dân ta ngày càng nghèo khổ, cùng cực, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng thi hành chính sách chuyên chế về chính trị, làm cho dân ta khơng có một chút tự do, dân chủ nào. Để phá hoại tình đồn kết giữa các dân tộc, chúng

<b>thi hành chính sách “chia để trị”. Cùng với độc quyền về kinh tế, chun chế về</b>

chính trị, về văn hóa, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân nhằm giam hãm dân tộc ta trong vịng nơ lệ.

Những chính sách trên của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi, từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Về cơ cấu xã hội, bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân đã tồn tại từ lâu, xuất hiện các giai cấp mới, đó là giai cấp công nhân, giai cấp tiểu

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

tư sản thành thị và giai cấp tư sản. Mỗi giai cấp có địa vị kinh tế và thái độ chính trị khác nhau.

<i>Giai cấp địa chủ phong kiến, trong những thế kỷ trước đã giữ vai trò tiến bộ</i>

nhất định, nhưng từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hóa. Một bộ phận câu kết, làm tay sai cho thực dân Pháp, ra sức đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nơng dân. Một bộ phận nêu cao tinh thần dân tộc, khởi xướng, lãnh đạo phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến. Một số là lãnh đạo phong trào nông dân chống Pháp xâm lược và bọn phong kiến phản động. Một bộ phận địa chủ phong kiến chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.

<i>Giai cấp nông dân, chiếm hơn 90% dân số. Họ sản xuất ra một phần quan</i>

trọng của cải xã hội, nhưng lại là người bị bóc lột nặng nề. Ruộng đất của nông dân bị đế quốc, phong kiến tước đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế của đế quốc đã đẩy nông dân tới bần cùng không có lối thốt. Một số phải rời q hương bổ sung vào giai cấp công nhân làm thuê cho tư sản và thực dân Pháp ở các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền… Giai cấp nông dân vừa mất đất, vừa mất độc lập, tự do nên họ mang nặng hận thù với cả đế quốc và phong kiến, họ có tinh thần chống đế quốc và phong kiến. Nơng dân khơng thể lãnh đạo cách mạng được vì họ không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, khơng có hệ tư tưởng độc lập, nhưng là đồng minh chiến lược của giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

<i>Giai cấp công nhân, là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa</i>

của đế quốc Pháp. Cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam đã xuất hiện tầng lớp công nhân Việt Nam, đầu thế kỷ XX công nhân Việt Nam đã hình thành với tư cách một giai cấp trong xã hội. Giai cấp cơng nhân tuy số lượng ít, văn hố và trình độ kỹ thuật thấp, nhưng họ sống tập trung, lại đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, có tinh thần đồn kết và ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần triệt để cách mạng. Giai cấp công nhân sinh trưởng ở nước thuộc địa nửa phong kiến, phải chịu ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản. Phần lớn giai cấp công nhân xuất thân từ nơng dân, nên họ gắn bó chặt chẽ với nông dân, không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cải lương, khơng có tầng lớp cơng nhân q tộc. Giai cấp công nhân sinh ra trong một dân tộc có truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất, họ sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và bước lên vũ đài chính trị sau Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi. Do địa vị kinh tế, chính trị và điều kiện lịch sử khách quan quy định, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

<i>Giai cấp tư sản, ra đời trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân</i>

Pháp, nhưng bị tư bản Pháp chèn ép, đến thời kỳ trong và sau Chiến tranh thế giới

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

lần thứ nhất, giai cấp tư sản mới bắt đầu trở thành một giai cấp. Lúc này chủ nghĩa tư bản thế giới đã bước vào thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản khơng cịn là đại biểu cho lực lượng đang lên nữa. Ở Việt Nam, bọn tư bản độc quyền Pháp nắm hết mọi quyền lợi kinh tế, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện phát triển độc lập cả về kinh tế và chính trị. Cũng như ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa khác, giai cấp tư sản Việt Nam có hai bộ phận: Tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản là đồng minh của chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng gắn liền với quyền lợi của đế quốc, góp vốn kinh doanh với thực dân Pháp và phục vụ cho chính sách xâm lược của Pháp. Tư sản dân tộc có hai mặt, tích cực và tiêu cực. Yếu tố tích cực của họ chỉ được phát huy trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân họ có khả năng tham gia phong trào cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo, khi cách mạng gặp khó khăn họ hay ngả nghiêng, dao động.

Giai cấp tiểu tư sản, gồm: Tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức nhỏ, học sinh, dân nghèo thành thị…, mỗi tầng lớp có mức sống khác nhau, nhưng nhìn chung địa vị kinh tế bấp bênh, luôn bị đe doạ phá sản và thất nghiệp, họ thường dao động trước sự khủng bố của kẻ thù. Giai cấp tiểu tư sản bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột, khinh rẻ nên họ hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức, học sinh có tinh thần yêu nước nồng nàn, họ rất thiết tha với độc lập, tự do, dân chủ và rất nhạy cảm, thức thời. Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng to lớn và là đồng minh đáng tin cậy của giai cấp công nhân.

Từ cơ cấu giai cấp thay đổi dẫn đến mâu thuẫn cơ bản trong xã hội cũng thay đổi. Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến có hai mâu thuẫn cơ bản, đó là: Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó gắn liền với nhau không thể tách rời. Yêu cầu khách quan để đưa xã hội Việt Nam phát triển đi lên là phải đồng thời giải quyết cả hai mâu thuẫn cơ bản đó, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phải đi đơi với xố bỏ chế độ phong kiến, đấu tranh giành độc lập dân tộc không thể tách rời đấu tranh giành dân chủ, tự do.

<b><small>2.2. CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX,ĐẦU THẾ KỶ XX</small></b>

<b>2.2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến</b>

Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã vùng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Thực dân Pháp đã vấp phải một phong trào đấu tranh vũ trang quyết liệt và kéo dài, hễ phong trào này bị dập tắt thì phong trào khác lại bùng lên, khơng hề ngưng nghỉ, đúng như lời tuyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực trước giờ bị xử tử: Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây.

Ngày 05/7/1885, phái chủ chiến cịn sót lại trong triều đình Huế do Tơn Thất Thuyết dẫn đầu tấn công vào đồn Mang Cá và Tịa khâm sứ Trung Kỳ. Bị thất bại, Tơn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng Quảng Trị. Ngày 13/7/1885, nhà vua xuống chiếu “Cần Vương”. Phong trào Cần Vương nhanh chóng lan ra nhiều địa phương ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ. Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt. Phong trào Cần Vương còn kéo dài đến năm 1896 khi cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng bị thất bại.

Cũng trong thời gian đó, các cuộc khởi nghĩa của nơng dân chống Pháp không ngừng bùng nổ khắp các miền của đất nước. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, tiêu biểu cho ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất, bền bỉ của nông dân Việt Nam là cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vào năm 1884. Thực dân Pháp đã bốn lần dùng lực lượng lớn tiến công Yên Thế nhưng đều bị nghĩa quân đánh bại. Chỉ sau khi Hoàng Hoa Thám hy sinh (10/3/1913), cuộc khởi nghĩa Yên Thế mới kết thúc.

Tư tưởng cơ bản của các trào lưu này là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thiết lập lại chế độ phong kiến. Mặc dù phong trào diễn ra trong thời gian dài rất sôi nổi quyết liệt nhưng kết cục cuối cùng đều thất bại. Qua đó chứng tỏ sự bế tắc của ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đánh dấu sự chấm dứt vai trò lịch sử của giai cấp phong kiến.

