Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Cơ sở văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.76 KB, 127 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC </b>

1.2. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và ý nghĩa nghiên cứu

<b>Chương 2.<small>NHỮNG ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI</small></b>

2.2. Đặc điểm xã hội và lịch sử của văn hóa Việt Nam 33

<b>Chương 3.<small>NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA VĂN</small></b>

3.1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử, sơ sử 44 3.2. Văn hóa Việt Nam trong thiên niên kỉ thứ nhất đầu Cơng

3.3. Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến năm 1858 55 3.4. Văn hóa Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945 63 3.5. Văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay 67

4.1. Vùng văn hóa và cơ sở phân vùng văn hóa 74

<b>Chương 5.<small>XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI </small></b>

5.1. Những vấn chung về bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam 106 5.2. Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Chương 1 </b>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA </b>

<b><small>1.1. KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HĨA</small></b>

<b>1.1.1. Khái niệm văn hóa và một số khái niệm liên quan</b>

<i><b>a) Văn hóa</b></i>

Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về “văn hóa”, mỗi học giả thường xuất phát từ những luận cứ riêng, góc nhìn riêng phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình để đưa ra định nghĩa về “văn hóa”.

Ở phương Đơng, từ văn hóa đã có trong đời sống từ rất sớm. Trong quẻ Bi sách Chu Dịch, hai từ “văn” và “hóa” được sử dụng kết hợp lại thành từ “văn hóa” có ý nghĩa dùng để thể hiện việc chế hợp lòng người bằng cách nêu lên những gương sáng hiền tài cho con người noi theo (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ - Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ). Một trong những người đưa ra sớm nhất định nghĩa “văn hóa” có lẽ là Lưu Hướng (77 - 6 trước Công nguyên) thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người - “văn trị giáo hóa”. Văn hóa ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì khơng phục tùng, dùng văn hóa mà khơng sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết)<small>1</small>. Khái niệm này được người Nhật tán đồng và ghi nhận thành một tên gọi.

Ở phương Tây, để chỉ văn hóa người Anh và người Pháp dùng từ Culture, người Đức có từ Kultur, người Nga có từ Kultura. Các từ này có chung gốc Latinh là chữ “cultus animi” nghĩa là trồng trọt tinh thần - tức bồi dưỡng, giáo dục, nâng đỡ đời sống tâm hồn, trí tuệ con người. Triết gia Cicéron (106 - 43 trước Công nguyên) năm 45 trước Công nguyên đã viết trong tác phẩm “Les Tuscullanes”<i> của mình rằng: </i>“Một cánh đồng dù mầu mỡ đến đâu đi chăng nữa mà khơng có sự trồng trọt thì cũng chẳng sản sinh được cái gì. Một tâm hồn con người mà khơng được giáo dục thì cũng vậy”, và “Sự trồng trọt tinh thần nó nhổ bỏ, trừ tận gốc những thói hư tật xấu, làm cho tâm hồn con người sẵn sàng tiếp nhận những hạt giống…”<small>2</small>. Như vậy, từ văn hóa được hiểu như ngày nay là từ ý nghĩa ban đầu và nội dung của từ gieo trồng đó.

Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO), trong ý nghĩa rộng nhất, “Văn hóa hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ

<small>1</small><i><small> Dẫn theo Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr.18.</small></i>

<small>2</small><i><small> Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.6.</small></i>

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng; văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt, nhân bản có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hồn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt mỏi những những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”<small>1</small>. Như vậy, văn hóa khơng phải là lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thế nói chúng những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa chính là chìa khóa của sự phát triển.

Ở Việt Nam, năm 1938 lần đầu tiên xuất hiện định nghĩa về văn hóa qua cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh. Tác giả viết: Người ta thường cho rằng, văn hóa chỉ là những học thuật, tư tưởng của loài người, nhân thể mà xem văn hóa có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật, tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi văn hóa, nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị và xã hội, cùng hết thảy các phong tục tập quán lại khơng phải ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người, cho nên ta có thể nói rằng văn hóa là sinh hoạt. “Văn hóa sinh hoạt” mà Đào Duy Anh nêu ra là phương thức hoạt động văn hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nhưng ông mới dừng lại ở mặt bằng của văn hóa chứ chưa có điều kiện đi sâu vào bản chất của văn hóa và vai trị phát triển của văn hóa.

Hồ Chí Minh trong một bài viết về Huấn luyện cán bộ đã đưa một định nghĩa ở cấp độ khái quát: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”<small>2</small>.

Như vậy, khi bàn về khái niệm văn hóa, có nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy theo góc độ và phương pháp tiếp cận. Tuy nhiên, với cách diễn đạt khái quát nhất, không ai phủ nhận văn hóa là do con người sáng tạo, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người; nó là tồn bộ giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy trong lịch sử, trong q trình con người đấu tranh với thiên nhiên, trong các mối

<small>1</small><i><small> Dẫn theo Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr.24.</small></i>

<small>2</small><i><small> Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.458.</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

quan hệ xã hội, trong ứng xử để tồn tại và phát triển. Từ đó, có thể định nghĩa:

<i>văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thầndo con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thựctiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiênvà xã hội, nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thầncủa con người.</i>

<i><b>b) Văn minh</b></i>

Lâu nay, khơng ít người vẫn sử dụng “văn minh” như một từ đồng nghĩa với “văn hóa”. Nội hàm của chúng cũng khơng được phân biệt rõ, đôi khi đồng nhất với nhau. Song thực ra, hai khái niệm này khác nhau. Văn minh là một danh từ Hán - Việt (văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp từ Civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, bắt nguồn từ ngữ căn La-tinh là “Civis” và có liên quan với các danh từ Civilis và Civitas với nghĩa gốc đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh: Thị dân, công dân. Một dân tộc chỉ được coi là văn minh khi dân tộc đó chuyển từ trạng thái săn bắt hái lượm, nay đây mai đó sang sống bằng nghề nông nghiệp, định cư ổn định trong một đô thị, hay rộng hơn là trong một quốc gia có luật pháp và cơng lý ngự trị, kèm theo là việc sáng tạo ra chữ viết, với một hệ thống chính quyền và những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của con người.