<b>2.2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản</b>

<i>Trào lưu cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, khuynh hướng bạo</i>

động của cụ Phan Bội Châu (1904 - 1912), mục tiêu đấu tranh là giành độc lập dân tộc, phát triển đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, phương pháp tiến hành là dựa vào Nhật để đánh Pháp nhưng không thành công. Khuynh hướng cải lương của cụ Phan Chu Trinh (1905 - 1908), mục tiêu đấu tranh cũng là giành độc lập dân tộc, phát triển đất nước theo xu hướng tư bản chủ nghĩa, phương pháp tiến hành theo con đường nghị viện tư sản (cải lương), dựa vào Pháp để đánh đổ chế độ phong kiến mà không cần bạo lực, kết quả cũng đi đến thất bại. Đặc biệt, vào cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng. Những hoạt động của tổ chức này thể hiện rõ nét tư tưởng dân chủ tư sản. Họ chủ trương đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ, nhưng không duy trì đấu tranh giai cấp, hoạt động thiên về ám sát cá nhân, manh động, tổ chức lỏng lẻo, kỷ luật thiếu nghiêm minh, địa bàn hoạt động chỉ bó hẹp trong một số địa phương ở miền Bắc. Lợi dụng những yếu kém sơ hở của Việt Nam Quốc dân Đảng, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

áp và nhanh chóng dập tắt các cuộc khởi nghĩa (tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Bái ngày 09/02/1930). Thất bại của trào lưu cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX chứng tỏ sự lỗi thời, lạc hậu của tư tưởng tư sản, sự non yếu về kinh tế, chính trị của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam.

Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ này, tuy phát triển sôi nổi nhưng vẫn mang tích chất tự phát, đã có hơn 60 cuộc đấu tranh, biểu tình nổ ra khắp cả nước, tập trung ở những khu công nghiệp lớn như: Quảng Ninh, Vinh, Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… hình thức chủ yếu là đập phá máy móc, bỏ trốn, đánh cai... mang nặng màu sắc đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế đơn thuần.

<b>2.2.3. Nguyên nhân khủng hoảng của các phong trào</b>

Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước ở Việt Nam lúc đầu diễn ra khá sôi nổi, nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là:

<i>Do hạn chế về lịch sử, nên những nhà yêu nước Việt Nam lúc đó khơng</i>

nhận thức được xu thế phát triển tất yếu của thời đại mới và của cách mạng Việt Nam. Sự bế tắc của trào lưu cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời cuối thế kỷ XIX là tiền đề cho sự tìm tịi xu hướng cứu nước mới đầu thế kỷ XX theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tuy là nét mới trong nhận thức tư tưởng chính trị của những người yêu nước Việt Nam, nhưng nó đã lỗi thời với xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Nên thất bại là điều khó tránh khỏi.

<i> Do hạn chế về lập trường giai cấp, nên những người lãnh đạo phong trào</i>

u nước lúc đó khơng nhận thức được tính chất, đặc điểm và mâu thuẫn xã hội Việt Nam. Không nhận thức được bạn, thù, tách rời chống đế quốc với chống phong kiến, nên không xác định đúng đối tượng cách mạng, do đó khơng có đường lối cứu nước đúng. Họ khơng nhận thức được lực lượng cách mạng to lớn, yếu tố quyết định thành công của cách mạng là công nông, ngược lại họ coi công nông là lực lượng thấp hèn, vì thế khơng có chủ trương tập hợp lực lượng này và cũng khơng có phương pháp tổ chức đấu tranh thích hợp để tập hợp quần chúng.

<i>Giai cấp cơng nhân Việt Nam đã hình thành và đang trong quá trình pháttriển, nhưng chưa thể đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình vì chưa được</i>

trang bị lý luận cách mạng tiên phong, chưa tổ chức ra được chính đảng. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

lúc bấy giờ. Sự khủng hoảng đó chỉ được giải quyết khi giai cấp công nhân đã trưởng thành cả về số và chất lượng, tổ chức ra được chính đảng của mình để lãnh đạo cách mạng.

<b><small>2.3. NGUYỄN ÁI QUỐC TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VÀ CHUẨN BỊTHÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</small></b>

<b>2.3.1. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc</b>

Nguyễn Ái Quốc sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm (xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Sống trong hồn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào, chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản. Mặc dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu thời đó, nhưng Người khơng tán thành con đường đi của họ và có nhận xét sâu sắc rằng: Con đường cứu nước của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của cụ Phan Chu Trinh là “mong giặc rủ lịng thương”, con đường của cụ Hồng Hoa Thám “có thực tế hơn, nhưng vẫn nặng về cốt cách phong kiến”. Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua tầm nhìn của các sĩ phu yêu nước đương thời. Bằng thiên tài trí tuệ, sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, Người ra đi tìm con đường cứu nước mới, khác hẳn so với các sỹ phu yêu nước đương thời. Người đã đến tận sào huyệt của kẻ thù đang thống trị dân tộc mình để tìm hiểu bản chất, âm mưu của chúng.

Từ bến cảng Nhà Rồng, tháng 6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời Tổ quốc đi sang phương Tây, đến nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Con đường của Người đi là tự hồ mình vào cuộc sống lao động của những người cùng khổ dưới ách thống trị bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Đồng thời Người muốn thông qua thực tiễn đấu tranh để hiểu biết thực chất của các quyền “tự do, bình đẳng, bác ái” và kinh nghiệm đấu tranh giành tự do, độc lập thực sự của nhân dân các nước. Người quyết tâm tìm hiểu, lý giải những vấn đề hệ trọng đối với vận mệnh của cả dân tộc đang sống trong lầm than tủi nhục.

Sự lựa chọn phương hướng đi tìm con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc thể hiện một tư duy chính trị mới trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Vào năm 1916, từ thực tiễn hoạt động của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở nhiều nước trên thế giới, Người có được nhận thức lý luận chính trị quan trọng là: Ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng bị áp bức bóc lột dã man. Bởi vậy, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở tất cả các nước đều là bạn, còn chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Khẳng định này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặt cơ sở quan điểm đúng đắn trong xác

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

định bạn, thù, xác định đúng đối tượng và lực lượng cách mạng, về sự kết hợp cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.

Cuối năm 1917, từ nước Anh, Nguyễn Ái Quốc trở lại hoạt động ở Pháp, một trung tâm hoạt động của nhiều nhà chính trị thế giới. Người được tiếp cận với những thơng tin nhanh chóng và đầy đủ về sự kiện vĩ đại làm rung chuyển thế giới, đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình ở Véc-xây (Pháp) để chia phần. Thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm, đòi Pháp và chủ nghĩa thực dân phải thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Đây là địn tấn cơng trực diện đầu tiên của Người vào bọn trùm đế quốc, là người Việt Nam đầu tiên dám nói lên chính nghĩa, những khát vọng cháy bỏng của các dân tộc bị áp bức, nên đã có tiếng vang lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Bản yêu sách của Người không được Hội nghị chấp nhận, qua đó Người rút ra kết luận: Những lời tuyên bố tự do, dân chủ, bình đẳng của bọn đế quốc chỉ là luận điệu giả dối. Muốn có tự do, độc lập thật sự các dân tộc bị áp bức phải trơng cậy vào lực lượng của chính bản thân mình, người Việt Nam phải tự giải phóng lấy mình. Kết luận này có ý nghĩa quan trọng là vạch trần bản chất phản động không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc, nhận rõ bộ mặt thật của chúng, khẳng định tính chủ động cách mạng của các dân tộc thuộc địa. Phê phán quan điểm trông chờ, ỷ lại của các dân tộc thuộc điạ, hy vọng vào sự ban ơn của chủ nghĩa đế quốc cho độc lập dân tộc, hoặc tư tưởng coi trọng cách mạng chính quốc, coi nhẹ cách mạng thuộc địa của một số Đảng ở các nước tư bản lúc bấy giờ.

Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, Người có dịp tiếp xúc, hoạt động cùng với nhiều nhà lý luận và hoạt động chính trị nổi tiếng ở Pháp để nghiên cứu về các cuộc cách mạng trên thế giới và nghiên cứu lý luận. Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời, có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng xã hội Pháp: Tiếp tục theo đường lối của Quốc tế II (con đường cải lương) hay đi theo Quốc tế III (con đường cách mạng). Những vấn đề cơ bản về nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đều được đề cập và tranh luận sôi nổi theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ hai của Quốc tế Cộng sản. Vấn đề bơnsêvích hố các đảng xã hội - dân chủ, vấn đề dân tộc thuộc địa, vấn đề vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc được Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm.

Một sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong chuyển biến tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc và cũng là bước ngoặt trong tiến trình phát triển của

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<i>cách mạng Việt Nam, tháng 7/1920, Người được đọc Sơ thảo lần thứ nhất nhữngLuận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, đăng trên Báo Nhân</i>

Đạo (L’Humanité). Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở, tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của Lênin và Quốc tế III khác hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế II. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế III, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vơ sản, sau đó trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Sau gần 10 năm (1911 - 1920) hoạt động, tìm tịi nghiên cứu, khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, nâng cao nhận thức lý luận, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, từ người yêu nước đã trở thành chiến sĩ cộng sản. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước, không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Khác với những nhà yêu nước đương thời, đồng chí Nguyễn Ái Quốc có một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn để đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới một cách có chọn lọc. Tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo đó đã được thể hiện nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.

<b>2.3.2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vơ sản của chủ nghĩa Mác - Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam.

<i><b>a) Chuẩn bị về tư tưởng</b></i>

Sau khi tiếp thu được lý luận Mác - Lênin và trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước.

Mục đích của việc truyền bá nhằm tố cáo tội ác của đế quốc thực dân, khơi dậy truyền thống yêu nước, giác ngộ dân tộc, giác ngộ giai cấp, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế trong đời sống xã hội; định hướng hành động

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

cho quần chúng nhân dân theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Nội dung tuyên truyền là truyền bá lý luận cách mạng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Phương pháp tuyên truyền là thông qua việc viết sách, báo, kịch, qua các tổ chức cách mạng, các diễn đàn quốc tế, phong trào vơ sản hóa. Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa. Hội đã quyết định xuất bản tờ báo

<i>Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Người đã viếtnhiều bài trên các báo như: Báo Người cùng khổ, Nhân đạo của Đảng Cộng sảnPháp, báo Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp, báo Sự thật củaĐảng Cộng sản Liên Xô,… và xuất bản một số tác phẩm. Đặc biệt, tác phẩm Bản ánchế độ thực dân Pháp do Người viết (1925) đã vạch rõ âm mưu và thủ đoạn của chủ</i>

nghĩa đế quốc che giấu tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hóa văn minh”, chỉ rõ phương hướng hành động của nhân dân các nước thuộc địa; kêu gọi nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa phải tự đứng dậy giải phóng cho mình.

<i><b>b) Chuẩn bị về chính trị </b></i>

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc từng bước phác thảo đường lối cứu nước từ sau năm 1920, thể hiện tập trung trong tập bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927 được in thành sách lấy tên là “Đường cách mệnh”. Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc thể hiện:

Chỉ có cách mạng vơ sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng. Đây chính là điểm xuất phát của con đường cách mạng Nguyễn Ái Quốc và nó khác hồn tồn với các con đường cứu nước trước đó.

Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn xoá bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.

Lực lượng cách mạng: Công nông là gốc của cách mạng, học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mạng là việc chung của dân chúng, không phải là việc của một hai người.

Phương pháp cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi phải dùng sức mạnh của quần chúng, khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền phải có sách lược, kế hoạch, biết lúc nào làm và lúc nào chưa nên làm.

Đoàn kết quốc tế “Cách mạng An Nam cũng là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. “Chúng ta

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế)”<small>1</small>.

Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững cách mạng mới thành cơng. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Những nội dung trên đã thể hiện sâu sắc tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là nội dung cốt lõi trong đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.

<i><b> c) Chuẩn bị về tổ chức</b></i>

Từ năm 1925 trở đi, Nguyễn Ái Quốc tập trung vào những vấn đề lớn có ý nghĩa quyết định là huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng, lực lượng nịng cốt để hình thành tổ chức tiền thân của Đảng. Tháng 6/1925, khi điều kiện đã chín muồi, Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nịng cốt là nhóm Cộng sản đồn. Người mở những lớp huấn luyện cán bộ và ra tờ báo Thanh niên. Phần lớn các cán bộ trẻ tuổi đã qua huấn luyện trở về nước để truyền bá chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng của Người vào phong trào công nhân, phong trào nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Từ năm 1926 đến năm 1929, Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị trong cả nước. Năm 1928, Hội đề ra chủ trương “vơ sản hố” để rèn luyện những trí thức tiểu tư sản về lập trường giai cấp công nhân và từng bước kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là cách làm sáng tạo của Người khi sáng lập Hội, nhằm chuẩn bị tiền đề về tổ chức để tiến tới thành lập Đảng.

Cách mạng Việt Nam thực sự chuyển biến mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết phải tổ chức ra chính đảng của giai cấp cơng nhân, những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức dần dần chín muồi vào cuối năm 1929 đầu năm 1930.

<b>2.3.3. Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam</b>

Do hoạt động tích cực của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào cách mạng Việt Nam có những bước chuyển mạnh mẽ. Đến năm 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, trong nội bộ Hội xuất hiện những khuynh hướng khác nhau: Khuynh hướng thứ nhất đòi giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thành lập Đảng cộng sản ngay, khuynh hướng này xuất hiện trong bộ phận Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kỳ. Khuynh

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 305.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hướng thứ hai, muốn duy trì Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với tư cách là một Đảng Cộng sản và khuynh hướng thứ ba cho rằng cần duy trì Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thêm một thời gian nữa rồi mới thành lập Đảng.

Cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng trong Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5/1929), không thống nhất được chủ trương thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Sự bất đồng ý kiến và sự bất lực trong vai trò lãnh đạo Đại hội của Ban Chấp hành Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã dẫn đến tình trạng các đại biểu Bắc Kỳ bỏ Đại hội ra về và xúc tiến thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng vào ngày 17/6/1929. Đồng thời, mở đợt tuyên truyền sâu rộng về cương lĩnh của mình từ Bắc chí Nam.

Ở Nam Kỳ, những hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tổ chức ra chi bộ cộng sản đầu tiên và trên cơ sở các chi bộ lập ra An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 10/1929.

Ở Trung Kỳ, bộ phận tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng Đảng đã thoát ly tổ chức này và lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào ngày 01/01/1930.