Theo Ph. Ăngghen, văn minh là giai đoạn phát triển xã hội mà trong đó sự phân cơng lao động, sự trao đổi giữa người với người bắt nguồn từ sự phân công và nền sản xuất hàng hóa bao trùm cả hai sự kiện trên đạt đến mức phát triển đầy đủ và làm đảo lộn tồn bộ xã hội trước đó (thay đổi từ xã hội nguyên thủy lên xã hội có nhà nước, quốc gia…). Theo đó, có thể hiểu nội hàm của khái niệm văn minh: Một xã hội văn minh là xã hội đã vượt qua thời kỳ dã man (thời nguyên thủy), thể hiện bằng sự ra đời của nhà nước, gia đình một vợ một chồng theo chế độ phụ hệ, có sự phân cơng lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp trong xã hội và có sự giao lưu giữa các cộng đồng người. Các giá trị vật chất và tinh thần con người đã tạo ra đạt đến trình độ tiên tiến của nhân loại cùng thời.

<i>Từ các cách tiếp cận trên, văn minh được định nghĩa là trình độ phát triển</i>

<i>văn hóa vật chất và tinh thần của một cộng đồng người (quốc gia, dân tộc)trong một giai đoạn lịch sử nhất định đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, mộtthời đại hoặc cả nhân loại.</i>

Văn minh và văn hóa cũng có điểm chung cốt lõi là sự sáng tạo của con người. Tuy nhiên giữa văn hóa và văn minh cũng cịn có những điểm khác nhau. <small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Nếu như văn hóa trong nhiều trường hợp phản ánh cái ổn định, mặt ổn định tương đối trong hoạt động của con người thì văn minh lại phản ánh cái biến động, khái quát mặt kỹ thuật của hoạt động con người trong việc chiếm lĩnh tự nhiên. Nếu văn hóa là cái hằng số của xã hội thì văn minh là biến số của lịch sử. Văn hóa có bề dày của quá khứ gắn liền với chiều dài lịch sử. Văn hóa xuất hiện từ khi có lồi người. Văn minh là một lát cắt đồng đại; nó cho biết trình độ phát triển của văn hóa ở từng giai đoạn. Văn minh mới có cách đây

<b>khoảng 5000 - 6000 năm.</b>

Văn hóa là một hệ thống hữu cơ giá trị vật chất và tinh thần, trong khi đó văn minh thiên về giá trị vật chất, kỹ thuật. Nói đến văn minh chủ yếu nói đến trình độ con người ở lĩnh vực sản xuất vật chất. Sự phát triển của văn minh gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật và cơng nghệ.

Văn hóa ln tồn tại với tư cách là những nền văn hóa dân tộc; lịch sử phát triển văn hóa mỗi dân tộc là lịch sử giữ gìn, kế thừa và tơn vinh bản sắc văn hóa dân tộc. Cịn văn minh là những sáng tạo trong các lĩnh vực có thể truyền bá, phổ biến cho các cộng đồng khác, các dân tộc khác. Từ đó, có thể thấy rằng văn hóa mang tính dân tộc, cịn văn minh mang tính quốc tế.

Tiến độ phát triển của văn hóa và văn minh cũng không đồng nhất. Hiện nay, trong khi sự phát triển của khoa học cơng nghệ hiện đại có những bước tiến vượt bậc, cả nhân loại đang tiến nhanh tới một thế giới phồn vinh thì xu hướng suy giảm về văn hóa, xét ở phạm vi tồn cầu, lại rõ rệt hơn bao giờ hết. Điều đó địi hỏi chúng ta phải có cách nhìn mới, cách quan niệm mới và cách hành động mới; phải hoạch định đúng đắn chiến lược văn hóa và hệ thống các giải pháp nhân văn cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

<i><b>c) Văn hiến và văn vật</b></i>

<i>Văn hiến</i>

Ở phương Đơng trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm “văn hiến”. Từ đời Lý (năm 1010) người Việt đã tự hào nước mình là một nước “văn hiến chi bang”. Đến đời Lê (thế kỷ XV), Nguyễn Trãi viết “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang” (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ “văn hiến” mà Nguyễn Trãi dùng là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng.

Trong danh từ “Văn hiến” thì “văn” là vẻ đẹp, là văn hóa, văn chương; cịn “hiến” tức là hiền tài, là điển chương, chế độ. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh khi giải thích từ “văn hiến” khẳng định: “Là sách vở” và nhân vật tốt đẹp

<i>trong một đời. Nói tóm lại, văn hiến là một bộ phận của văn hóa, là truyền</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>thống văn hóa lâu đời thiên về những giá trị tinh thần thể hiện tính dân tộc vàtính lịch sử rõ nét.</i>

<i>Văn vật</i>

Xét về ngữ nghĩa, “văn” có nghĩa là vẻ đẹp, là văn hóa; “vật” là sản vật, hiện vật, vật thật, vật thể, vật chất… Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh đã định nghĩa: “Văn vật là những sản vật của văn hóa”, tức là những giá trị văn hóa đã được vật thể hóa. Theo Từ điển tiếng Hán hiện đại, “văn vật” được giải thích là “những vật có giá trị trong lịch sử phát triển văn hóa cịn được truyền lại qua các đời, như các cơng trình kiến trúc, bia khắc, cơng cụ, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt và các tác phẩm

<i>nghệ thuật”. Xét nghĩa chung nhất, văn vật là truyền thống văn hóa tốt đẹp biểu</i>

<i>hiện ở những cơng trình vật chất có giá trị nghệ thuật, lịch sử và những nhân tàilịch sử trở thành di sản văn hóa của một dân tộc, quốc gia. </i>

<b>1.1.2. Cấu trúc, đặc trưng và chức năng của văn hóa </b>

<i><b>a) Cấu trúc của văn hóa</b></i>

<i>Cấu trúc theo bình diện giá trị </i>

Theo bình diện giá trị, văn hóa có cấu trúc phức tạp, bao gồm sự phân định văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, cùng với sự phân định văn hóa vật chất với văn hóa tinh thần và văn hóa tổ chức xã hội.