Cuối năm 1929 đầu năm 1930, ở Việt Nam đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Đó là bước phát triển về chất của phong trào cách mạng Việt Nam từ khi có ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường. Thể hiện nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, nhược điểm là phân tán về tổ chức, tranh giành ảnh hưởng quần chúng và đảng viên về mình, cơng kích lẫn nhau. Nếu để kéo dài tình trạng phân tán về tổ chức sẽ dẫn đến sự phân hố về chính trị, tư tưởng, gây tổn hại cho phong trào cách mạng. Do đó, yêu cầu khách quan là phải nhanh chóng đi đến hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập một chính đảng duy nhất của giai cấp cơng nhân Việt Nam.

<b><small>2.4. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNGLĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN</small></b>

<b>2.4.1. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

Nhận được tin ở Đông Dương có nhiều tổ chức cộng sản cùng hoạt động, về lâu dài khơng có lợi cho cách mạng, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm về Hồng Kông (Trung Quốc), chủ động triệu tập đại biểu các tổ chức cộng sản ở Đông Dương bàn việc hợp nhất thành một Đảng Cộng sản duy nhất.

Từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng họp ở bán đảo Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc), với sự tham gia của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và hai đại biểu ngồi nước, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc.

Hội nghị nhất trí tán thành hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy

<i>nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chính cương vắn tắt,</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i>Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng</i>

do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đồng thời, Hội nghị còn thống nhất về cách tổ chức các đoàn thể quần chúng, quyết định các tổ chức cơ sở, thảo luận các văn kiện đã được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng. Hội nghị giao nhiệm vụ cho các đại biểu khi về nước làm nhiệm vụ thống nhất các tổ chức cộng sản và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.

<b>2.4.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam</b>

Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Nội dung chủ yếu của các văn kiện trên là:

<i>Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền</i>

cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”<small>1</small>.

<i>Nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là</i>

đánh đổ đế quốc, phong kiến giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày; đồng thời sớm hình thành tư tưởng phân hóa giai cấp địa chủ, phong kiến, tập trung đánh đế quốc và việt gian tay sai, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

<i>Lực lượng cách mạng: Trên cơ sở lấy giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân</i>

là lực lượng chính, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo, mở rộng đoàn kết với các giai cấp, các tầng lớp và toàn thể dân tộc.

<i>Phương pháp cách mạng: Sử dụng sức mạnh tổng hợp của quần chúng để lật</i>

đổ ách thống trị của đế quốc, tay sai, lập nên chính phủ cơng nơng.

<i>Mối quan hệ của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Cách mạng</i>

Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

<i>Vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định</i>

thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Như vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã có một Cương lĩnh, tuy vắn tắt nhưng đã xác định đúng những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh là Đảng đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân - giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân tộc và dân chủ, dân tộc và quốc tế. Chính việc giải quyết nhuần nhuyễn các mối quan hệ đó nên cách mạng Việt Nam khơng những khơng bị chệch hướng mà còn giành được những thắng lợi to lớn.

<b>2.4.3. Ý nghĩa lịch sử sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời</b>

<small>11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2019, tr. 2.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta. Chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam ở trong tình trạng “đen tối như khơng có đường ra”, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước suốt hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối đúng đắn là điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với tồn bộ q trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau, bảo đảm cho những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng nước ta. Mở ra một thời đại mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đó là thời đại mà giai cấp công nhân ở trung tâm kết hợp các trào lưu cách mạng, là giai cấp quyết định nội dung và phương hướng phát triển chính của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân ta làm ra lịch sử một cách tự giác và có tổ chức, là thời đại nhân dân ta tham gia vào sự nghiệp giải phóng lồi người khỏi mọi chế độ áp bức và bóc lột.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là trung tâm kết hợp các nhân tố giai cấp, dân tộc, quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng để giành thắng lợi, đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.

<b>VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</b>

1. Quá trình tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

2. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

3. Nội dung Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<b>Chương 3</b>

<b>ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIÀNH CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1930 - 1945)</b>

<b><small>3.1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930 - 1931) VÀ HỘINGHỊ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LẦN THỨ NHẤT (10/1930)</small></b>

<b>3.1.1. Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng (1930 - 1931) với đỉnh caoXôviết Nghệ - Tĩnh</b>

<i><b>a) Nguyên nhân bùng nổ cao trào cách mạng (1930 - 1931)</b></i>

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) nổ ra trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, tàn phá nền kinh tế ở các nước này, đẩy lùi sản xuất về mức cuối thế kỷ XIX. Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gánh nặng khủng hoảng lên nhân dân trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa công nhân với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các nước thuộc địa, nửa thuộc địa với các nước đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau trở nên gay gắt.

Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới phát triển nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu tất cả các mặt. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động ở các nước tư bản vùng lên đấu tranh.

Ở Đông Dương, thực dân Pháp trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng bằng cách tăng cường bóc lột nhân dân các nước thuộc địa. Công nhân và nông dân là những nạn nhân trực tiếp và chịu nhiều tai họa nhất. Công nhân thất nghiệp ngày càng nhiều, nông dân bị bần cùng hóa, nạn đói diễn ta trầm trọng. Hàng vạn người phải rời bỏ làng xã. Thợ thủ công phá sản, nhà bn đóng cửa. Viên chức bị sa thải hàng loạt. Nhiều nhà tư sản dân tộc và địa chủ nhỏ cũng không tránh khỏi bị sa sút và phá sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp rất sâu sắc.

Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời đã lãnh trách nhiệm thúc đẩy phong trào cách mạng quần chúng phát triển thành cao trào cách mạng trong cả nước.

Nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ra lời kêu gọi cơng nhân, nơng dân, binh lính, thanh niên, học sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột đứng lên đi theo Đảng làm cách mạng chống đế quốc và tay sai, giành lấy quyền sống. Lời kêu gọi khẳng định: “Sự áp bức và bóc lột vơ nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, khơng có cách mạng thì chết”<small>1</small>.

<i><b>b) Sự phát triển của cao trào cách mạng, đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh</b></i>

Phong trào cách mạng được mở đầu bằng những cuộc đấu tranh của cơng nhân, có tổ chức, lãnh đạo chặt chẽ và đã giành được thắng lợi bước đầu quan

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

trọng. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền Phú Riềng (03/02/1930), 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định (25/3/1930) và của 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ - Vinh (19/4/1930). Những cuộc đấu tranh này như “phát pháo hiệu” báo rằng cao trào cách mạng ở Việt Nam đã nổ ra và chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam xứng đáng là đội ngũ tiên phong của cách mạng Việt Nam.

Nhân ngày kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (01/5/1930) và ngày Quốc tế đỏ (01/8/1930), Đảng chủ trương mở cuộc vận động, đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô. Thực hiện chủ trương đó, từ tháng 5/1930 trở đi, các cuộc đấu tranh của quần chúng đã phát triển thành cao trào rộng lớn trong phạm vi cả nước. Hầu hết các cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi.