Văn hóa vật thể bao gồm những giá trị văn hóa tồn tại dưới dạng hữu hình, đánh dấu trình độ, tính chất và bộ mặt phát triển của một cộng đồng hoặc một quốc gia, dân tộc trong tiến trình lịch sử. Đó là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, cơng cụ sản xuất, hệ thống giao thông, thủy lợi, làng mạc, đơ thị, cơng trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật,…

Văn hóa phi vật thể bao gồm những giá trị văn hóa tồn tại dưới dạng các biểu hiện tượng trưng vơ hình, được lưu truyền và biến đổi qua thời gian do quá trình bảo tồn, tái tạo, trùng tu của con người và cộng đồng. Chẳng hạn như: Bí quyết cơng nghệ truyền thống, văn học dân gian, nghệ thuật biểu diễn, tiếng nói, chữ viết, thuần phong mỹ tục, nghệ thuật ẩm thực, nguyên tắc y lý và phương pháp chữa bệnh,…

Văn hóa vật chất là tổng thể các giá trị văn hóa nảy sinh trong quá trình sản xuất vật chất và quá trình tổ chức đời sống vật chất của xã hội, đánh dấu một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội trong việc sáng tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” theo quy luật của cái chân - thiện - mỹ.

Văn hóa tinh thần là tổng thể các giá trị văn hóa phản ánh q trình sáng tạo tinh thần và quá trình tổ chức đời sống tinh thần của xã hội, bao hàm tất cả những thành tựu văn hóa của triết học, khoa học, nghệ thuật, pháp luật, đạo đức, tôn giáo… hợp thành lĩnh vực tinh thần của từng xã hội nhất định.

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Văn hóa tổ chức xã hội là tổng thể các giá trị văn hóa phản ánh trình độ người trong tổ chức đời sống cộng đồng, từ thời đại mông muội, dã man đến thời đại văn minh, hiện đại.

Đây cũng chỉ là sự phân định tương đối, bởi ngay trong một sản phẩm văn hóa có thể chứa đựng văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa tổ chức xã hội. Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội đều tồn tại cả ở hình thái vật thể và phi vật thể. Phương thức sản xuất không chỉ quy định cách thức sản xuất của cải vật chất mà còn quy định cả cách thức sáng tạo ra sản phẩm tinh thần và cách tổ chức đời sống xã hội. Đến lượt nó, sản phẩm vật chất và tinh thần cũng như cách thức tổ chức xã hội do con người sáng tạo ra bao giờ cũng hàm chứa dấu ấn văn hóa, trở thành thước đo trình độ phát triển giá trị người của một phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử.

<i>Cấu trúc theo bình diện chủ thể văn hóa</i>

Trong đời sống xã hội, chủ thể sáng tạo nên văn hóa đồng thời cũng là chủ thể tiếp nhận văn hóa. Theo đó, cấu trúc của văn hóa được phân định thành văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng.

Văn hóa cá nhân là trình độ người của mỗi cá nhân. Đó là tổng hịa các yếu tố như thế giới quan, vốn tri thức, tư tưởng, tình cảm, năng lực chun mơn, … cùng tồn bộ hoạt động cũng như kết quả và ý nghĩa các hoạt động của mỗi cá nhân. Sự tồn tại trọn vẹn của mỗi cá nhân trong quá trình phát triển tồn diện năng lực sáng tạo, trí tưởng tượng, đời sống tình cảm và cả thể lực của họ đều là các hiện tượng cơ bản của văn hóa.

Văn hóa cộng đồng khơng phải là phép cộng đơn thuần của văn hóa cá nhân mà là tồn bộ thành tựu sáng tạo, giá trị và chuẩn mực văn hóa được hình thành thơng qua hoạt động của các cá nhân trong một cộng đồng văn hóa nhất định, được các thành viên trong cộng đồng chấp nhận, coi là đại biểu. Cộng đồng văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, từ cấp độ nhỏ như gia đình, làng xã, đơn vị lao động sản xuất, học tập, chiến đấu,… đến cấp độ lớn như quốc gia, dân tộc và cộng đồng mang tính quốc tế.

Tương tác giữa văn hóa cá nhân với văn hóa cộng đồng được khái qt

<i>trong phạm trù các vịng cộng đồng văn hóa. Văn hóa mang bản sắc riêng nhất</i>

khi thể hiện ở văn hóa cá nhân. Từ văn hóa cá nhân, càng mở rộng ra thì văn hóa càng thể hiện tính phổ qt; vịng cộng đồng văn hóa gia đình và dịng tộc; vịng cộng đồng văn hóa làng xã, vùng miền; các vịng cộng đồng văn hóa tập thể như cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội,…; vòng cộng văn hóa dân tộc; vịng cộng đồng văn hóa khu vực; và rộng nhất là vòng cộng đồng văn hóa nhân loại.

<i>Cấu trúc theo bình diện tương quan với các lĩnh vực xã hội</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Xét theo bình diện mà văn hóa thâm nhập vào đời sống xã hội, cũng như từ các phương diện đời sống xã hội mà nảy sinh giá trị văn hóa, thì cấu trúc của văn hóa bao gồm: Văn hóa sản xuất và tổ chức đời sống vật chất; văn hóa nghệ thuật và tổ chức đời sống tinh thần; văn hóa chính trị và tổ chức thể chế xã hội; văn hóa tâm linh và tổ chức đời sống tín ngưỡng…

Nếu tiếp cận văn hóa như một hệ thống, văn hóa bao gồm bốn thành tố (bốn tiểu hệ) cơ bản gồm: Văn hóa nhận thức; Văn hóa tổ chức cộng đồng; Văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên; Văn hóa ứng xử với mơi trường xã hội.

Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng nhất định - chủ thể văn hóa đó ln có nhu cầu tìm hiểu, và do vậy đã tích lũy được kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và về bản thân con người - đó chính là hai vi hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.

Tiểu hệ thứ hai liên quan trực tiếp đến những giá trị văn hóa nội tại của cộng đồng người - chủ thể văn hóa: Đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm hai vi hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội trong một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật…).

Cộng đồng người (chủ thể văn hóa) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Cho nên, hệ thống văn hóa cịn bao gồm hai tiểu hệ nữa liên quan đến cách thức ứng xử của cộng đồng dân tộc với hai loại mơi trường ấy, đó là văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với mơi trường xã hội.

Với mỗi loại mơi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động của chúng (tạo nên hai vi hệ): Tận dụng môi trường và đối phó với mơi trường. Với mơi trường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn uống và giữ gìn sức khỏe, để tạo ra các vật dụng hàng ngày,…đồng thời phải đối phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thơng), với khí hậu và thời tiết (quần áo, nhà cửa, kiến trúc). Với môi trường xã hội, bằng các q trình giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc, quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo đối phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao,…

Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa cịn có thể có những cách phân chia khác. Chẳng hạn, trong quan hệ với địa bàn cư trú, có thể phân biệt văn hóa biển, văn hóa đồng bằng, văn hóa núi. Trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hóa dân gian và văn hóa chính thống. Cũng vậy, trong quan hệ với chủ <small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

thể văn hóa có thể phân biệt văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được xem xét trong những trường hợp cần thiết. Cả bốn thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hóa. Nếu mơ hình cấu trúc của hệ thống văn hóa cho thấy cái chung, cái đồng nhất trong tính hệ thống của các nền văn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho thấy cái riêng, cái khác biệt trong tính hệ thống của chúng.

Tóm lại, mỗi cách phân chia đều có những hợp lí trên các góc độ tiếp cận khác nhau, thể hiện sự phong phú đa dạng của cấu trúc văn hóa.

<i><b>b) Đặc trưng của văn hóa </b></i>

<i> Tính hệ thống </i>

Văn hóa khơng phải là một tập hợp riêng lẻ những sự vật, hiện tượng. Văn hóa bao gồm những mặt, những mối quan hệ, những hiện tượng có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau tạo nên một hệ thống thống nhất. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có được sự cố kết ổn định, được điều chỉnh bằng những quy luật nội tại của mình, cung cấp cho xã hội những phương tiện cần thiết để ứng phó với mơi trường tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Cấu trúc của một hệ thống văn hóa là sự thống nhất biện chứng giữa các yếu tố văn hóa có tính độc lập tương đối và có sự liên hệ, tác động lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể nhất định.

Tính chỉnh thể văn hóa là cơ bản nhất của hệ thống văn hóa. Bởi vì, mỗi yếu tố trong kết cấu văn hóa là một thể phức hợp của các tiểu yếu tố với tính chất riêng biệt gắn bó chặt chẽ với nhau; các yếu tố trong hệ thống văn hóa chỉ tồn tại trong quan hệ với những yếu tố khác. Sự biến đổi của một yếu tố văn hóa sẽ gây nên sự biến đổi nhất định của các yếu tố khác của hệ thống văn hóa. Tác động qua lại giữa các yếu tố văn hóa của hệ thống sẽ làm cho cấu trúc hệ thống văn hóa thành chỉnh thể mới, chất lượng mới. Theo đó, khi nghiên cứu văn hóa hoặc xử lí một hiện tượng văn hóa nào đó, phải quán triệt quan điểm tiếp cận hệ thống, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa cái bộ phận với cái tồn thể. Chính sự tương tác giữa các bộ phận đã làm cho cái tồn thể vận động, phát triển.

<i>Tính giá trị </i>

Khơng phải mọi cái do con người sáng tạo ra đều là văn hóa, mà chỉ có những gì có giá trị mới thuộc về văn hóa. Trong từ văn hóa thì văn có nghĩa là vẻ đẹp, tức là chứa đựng giá trị mà hạt nhân của giá trị là năng lực tư duy sáng tạo, văn hóa có nghĩa là trở thành đẹp, thành có giá trị. Văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thần). Theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ. Các giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ đều thuộc phạm trù giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần cịn bao gồm các tư tưởng có giá trị sử dụng (khoa học, giáo dục,...), trong đó có cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua kinh nghiệm ngàn đời, con người đã tích lũy được.

Theo thời gian, có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện hành và giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời. Nhờ vậy, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng, sự vật có thuộc phạm trù văn hóa hay khơng, phải xem xét mối tương quan giữa mức độ “giá trị” và “phi giá trị” của chúng. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng vào những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có thể có hay khơng có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn.

Nền văn hóa nào cũng có một bảng giá trị được coi như bộ chỉnh của xã hội, trong đó định hướng giá trị làm nhiệm vụ định phương hướng phát triển cho toàn xã hội. Mỗi cá nhân phải thường xuyên lựa chọn giá trị trong tất cả các hoạt động, hành vi ứng xử như việc tiếp nhận và sáng tạo văn hóa. Tích cực tu dưỡng nhằm “nội hóa” các giá trị xã hội vào nhân cách, đồng thời bồi dưỡng và phát triển giá trị văn hóa trong nhân cách là lẽ sống của mọi người.

<i>Tính biểu tượng </i>

Tính biểu tượng là một trong những đặc trưng nổi bật của văn hóa. Hoạt động sáng tạo ra các giá trị văn hóa ln xuất phát từ những ý tưởng, ý nghĩa hoặc ngược lại, hướng tới các tư tưởng, ý nghĩa đó. Bất luận trong trường hợp nào, hoạt động gắn với một hình ảnh, sự vật với một ý nghĩa tinh thần, là hoạt động biểu trưng văn hóa. Sản phẩm của hoạt động biểu trưng văn hóa là biểu tượng văn hóa. “Biểu tượng là phức thể của hình ảnh được trưng ra (cái biểu hiện) cùng mối quan hệ của nó với khái niệm, tư tưởng mà nó thay thế (cái được biểu hiện)”<small>1</small>.