Tháng 9/1930, phong trào phát triển lên đến đỉnh cao ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Hưởng ứng các cuộc đấu tranh của công nhân Bến Thuỷ (Vinh), các cuộc biểu tình có vũ trang của nơng dân với hàng nghìn người kéo lên huyện lỵ, tiến vào huyện đường, đốt trụ sở, đốt hồ sơ, phá nhà tù, thả tù chính trị. Khi bộ máy thống trị của địch ở cơ sở tan rã, các ban chấp hành nông hội do các chi bộ Đảng lãnh đạo đã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ lịch sử của chính quyền nhân dân theo kiểu chính quyền Xơviết. Chính quyền đã chia ruộng đất, chia thóc tịch thu được của bọn địa chủ phong kiến cho dân nghèo, tổ chức đội tự vệ, tổ chức đời sống mới. Từ tháng 9/1930 đến đầu năm 1931, chính quyền cấp xã thuộc các huyện: Thanh Chương, Nam Đàn, Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà và một phần của huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu, Nghi Xuân, Hương Khê đã ra đời. Xôviết Nghệ - Tĩnh ra đời là kết quả của cao trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, chống lại chính quyền của bọn đế quốc phong kiến. Với thắng lợi đó, một đội qn chính trị quần chúng hùng hậu đã hình thành.

Chính quyền Xơviết thành lập, Trung ương Đảng nhận định thời cơ giành chính quyền trong cả nước chưa có và dự đốn các Xơviết sẽ khơng tồn tại được lâu dài. Tháng 9/1930, Trung ương Đảng chỉ thị cho Xứ uỷ Trung Kỳ chuyển hướng hoạt động, tìm mọi cách chống khủng bố, duy trì phong trào, giữ vững ảnh hưởng, bảo vệ lực lượng của Đảng và nơng hội. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, khi đó đang hoạt động ở nước ngồi đã ca ngợi cuộc đấu tranh của quần chúng Nghệ -Tĩnh và góp ý với Trung ương Đảng về mục tiêu đấu tranh trước mắt là giành quyền lợi hằng ngày, chứ không phải là tiến hành khởi nghĩa. Ngày 29/9/1930, Người gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị kêu gọi các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới lên án đế quốc Pháp khủng bố trắng ở Đông Dương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Hưởng ứng chủ trương của Đảng, nhiều địa phương trong cả nước sôi nổi đấu tranh bằng nhiều hình thức và ủng hộ Xơviết Nghệ - Tĩnh. Chỉ trong tháng 9 và tháng 10/1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh (29 cuộc ở miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở miền Nam). Tuy nhiên, phong trào đấu tranh chưa đủ mạnh, chưa đều khắp, do đó đế quốc Pháp và tay sai đã tập trung lực lượng khủng bố, đàn áp gây nhiều tổn thất nặng nề cho cách mạng.

<b>3.1.2. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất và Luậncương chính trị của Đảng</b>

Tháng 4 năm 1930, Trần Phú tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp từ ngày 14 đến ngày 30/10/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì, thơng qua

<i>Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận cương chínhtrị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Thực hiện Chỉ thị</i>

của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

<i>Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị (10/1930):</i>

<i>Tính chất cách mạng Đông Dương: Cách mạng Đông Dương là cách mạng</i>

tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.

<i>Mâu thuẫn giai cấp: Luận cương chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra ngàycàng gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên, đó là mâu thuẫn giữa “một bên thì thợthuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn vàđế quốc chủ nghĩa”<small>1</small>.</i>

<i>Phương hướng, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Cách mạng tư</i>

sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến để giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Hai nhiệm vụ ấy phải tiến hành khăng khít khơng thể tách rời nhau, trong đó vấn đề ruộng đất là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền.

<i>Lực lượng cách mạng: Luận cương xác định động lực chính của cách mạng</i>

tư sản dân quyền là cơng nhân và nông dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo.

<i>Phương pháp cách mạng: Con đường giành thắng lợi của cách mạng tư sản</i>

dân quyền là bằng khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Khi chưa có tình thế cách mạng, phải đặt ra khẩu hiệu “phần ít” như: Tăng lương, giảm giờ làm, giảm thuế,

<small>1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2019, tr. 94.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

chống thuế… Qua cuộc đấu tranh hàng ngày, giáo dục quần chúng ý thức đấu tranh đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày. Khi có tình thế cách mạng, phải chuyển sang các khẩu hiệu cao hơn: Lập Xôviết, vũ trang công nông, vũ trang thị uy, tổng bãi công bạo động. Luận cương nhấn mạnh: Vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền “khơng phải là một việc thường”, mà là một nghệ thuật “phải theo khuôn phép nhà binh”.

<i>Quan hệ cách mạng Đông Dương với cách mạng thế giới: Cách mạng Đông</i>

Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vơ sản Pháp.

<i>Vai trị lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt yếu</i>

cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng.

Những nội dung cơ bản của Luận cương chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược của cách mạng Việt Nam. Có những nội dung đã đề cập sâu sắc hơn so với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt như: Tính chất của cuộc cách mạng; phương pháp tiến hành trong cách mạng tư sản dân quyền; nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vơ sản.

Tuy nhiên, Luận cương chính trị vẫn cịn những hạn chế nhất định như: Chưa xác định được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, do đó chưa nêu được nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của cách mạng; chưa đề ra được chiến lược liên minh dân tộc, giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và tay sai. Luận cương đánh giá khơng đúng mức vai trị cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của giai cấp tư sản dân tộc, khơng đề ra được sách lược phân hố và lơi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Nguyên nhân hạn chế của Luận cương chính trị là do một số đồng chí lãnh đạo Đảng chưa từng trải trong thực tiễn, chưa nắm vững tình hình, đặc điểm, truyền thống dân tộc, vận dụng máy móc, kinh nghiệm nước ngồi, bị ảnh hưởng khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trên thế giới trong thời gian đó. Mặt khác, trên thế giới lúc bấy giờ giai cấp tư sản đã trở thành giai cấp phản động và cũng chưa có sự liên minh nào giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản dân tộc được thành công. Ở Việt Nam trong những năm 1930 - 1931, mặt tích cực của giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc cũng chưa được bộc lộ rõ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<b><small>3.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀOCÁCH MẠNG (1932 - 1935)</small></b>

<b>3.2.1. Tình hình đất nước sau cao trào cách mạng (1930 - 1931)</b>

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng đã làm cho thực dân Pháp và tay sai hoảng sợ, chúng dùng mọi hành động khủng bố dã man để dập tắt phong trào cách mạng. Chúng tăng cường hàng vạn quân kết hợp với đưa bọn tay sai gian ác về kìm kẹp các địa phương trọng điểm, tiến hành đàn áp triệt hạ làng mạc, bắt bớ, tù đày tràn lan. Hàng chục vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước bị bắt và giết hại. Đi đôi với việc đàn áp, khủng bố, đế quốc Pháp còn dùng mọi thủ đoạn mị dân, lừa bịp, chia rẽ, hịng làm nhụt ý chí cách mạng của quần chúng.

Do chính sách khủng bố trắng và cải cách lừa bịp của kẻ thù, Đảng và phong trào cách mạng đã chịu nhiều tổn thất, khó khăn. Từ giữa năm 1931 đến giữa năm 1932, hầu hết các cơ sở cách mạng bị phá vỡ, tổn thất lớn. Hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở bị phá hoại nghiêm trọng. Hầu hết các uỷ viên Trung ương bị địch bắt và giết hại, có nơi khơng cịn lực lượng lãnh đạo, quần chúng khơng có phương hướng hoạt động…

Trước những tổn thất của cách mạng, phần lớn đảng viên và quần chúng cách mạng vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi cách mạng. Song một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hoang mang dao động, sợ hy sinh, có một số ra đầu thú, nhận thẻ quy thuận, phản bội lại cách mạng, một số khác nằm im, một số lảng tránh đấu tranh, che dấu mình.