Tiếp cận văn hóa như là “mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng”<small>2</small>, thì biểu tượng trở thành một đặc trưng của văn hóa. Mỗi giá trị văn hóa đều hiện

<small>1</small><i><small> Trần Ngọc Thêm, Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ</small></i>

<small>Chí Minh, 2014, tr.44.</small>

<small>2</small><i><small> Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1998, tr.17.</small></i>

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

diện như một biểu tượng ẩn chứa trong đó dấu ấn của một thể cộng đồng, tích hợp trong nó nhiều ý nghĩa sâu sắc. Những tác phẩm văn hóa là kết tinh của trí tuệ, tư tưởng, tình cảm và vốn sống trong q trình tích lũy lâu dài của người sáng tạo, có khi qua nhiều thế hệ. Đặc trưng biểu tượng của văn hóa thể hiện đậm nét trong khoa học, nghệ thuật và tín ngưỡng tơn giáo (với tư cách một loại hình văn hóa).

Biểu tượng văn hóa giúp con người cảm nhận một cách cụ thể, gần gũi và thiết thực những đối tượng mà mình quan tâm. Đồng thời, nó cũng mở ra rất nhiều tầng bậc ý nghĩa sâu xa. Chính vì thế, để sáng tạo một sản phẩm văn hóa có giá trị cũng như hiểu được ý nghĩa văn hóa sâu xa trong sản phẩm, con người cần phải khơng ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, làm cho thế giới tri thức, tâm hồn, tình cảm của mình ngày càng lành mạnh và phong phú.

Đặc trưng biểu tượng văn hóa bao giờ cũng được thể hiện thông qua một hệ thống “mã”. Mỗi tác phẩm văn hóa là một bộ “mã”. Tùy từng lĩnh vực mà có sự mã hóa khác nhau. Trình độ mã hóa càng sâu sắc, tinh tế thì càng làm tăng giá trị của tác phẩm. Ngược lại, sự mã hóa trong tác phẩm hời hợt, giản đơn, khiến người thưởng thức không cần động não, hoặc không thể rung cảm thì ý nghĩa văn hóa của nó rất thấp. Tuy vậy, việc mã hóa cũng phải tuân theo quy luật khách quan, nhất là “quy luật trái tim” và logic cuộc sống. Mọi sự lắt léo, cầu kì, phô trương, giả tạo đều trái với bản chất sáng tạo của văn hóa.

Muốn sáng tạo văn hóa, cần phải có tri thức và tâm hồn để mã hóa thành cơng. Đồng thời, muốn tìm hiểu, thưởng thức, tiếp thu văn hóa, cần phải biết giải mã, tức là phải có hệ thống “chìa khóa” để đi sâu vào lâu đài vơ tận của văn hóa. Nhưng điều đó hồn toàn tùy thuộc khả năng và thái độ học tập của mỗi người.

<i><b>c) Chức năng của văn hóa</b></i>

<i>Chức năng tổ chức xã hội</i>

Nhờ có tính hệ thống, văn hóa với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Xã hội loài người được tổ chức theo những cách thức đặc biệt thành những làng xã, quốc gia, đơ thị, hội đồn, tổ nhóm,… mà giới động vật chưa hề biết tới - đó là nhờ văn hóa. Làng xã, quốc gia, đơ thị,… của mỗi dân tộc lại cũng khác nhau - điều đó cũng do sự chi phối của văn hóa. Chính văn hóa thường xun làm tăng tính ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với mơi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội cho nên nó làm tăng thêm tính cố kết cộng đồng, tạo sự ổn định xã hội thông qua cách ứng xử và tổ chức trong gia đình, tổ chức cộng đồng và xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>Chức năng điều chỉnh xã hội</i>

Xã hội là một hệ thống hồn chỉnh, có tổ chức, trong đó mỗi cá nhân phải sống theo những quy tắc, chuẩn mực văn hóa nhất định. Bất cứ cộng đồng nào cũng lập ra những chuẩn mực văn hóa hợp thành một hệ thống bảo đảm sự tồn tại, phát triển thống nhất. Khi hệ chuẩn mực đó tan vỡ thì cộng đồng cũng tan vỡ theo. Văn hóa điều chỉnh mọi hành vi của con người theo một hướng nhất định, do đó làm cho xã hội vận hành bình thường. Chuẩn mực văn hóa được coi là “hàng rào” bảo vệ sự an bình cho cuộc sống của cá nhân và cộng đồng. Xã hội muốn giữ thế cân bằng phải luôn luôn điều chỉnh, bổ sung hệ thống chuẩn mực cùng với việc loại bỏ những chuẩn mực đã lỗi thời, lạc hậu.

Thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội, văn hóa hướng cá nhân và cộng đồng theo lý tưởng, mục tiêu nhất định. Tất cả những gì đi ngược lại đều được coi là thiếu văn hóa hoặc phản văn hóa.

Chức năng điều chỉnh xã hội của văn hóa cịn có ý nghĩa tự thân, tức là tự điều chỉnh bảo đảm sự phát triển lành mạnh, đúng hướng của chính văn hóa. Những hoạt động văn hóa, những sản phẩm văn hóa khơng hướng tới chân, thiện, mỹ, khơng góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và trí tuệ con người cần phải được đấu tranh loại bỏ.

<i>Chức năng giao tiếp</i>

Một trong những đặc điểm khu biệt con người với động vật là ở sự hợp quần thành xã hội, mà xã hội không thể hình thành và tồn tại được nếu thiếu sự giao tiếp. Văn hóa có sức mạnh tạo nên quan hệ hài hòa giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên, tạo mối đồng cảm giữa các dân tộc và các thời đại. Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành một cơng cụ giao tiếp thiết yếu, trở thành một chức năng quan trọng của văn hóa là chức năng giao tiếp. Nếu ngơn ngữ là hình thức và phương tiện của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.