<b>3.2.2. Đảng lãnh đạo đấu tranh khơi phục hệ thống tổ chức Đảng vàphong trào cách mạng</b>

Sự khủng bố và lừa bịp của thực dân Pháp không làm cho những chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước từ bỏ con đường cách mạng. Các đảng viên trong tù đã thành lập các chi bộ Đảng để lãnh đạo đấu tranh, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, nơi rèn luyện đào tạo cán bộ. Một số tổ chức Đảng ở bên ngoài đã bám chắc quần chúng để hoạt động. Các đồng chí vượt tù tích cực tham gia khơi phục các tổ chức của Đảng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Năm 1932, theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số cán bộ chủ chốt tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6/1932,

<i>Ban lãnh đạo Trung ương đã thảo ra bản Chương trình hành động của Đảng Cộng</i>

sản Đông Dương gửi về nước chỉ đạo khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng.

<i>Chương trình hành động đã khẳng định đường lối cách mạng do Luận</i>

cương chính trị (10/1930) của Đảng đề ra là đúng. Đảng đánh giá cao những thắng

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

lợi trong hai năm 1930 - 1931 và nhắc nhở cán bộ, đảng viên, quần chúng tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào khả năng cách mạng to lớn của quần

<i>chúng nhân dân. Chương trình hành động đề ra 4 yêu cầu chung:</i>

<b>1. Đòi các quyền tự do dân chủ, tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp,</b>

đi lại trong nước và ra nước ngoài.

2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình.

3. Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.

<b>4. Bỏ các độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.</b>

<i>Chương trình hành động còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai</i>

cấp và tầng lớp nhân dân. Về xây dựng Đảng, phải làm cho Đảng vững mạnh, có kỷ luật nghiêm, giáo dục đảng viên về tư tưởng, chính trị, rèn luyện đảng viên qua đấu tranh cách mạng.

<i>Chương trình hành động đã cụ thể hố cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ</i>

thoái trào, đề ra những yêu cầu chính trị trước mắt, những biện pháp tổ chức và đấu tranh phù hợp, góp phần nhanh chóng khơi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng.

<i>Thực hiện Chương trình hành động của Đảng, chỉ trong một thời gian ngắn,</i>

các xứ uỷ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ nhiều lần, đã lần lượt được lập lại trong hai năm 1932 và 1933. Nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ, chi bộ lần lượt được phục hồi. Ở miền núi phía Bắc, một số tổ chức của Đảng được thành lập. Ở Lào, tháng 9/1934, Hội nghị đại biểu các đảng bộ địa phương đã cử ra Ban Chấp hành Đảng bộ Lào. Ở Campuchia, một số cơ sở Đảng được xây dựng. Đầu năm 1934, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đơng Dương được thành lập do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu. Ban lãnh đạo có nhiệm vụ tập hợp và phục hồi các cơ sở Đảng thành hệ thống, đào tạo

<i>và bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo thực hiện Chương trình hành động của Đảng năm</i>

1932, chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng.

Cùng với việc phục hồi hệ thống tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng cũng dần được khôi phục và phát triển. Bên cạnh các tổ chức bí mật: Cơng hội, nơng hội, hội thanh niên, phụ nữ, Đảng cịn xây dựng các tổ chức cơng khai như: Hội cấy, hội cày, hội gặt, hội đá bóng, hội đọc sách… nhằm tập hợp, giáo dục và hướng dẫn quần chúng đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp. Nhờ đó, phong trào đấu tranh đã thu hút được đông đảo quần chúng tham gia. Phong trào đã lan rộng ra cả các vùng miền núi Việt Nam, Lào và Campuchia.

Cán bộ của Đảng còn dùng báo chí hợp pháp phê phán một số quan điểm chính trị, triết học, văn học nghệ thuật, tư sản, vạch trần tư tưởng nô lệ của một số bồi bút tay sai của thực dân, tuyên truyền quan điểm cách mạng của Đảng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Từ ngày 14 đến ngày 26/6/1934, Ban lãnh đạo hải ngoại và đại biểu các

<i>Đảng bộ ở trong nước đã họp kiểm điểm việc thực hiện Chương trình hành động</i>

của Đảng. Hội nghị đã đề ra một số nhiệm vụ cụ thể cho các tổ chức đảng và các tổ

<i>chức quần chúng. Hội nghị quyết định lấy Chương trình hành động của Đảng và</i>

Nghị quyết của Hội nghị làm tài liệu chính để thảo luận trong các chi bộ nhằm chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng.

<b>3.2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng</b>

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng tiến hành từ ngày 27 đến ngày 31/3/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các đảng bộ trong nước và các tổ chức đảng hoạt động ở nước ngồi. Đồng chí Hà Huy Tập chủ trì Đại hội.

<i>Đại hội đã thừa nhận Luận cương chính trị tháng 10/1930, Chương trìnhhành động của Đảng tháng 6/1932 và kiểm điểm phong trào cách mạng, công tác</i>

tổ chức và lãnh đạo của các cấp bộ Đảng trong thời gian từ 1932 đến đầu năm 1935. Đại hội xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu:

Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường lực lượng Đảng ở các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, đồng thời đưa nông dân, lao động và trí thức cách mạng đã qua thử thách vào Đảng. Các đảng bộ cần thường xuyên phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt trận chống “tả” khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật, giữ vững sự thống nhất về tư tưởng và hành động của Đảng.

Đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng, chú ý phụ nữ các dân tộc ít người, binh lính, dìu dắt quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.

Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xơ - thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.

Đại hội đã thơng qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, về cơng tác liên minh phản đế, công tác vận động các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ, về cứu tế đỏ.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 uỷ viên (9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết). Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng trong cả nước, chuẩn bị điều kiện cho Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới. Song, Đại hội chưa tổng kết được kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập, chưa nhạy cảm với thời cuộc trước nguy cơ của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh đế quốc, vì vậy chưa đề ra được chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược thích hợp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b><small>3.3. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CAO TRÀO VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ ĐÔNGDƯƠNG (1936 - 1939) </small></b>

<b>3.3.1. Tình hình và chủ trương của Đảng </b>

<i><b>a) Tình hình thế giới và Đơng Dương</b></i>

<i>Tình hình thế giới</i>

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ở các nước tư bản chủ nghĩa (1929 -1933), đến mùa thu năm 1937, cuộc khủng hoảng kinh tế mới lại nổ ra làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Các nước đế quốc Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phátxít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới.

Tháng 7/1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản khai mạc ở Mátxcơva. Đại hội xác định: Kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này là chủ nghĩa phátxít; nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân, nhân dân thế giới là đấu tranh chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hồ bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần thành lập Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân và thiết lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phátxít và chiến tranh, địi tự do, dân chủ, hồ bình và cải thiện đời sống.

Tháng 4/1936, Mặt trận nhân dân chống phátxít được thành lập ở Pháp (lúc đó gọi là Mặt trận bình dân Pháp), do Đảng Cộng sản làm nòng cốt và đã giành thắng lợi lớn trong cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Sau đó, một chính phủ có xu hướng tiến bộ được thành lập (6/1936), do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Blum (Léon Blum) làm Thủ tướng. Đối với các nước thuộc địa, Cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp nêu ra việc thả tù chính trị, cử các phái đồn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho giới lao động.