Văn hóa tạo ra những điều kiện và phương tiện (như ngôn ngữ, và các hệ thống kí hiệu) cho sự giao tiếp; văn hóa là nội dung giao tiếp, đồng thời là mơi trường cho hoạt động giao tiếp của con người. Đến lượt mình, văn hóa cũng là sản phẩm của giao tiếp, các sản phẩm của văn hóa có thể tạo ra bằng hoạt động của cá nhân riêng rẽ, nhưng bản thân văn hóa thì chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động xã hội mà thôi.

<i>Chức năng giáo dục</i>

Chức năng bao trùm nhất của văn hóa là chức năng giáo dục. Nói cách khác chức năng tập trung của văn hóa là bồi dưỡng con người, hướng lý tưởng, <small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

đạo đức và hành vi của con người vào “điều hay lẽ phải, điều khôn, lẽ thiệt”, theo những khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội quy định.

Văn hóa bao giờ cũng hình thành trong một q trình và tích lũy qua nhiều thế hệ, mang tính lịch sử và tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu. Sự tích lũy và chuyển giao những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được cố định hóa dưới dạng ngơn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận,… từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên truyền thống văn hóa.

Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định dưới dạng truyền thống hay tập tục, mà còn bằng cả những giá trị và chuẩn mực đang hình thành. Các giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực, khn mẫu mà con người hướng tới. Nhờ nó, văn hóa đóng vai trị quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người, dưỡng dục nhân cách, tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Một đứa trẻ được sống với cha mẹ sẽ được giáo dục theo truyền thống văn hóa trong gia đình mình sinh ra; cịn nếu bị rơi vào rừng, đứa trẻ ấy sẽ mang hành vi, tính nết của lồi thú. Khơng phải ngẫu nhiên mà trong các ngơn ngữ phương Tây khác nhau, thuật ngữ “văn hóa” đều có chứa một nghĩa chung là chăm sóc, giáo dục, vun trồng,...

Chức năng giáo dục của văn hóa đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Nếu gen sinh học di truyền lại cho thế hệ sau hình thể con người thì văn hóa được coi là một thứ “gen” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau. Bằng chức năng giáo dục, văn hóa tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi dân tộc. Văn hóa duy trì và phát triển bản sắc dân tộc, nó tạo nên sự đồng cảm, sự gắn bó nhiều dân tộc, nhiều thế hệ trong mục tiêu hướng về các giá trị chân - thiện - mỹ.

Ngoài bốn chức năng cơ bản trên, văn hóa cịn có các chức năng khác như chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí,... song chúng đều là những chức năng bộ phận hoặc phái sinh từ bốn chức năng cơ bản đã nêu (ví dụ: chức năng thẩm mỹ và chức năng giải trí có ở thành tố nghệ thuật là một bộ phận của văn hóa, chức năng nhận thức hàm chứa trong chức năng giáo dục của văn hóa.).

<b>1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa với con người, tự nhiên và xã hội</b>

<i><b>a) Văn hóa và con người</b></i>

Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người xuất hiện từ lúc nào thì văn hố xuất hiện từ lúc ấy. Trong mối quan hệ giữa văn hóa và con người thì con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của văn hóa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Con người trong hoạt động sống của mình sản sinh ra văn hóa, sau khi xuất hiện, các giá trị văn hóa có tác động trở lại với con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, phát triển. Mối quan hệ giữa văn hóa và con người thể hiện trên ba mặt sau: Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo của văn hóa; con người là sản phẩm của văn hóa; con người cũng đồng thời là đại biểu mang giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra.

Trong q trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, đến lúc nào đó xuất hiện con người. Quá trình lao động, bộ não con người dần dần phát triển và hoàn thiện; cùng với sự hoạt động của con người trong xã hội và thông qua xã hội làm xuất hiện ngôn ngữ để giao tiếp, dẫn đến con người có tư duy, có ý thức, vì vậy, con người khác hẳn loài vật. Trong mối quan hệ với giới tự nhiên và xã hội, con người đứng ở vị trí trung tâm, là chủ thể sức mạnh và vai trò to lớn trong việc cải biến tự nhiên, cải biến xã hội. Con người thực hiện được điều đó chính là nhờ ở phẩm chất đặc biệt của con người, như C. Mác đã gọi đó là những lực lượng bản chất người - tức là những năng lực lao động sáng tạo của con người mang bản chất xã hội. Trong quá trình hoạt động kiếm sống, con người đã quan sát, tìm hiểu, khám phá, khai thác thiên nhiên. Các lực lượng bản chất người được vật thể hóa thành những sản phẩm vật chất, tinh thần và xã hội. Qua đó, con người tích lũy được nhiều kinh nghiệm, nhờ đó lại tiếp tục sáng tạo ra những giá trị vật chất và giá trị tinh thần ngày một cao hơn. Những cơng trình kĩ thuật và kinh tế, công cụ sản xuất, tư liệu sinh hoạt, phương tiện giao thông, ngôn ngữ, tri thức khoa học, tác phẩm nghệ thuật, chuẩn mực pháp lý và các thiết chế xã hội, các cơng trình văn hóa, kiến trúc vĩ đại đều là những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử.

Như vậy, tồn bộ sản phẩm văn hóa của nhân loại là do con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra. Những sản phẩm này hợp thành một thế giới văn hóa phân biệt với giới tự nhiên, và đặt trong mối quan hệ với cuộc sống con người thì cái thế giới nhân tạo ấy được gọi là hệ sinh thái văn hóa. Cùng với hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái văn hóa thường xuyên tác động đến con người, giúp cho con người luôn phát triển về mọi mặt và khơng ngừng hồn thiện nhân cách của mình.

Con người có nguồn gốc sinh vật (nguồn gốc tự nhiên) và nguồn gốc xã hội. Trong đó, nguồn gốc xã hội là quyết định, bởi lẽ khơng có xã hội, không được nuôi dưỡng trong môi trường xã hội thì khơng thể hình thành con người. Chính mơi trường xã hội này đã hình thành nên mơi trường văn hóa, đã cải biến con người từ con người tự nhiên thành con người xã hội và làm cho nhân cách con người ngày càng hoàn thiện hơn. Một đứa trẻ khi mới ra đời, ở nó chỉ <small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

có tố chất sinh học, văn hóa chuẩn bị sẵn cho nó hành trang để bước vào đời. Nó phải học tập để nắm vững các kiểu mẫu hoạt động, các mệnh lệnh, các phương thức ứng xử, các mơ hình, thiết chế xã hội để hình thành và phát triển. Nếu đứa trẻ không được dạy dỗ, học ăn, học nói, học ứng xử, học kiến thức thì khơng thể thích ứng với cuộc sống thực tại được. Mặt khác, trong quá trình phát triển, tự bản thân đứa trẻ thu nhận tất cả những tác động từ bên ngồi, trong q trình giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội để hình thành nên nhân cách của mình. Người ta gọi quá trình dạy học làm người ấy là q trình văn hóa hóa cá nhân, qua đó hình thành nên nhân cách. Mỗi một nền văn hóa có một phương thức văn hóa cá nhân riêng của nó, từ đó mà hình thành nên những kiểu nhân cách khác nhau từ trong mỗi nền văn hóa đó.

Được sinh ra trong xã hội, con người tiếp thu tất cả những sản phẩm văn hóa tinh thần và vật chất do con người sáng tạo ra, hình thành nên nhân cách con người; đồng thời trong quá trình tiếp nhận, kế thừa và sáng tạo những giá trị văn hóa mới, nhân cách con người ngày càng được hoàn thiện. Con người ngày càng tách khỏi giới tự nhiên hơn, được văn hóa hơn. Vì vậy, có thể nói con người vừa là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, vừa là sản phẩm của nền văn hóa ấy, đồng thời vừa là đại biểu mang các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra.

<i><b>b) Văn hóa và tự nhiên</b></i>

Quan hệ văn hố với con người và xã hội là một phần của quan hệ bộ ba “con người - văn hoá - tự nhiên”. Trong quan hệ giữa văn hoá và tự nhiên, tự nhiên là cái có trước, tự nhiên qui định văn hoá. Văn hoá thường được định nghĩa như một “tự nhiên thứ hai”. Khơng có tự nhiên sẽ khơng có văn hố. Bởi vì:

Thứ nhất, tự nhiên tạo nên con người; con người lao động không ngừng để tạo nên văn hoá. Như vậy, văn hoá là sản phẩm trực tiếp của con người và sản phẩm gián tiếp của tự nhiên. Văn hoá là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.

Thứ hai, trong quá trình sáng tạo văn hoá, con người vẫn phải sử dụng các tài nguyên phong phú của tự nhiên và năng lực tự nhiên tiềm tàng của chính mình. Các giá trị văn hố khơng thể tồn tại được nếu khơng có tự nhiên làm mơi trường và chất liệu cho nó: Mọi sản phẩm vật chất đều chế tạo từ các vật liệu tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ tự nhiên và mọi sản phẩm tinh thần đều không thể tồn tại ngoài bộ não là cái vật chất tự nhiên sinh ra chúng.

Ranh giới giữa văn hóa và tự nhiên không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ thấy. Ngay cái cây trồng ngồi vườn, con vật ni trong nhà… thoạt nhìn chỉ là những đối tượng tự nhiên thuần túy, thế nhưng chúng lại thuộc về văn hóa: Chúng là những động thực vật được con người thuần dưỡng, ni nấng, chăm sóc. Con người ln quan tâm đến chúng và ngược lại chúng không thờ ơ với con người:

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Một ngọn núi, một dịng sơng, một tảng đá - là tự nhiên thuần túy, nhưng khi được con người biết đến, đặt tên cho: Núi này là “Hàm Rồng”, vịnh này là “Hạ Long”, đá kia là “Vọng Phu”, … tất cả bỗng có linh hồn, bỗng trở thành sống động thân thương, tất cả đã trở thành văn hóa.

Nói như vậy, khơng có nghĩa là ranh giới giữa văn hóa và tự nhiên đã bị xóa nhịa. Tùy theo mức độ tỷ lệ “chất văn hóa”/“chất tự nhiên” trong mỗi đối tượng mà ta có thể nói rằng đối tượng này thuộc về tự nhiên, cịn đối tường kia thuộc về văn hóa: Vịnh Hạ Long tuy có được con người đặt cho một cái tên, gắn cho một truyền thuyết, nhưng ấn tượng của cái tên và độ đặc thù văn hóa của truyền thuyết trong trường hợp này chưa đủ mạnh; nếu khơng có cái chất văn hóa đó thì tự thân thiên nhiên nơi đây cũng đã là một cảnh đẹp phi thường và là một khu vực địa chất có giá trị rồi. Trong trường hợp này, “chất tự nhiên” vượt trội so với “chất văn hóa”- do vậy vịnh Hạ Long là một di sản tự nhiên. Hòn Vọng Phu thì khác: Tuy hồn tồn là một cảnh quan tự nhiên do nước mưa bào mịn đá vơi không đều tạo nên, nhưng câu chuyện truyền thuyết gắn với nó phản ánh một khung cảnh đặc thù của văn hóa Việt Nam (chiến tranh và sự xa cách) và một phẩm chất đặc biệt của người phụ nữ Việt Nam (lịng chung thủy) đến mức khơng người Việt Nam nào khơng biết sự tích hịn Vọng Phu mặc dù ít ai nhìn thấy nó. Nói cách khác, trong trường hợp này, “chất văn hóa” vượt trội so với “chất tự nhiên”, do vậy, hòn Vọng Phu thuộc về văn hóa.