<i>Tình hình Đơng Dương</i>

Dưới chính sách đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp, cùng với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình chính trị ở nước Pháp, các tầng lớp nhân dân Đông Dương kể cả tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng bức thiết là địi quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Mâu thuẫn chủ yếu lúc này là giữa nhân dân các dân tộc ở Đông Dương với bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai của chúng.

Tác động của những chính sách tiến bộ của Chính phủ Pháp, kẻ thù ở Đơng Dương bị phân hố thành 2 bộ phận: Một bộ phận tán thành chủ trương cải cách

<i>của chính phủ; một bộ phận chống lại chủ trương đó, bọn này là tay chân của bọn</i>

phátxít ở Pháp có quyền lợi lớn trên đất Đơng Dương (tức bọn phản động thuộc địa, chủ trương đưa Đông Dương theo con đường phátxít).

Đảng Cộng sản Đơng Dương qua thời kỳ bị khủng bố trắng rất khốc liệt năm 1931 vẫn tồn tại và bước đầu được khôi phục những năm 1932 - 1935. Đây chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

là nhân tố cơ bản nhất quyết định cách mạng Đông Dương có khả năng tiến vào một cao trào cách mạng mới.

<i><b>b) Chủ trương của Đảng</b></i>

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng. Tháng 7/1936, Ban lãnh đạo của Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc), kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối và phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới.

Hội nghị khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày; song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phátxít và chiến tranh, địi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa bình. Hội nghị quyết định lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc, đồn thể chính trị, xã hội và tơn giáo khác nhau, với nịng cốt là liên minh công nông. Hội nghị nêu khẩu hiệu ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp để phối hợp với Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân lao động Pháp chống phátxít và phản động thuộc địa, đồng thời nêu khẩu hiện ủng hộ Chính phủ Lêơng Blum nhằm đòi thực hiện các yêu cầu dân chủ cho nhân dân Đơng Dương.

Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, khơng hợp pháp sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, hợp pháp, Đảng cần phải củng cố các tổ chức bí mật của Đảng.

Hội nghị tháng 7/1936 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, giữa liên minh công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp cũng như trên thế giới; đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hằng ngày, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh cao hơn để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Sau đó, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 3/1937, tháng 9/1937, tháng 3/1938, tiếp tục triển khai ngày càng hoàn thiện hơn chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng.

<b>3.3.2. Sự chỉ đạo của Đảng</b>

<i><b>a) Đảng chỉ đạo đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh</b></i>

Chủ trương của Đảng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo và hồ bình đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của quần chúng, phù hợp với nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, làm dấy lên cao trào cách mạng mới trong cả nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Mở đầu cao trào đấu tranh là phong trào Đông Dương Đại hội. Nhân dịp Quốc hội Pháp cử phái đồn sang Đơng Dương để điều tra tình hình chính trị và kinh tế, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, công sở, trường học, khu phố, làng xã họp bàn, kiến nghị các yêu cầu tự do, dân sinh, dân chủ, thảo ra các bản dân nguyện để gửi tới phái đoàn điều tra của Pháp, tiến tới tổ chức Đông Dương Đại hội.

Để hướng dẫn các hoạt động của quần chúng, Đảng nêu ra các yêu cầu về tự do, dân chủ chủ yếu như: Các quyền tự do về ngôn luận, hội họp, tổ chức và đi lại; trả tự do cho các tù chính trị; thực hành luật lao động ngày làm 8 giờ và định lương tối thiểu, bỏ thuế thân và giảm các thứ thuế khác, nam nữ bình đẳng… Đảng kêu gọi thành lập các ủy ban hành động từ thành thị đến nông thôn để vận động quần chúng bầu cử đại biểu tham dự Đông Dương Đại hội. Tháng 8/1936, Ủy ban trù bị Đông Dương Đại hội được thành lập.

Để đối phó lại chính quyền cách mạng, chính quyền thực dân dùng thủ đoạn cho một số người trong Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, Viện dân biểu ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ tổ chức các cuộc họp gồm những đại diện cho tư sản, địa chủ, trí thức để thảo ra bản “dân nguyện” theo chỉ đạo của chúng hòng hạn chế phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, song thủ đoạn đó đã bị vạch trần và thất bại. Cuối cùng chính quyền thực dân chuyển sang đàn áp, ra lệnh giải tán các ủy ban hành động, cấm tất cả các cuộc họp của nhân dân, cho tay sai và khuyến khích bọn tờrốtkít xuyên tạc chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, vu cáo những người cộng sản. Do sức mạnh đấu tranh của quần chúng, tháng 10/1936, thực dân Pháp phải đưa ra một số quy định về quyền lợi cho công nhân và lao động làm thuê như: Ngày làm việc 8 giờ, nghỉ ngày chủ nhật, thi hành một phần việc “ân xá” tù chính trị. Đến cuối năm 1936, trên 1.000 tù chính trị được thả, tính đến tháng 10/1937, đã có 1.532 tù chính trị mà phần lớn là đảng viên cộng sản ra khỏi nhà tù đế quốc. Đó là một thắng lợi lớn của Đảng và của cách mạng.

Đông Dương Đại hội bị cấm song quần chúng lao động đã được thức tỉnh, Đảng có một số kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp cho nên phong trào đấu tranh đòi các quyền dân chủ, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác tiếp tục phát triển. Tiêu biểu là cuộc tổng bãi công của hơn 30.000 công nhân khu mỏ Hồng Gai vào tháng 11/1936. Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Gơđa (Justin Godart) sang điều tra tình hình Đơng Dương, tiếp đó là Bơrêviê (Juies Brévié) sang nhậm chức Tồn quyền Đông Dương, Đảng lại vận động và tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng bằng cách đi đón và đưa yêu sách cho Chính phủ Pháp. Trên đường Gơđa đi từ Sài Gịn ra Hà Nội, đâu đâu nhân dân cũng biểu tình đưa ra yêu sách về dân sinh, dân chủ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<i><b>b) Đảng chỉ đạo đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp trên báo chívà nghị trường</b></i>

Để tiếp tục đưa phong trào cách mạng đi lên, tháng 3/1937 và tháng 9/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn giải quyết những vấn đề về công tác tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ. Đảng nhấn mạnh phải có phương pháp tổ chức mới nhằm thực hiện được đường lối chính trị, tận dụng khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tổ chức và đoàn kết quần chúng trong mặt trận thống nhất. Về xây dựng Đảng, phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, tập trung xây dựng Đảng ở các thành thị, khu công nghiệp, các vùng quan trọng về kinh tế, chính trị. Đảng cịn chủ trương đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai, tranh cử và hoạt động ở các viện dân biểu.

Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh. Trong năm 1937, có gần 400 cuộc đấu tranh của cơng nhân và hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân, tiểu thương đã bãi chợ ở các thành phố, thị xã, học sinh đòi lập thêm trường học; đẩy mạnh các hoạt động báo chí cơng khai của Đảng, Mặt trận và các tổ chức quần chúng phục vụ cho đấu tranh cách mạng. Đảng cịn xuất bản các tập sách chính trị để giới thiệu chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và phát động phong trào truyền bá chữ quốc ngữ trong nhân dân.

Đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để tham gia các cuộc tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, nhằm mở rộng lực lượng của Mặt trận dân chủ, kết hợp đấu tranh của quần chúng bên ngoài với đấu tranh trên nghị trường chống chính sách thuộc địa phản động của Pháp, bênh vực quyền lợi cho dân chúng.

Năm 1938, nguy cơ Chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đến gần, phátxít Nhật chuẩn bị nhảy vào Đơng Dương, Chính phủ Pháp ngả dần về phía hữu, bọn phản động thuộc địa ra sức đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3/1938, đã xác định một số nhiệm vụ mới và nhấn mạnh việc thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương là nhiệm vụ trung tâm, đề ra những chủ trương cụ thể về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ. Hội nghị quyết định phải củng cố cơ sở Đảng đã có, phát triển cơ sở Đảng mới, củng cố cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp, giữ vững nguyên tắc quan hệ giữa bộ phận hoạt động bí mật và bộ phận hoạt động công khai của Đảng. Hội nghị ra nghị quyết riêng về phịng thủ Đơng Dương, chống bắt lính, phát động quần chúng cảnh giác với âm mưu xâm lược của Nhật. Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương thay đồng chí Hà Huy Tập.

Đầu năm 1939, phong trào Mặt trận nhân dân Pháp tan rã, Chính phủ Pháp chuyển sang cực hữu, bọn phản động thuộc địa ở Đơng Dương tăng cường bóc lột

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

và đàn áp nhân dân. Các cuộc đấu tranh chống phátxít, địi phịng thủ Đơng Dương, cải thiện đời sống nhân dân bị đàn áp dữ dội. Trong tháng 3 và tháng 4/1939, Đảng kêu gọi đấu tranh chống khủng bố, đòi tự do, dân chủ,… đề phòng họa phátxít đang đến gần. Cuộc tranh cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ của những người ứng cử của Mặt trận dân chủ bị thất bại do khơng có sự thống nhất trong Đảng.

<i>Tháng 7/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉtrích. Tác phẩm khẳng định đường lối chính trị của Đảng là đúng đắn, phân tích</i>

những khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo Mặt trận dân chủ. Tác phẩm Tự chỉ trích là một mẫu mực về tổng kết kinh nghiệm, đấu tranh nội bộ tự phê bình và phê bình, góp phần vào kho tàng lý luận về xây dựng Đảng, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất của các mạng nước ta.

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương ráo riết đàn áp các lực lượng cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp chấm dứt.

<b><small>3.4. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ TỔNGKHỞI NGHĨA THÁNG TÁM (1939 - 1945)</small></b>

<b>3.4.1. Tình hình và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng</b>

<i><b>a) Tình hình thế giới và trong nước</b></i>

<i>Tình hình thế giới</i>

Ngày 01/9/1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Về quy mô, đây là cuộc chiến tranh thời gian dài nhất, ác liệt nhất, tàn phá lớn nhất trên quy mơ thế giới, có 72 nước tham gia với 110 triệu quân, 50 triệu người chết (riêng Liên Xơ khoảng 20 triệu người chết), chi phí lên tới 4.000 tỷ đơ la Mỹ. Về tính chất cuộc chiến tranh, từ tháng 9/1939 đến tháng 6/1941 là chiến tranh đế quốc với đế quốc; từ tháng 6/1941 trở đi, khi Đức tấn cơng Liên Xơ, tính chất cuộc chiến tranh đã thay đổi, đó là cuộc chiến tranh giữa một bên là lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với một bên là lực lượng phátxít do phátxít Đức cầm đầu.

Khác với Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cuộc Chiến tranh thế giới lần này đã có Liên Xơ là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm đảo lộn mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội ở Đông Dương, đã tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới cách mạng nước ta. Có thể nói, chưa có lúc nào mà tình hình thế giới lại có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta như lúc này. Bởi lẽ, thực dân Pháp là kẻ xâm lược Đông Dương đã tham gia chiến tranh ngay từ những ngày đầu. Mặt khác, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

<i>Tình hình trong nước</i>

Do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đế quốc Pháp thi hành chính sách cai trị thời chiến rất hà khắc, đàn áp và vơ vét sức người, sức của phục

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

vụ chiến tranh. Về chính trị, chúng phátxít hóa bộ máy cai trị, điên cuồng tiến công vào Đảng Cộng sản và các đoàn thể quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo; báo chí tiến bộ bị đóng cửa; các tổ chức dân chủ và những quyền lợi mà quần chúng đã giành được ở thời kỳ 1936 - 1939 đều bị thủ tiêu. Những cuộc khám xét, bắt bớ của đế quốc diễn ra hàng loạt… nhiều trại tập trung mới được lập thêm để giam giữ những người Cộng sản và những người yêu nước, tiến bộ ở khắp các miền trong nước… Các nhà tù và các trại tập trung đó chưa đủ chứa những người cách mạng, chúng phải đưa đi đày sang các hòn đảo ở các thuộc địa khác của Pháp ở châu Phi và Trung Mỹ. Về kinh tế, chúng thẳng tay vơ vét tiền của, thóc gạo, tịch thu thuyền bè, xe cộ, xí nghiệp của tư nhân phục vụ cho quốc phịng. Kiểm sốt gắt gao sản xuất và phân phối xuất, nhập khẩu, thực hành chính sách kinh tế thời chiến. Về quân sự, chúng ban bố lệnh tổng động viên, bắt lính, bắt phu xây dựng đường xá, cơng trình qn sự phịng thủ (sau mấy tháng chiến tranh đã có 80.000 lính ở miền Bắc bị đưa sang Pháp làm “bia đỡ đạn”).

Tình hình trên đã làm cho tất cả các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc này đều chịu thiệt hại do chính sách phátxít và chiến tranh của Pháp (sau này là Pháp - Nhật) gây ra. Tháng 6/1940, Phátxít Đức chiếm được Pháp. Tháng 9/1940, lợi dụng sự suy yếu của Pháp, Nhật nhảy vào Đông Dương. Chỉ sau vài cuộc thử sức nhỏ, bọn thống trị Pháp đầu hàng Nhật. Từ đây, Đơng Dương bị hai kẻ thù Phátxít Nhật và thực dân Pháp thống trị. Chính vì vậy, các giai tầng trong xã hội đều có chung nguyện vọng muốn thoát khỏi ách thống trị đế quốc, được sống tự do, trừ một bộ phận làm tay sai cho đế quốc như bọn địa chủ lớn, tư sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với đế quốc.

Đất nước ta đang đứng trước tình thế cách mạng mới. Như Lênin từng nói: “Giai cấp thống trị khơng thể thống trị như cũ và giai cấp bị trị không thể sống như cũ được nữa” và chiến tranh đã đẩy mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm lược lên cao. Khả năng biến chiến tranh phátxít thành cách mạng giải phóng dân tộc đã xuất hiện và vấn đề giành chính quyền được đặt ra thành nhiệm vụ trước mắt của cách mạng. Trước tình hình ấy, Đảng đã nhạy bén, chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

<i><b>b) Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng</b></i>

Dưới tác động của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tình hình trong nước đặt ra cho Đảng ta nhiều vấn đề cấp thiết về chỉ đạo chiến lược, sách lược để đưa cách mạng tiến lên.

Đầu tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 họp tại Bà Điểm (Gia Định), các đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu… tham dự. Hội nghị nhận định: Trong điều kiện lịch sử mới, giải

</div>

×