Văn hóa và tự nhiên khác nhau nhưng chúng không đối lập với nhau mà tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhau thông qua con người và hoạt động của con người. Khơng có tự nhiên sẽ khơng có văn hóa, nhưng mặt khác, nếu thiếu văn hóa thì khơng thể có được những hình ảnh của tự nhiên đa dạng và phong phú như nó vẫn tồn tại. Trước khi có nhận thức khoa học và bên cạnh nhận thức khoa học, tự nhiên ln được con người tiếp nhận thơng qua lăng kính văn hóa, được chuyển đổi thành dạng văn hóa: “ngơi sao” trên bầu trời được người Việt nhận thức không phải như một hành tinh, mà là như một vật thể nhiều cánh phát sáng; “con dơi” được người Nga nhận thức như một con chuột biết bay; quả dưa hấu đối với người Nam Bộ là thứ trái cây ruột đỏ, tượng trưng cho sự may mắn (nên được thờ vào dịp tết), cịn đối với người Anh thì đó là thứ dưa nhiều nước,… Tự nhiên tồn tại trong nhận thức của con người dưới dạng những biểu trưng (biểu trưng - khái niệm, biểu trưng - từ ngữ) do văn hóa tạo ra. Tính biểu trưng là một đặc điểm quan trọng của văn hóa.

<i><b>c) Văn hóa và xã hội</b></i>

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Một trong những giá trị văn hóa cơ bản đã tạo nên con người, đã làm cho loài “vượn người” trở nên khác biệt hẳn so với các đồng loại của mình trong giới tự nhiên là khả năng tạo ra các nhóm xã hội mà trong đó con người ý thức được ý nghĩa của nó. Trong khi động vật chỉ mới biết tập hợp thành bầy đàn một cách tự phát theo bản năng thì con người biết tập hợp lại thành thị tộc, bộ lạc, làng xã, đô thị, dân tộc, quốc gia, khu vực,…

Văn hóa tạo nên các nhóm xã hội đó và đến lượt mình, các nhóm xã hội đó đã tác động mạnh mẽ tới sự bảo tồn và phát triển của văn hóa. Nhóm xã hội nào cũng đồng thời góp phần vừa bảo tồn vừa phát triển văn hố của mình, song tuỳ theo tính chất của từng loại nhóm xã hội mà vai trị của chúng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa có khác nhau. Các nhóm xã hội nào có tính đồng nhất cao thì khả năng bảo tồn tốt, cịn nhóm xã hội nào có tính đa dạng cao thì khả năng phát triển tốt.

Thị tộc có tính đồng nhất cao hơn bộ lạc (do cùng huyết thống), làng xã có tính đồng nhất cao hơn đơ thị, dân tộc có tính đồng nhất cao hơn quốc gia. Vì vậy mà các thị tộc, làng xã, dân tộc có khả năng bảo tồn văn hóa tốt hơn; ngược lại, bộ lạc, đơ thị, quốc gia có khả năng phát triển văn hóa nhanh hơn. Trong nội bộ cộng đồng thì tính đồng nhất cao hơn, cịn trong quan hệ với các cộng đồng khác thì tính đa dạng cao hơn. Do đó, tổ chức cộng đồng có chức năng bảo tồn văn hóa tốt hơn, cịn việc giao lưu với các dân tộc khác, các nền văn hóa khác có khả năng nhanh chóng làm giàu thêm nền văn hóa của mình.

Trên thế giới, ở bất kì đâu con người cũng tiến đến những tổ chức xã hội tương đồng, nhưng mỗi cộng đồng dân tộc lại có những nét đặc thù riêng trong cách tổ chức của mình. Các cộng đồng làm nơng nghiệp khép kín hơn, có tính đồng nhất cao hơn nên các nền văn hố nơng nghiệp bền vững hơn, cũng có nghĩa là trì trệ hơn; cịn các cộng đồng sống bằng chăn ni, bn bán, sản xuất cơng nghiệp,… thì quan hệ giao lưu rộng hơn, do vậy dễ thay đổi hơn, phát triển nhanh hơn, dễ đồng hoá kẻ khác và cũng dễ bị kẻ khác đồng hoá.

Liên quan đến mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội cịn là hàng loạt vấn đề thu hút sự quan tâm của dư luận như tính cách dân tộc, vai trị của nhà nước đối với văn hóa, văn hóa đại chúng và văn hóa thượng lưu,…

<b><small>1.2. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP VÀ Ý NGHĨA NGHIÊNCỨU MƠN CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM</small></b>

<i><b>1.2.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Cơ sở văn hóa là một mơn học thuộc ngành văn hóa học, tuy nhiên, cơ sở văn hóa có đối tượng nghiên cứu riêng. Chúng ta có thể nhận diện đối tượng nghiên cứu của mơn học Cơ sở văn hóa trên cơ sở nhận diện đối tượng của văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

hóa học và phân biệt đối tượng nghiên cứu của Văn hóa học đại cương, Địa lý văn hóa và Lịch sử văn hóa.

Văn hóa học (Culturology) trước hết được hiểu là một bộ môn khoa học cấu thành của khoa học về văn hóa. Khoa học về văn hóa là một hệ thống mở, bao hàm nhiều tiểu hệ luôn tác động biện chứng với nhau nhằm khái quát khách thể nghiên cứu là văn hóa với tư cách thực thể xã hội vận hành theo những quy luật khách quan vốn có.

Tiến trình phát triển của khoa học về văn hóa ln diễn ra xu hướng vừa phân ngành vừa liên ngành rất lớn. Hiện nay, khoa học về văn hóa đã hình thành những chun ngành chun biệt nghiên cứu sâu vào từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Cùng với sự phân ngành là q trình liên ngành và đi liền với nó là những cơng trình nghiên cứu ở tầm vĩ mơ về văn hóa. Sự xâm nhập của khoa học về văn hóa vào các khoa học khác đã tạo nên những thành tựu quan trọng.

Đặc biệt, khi kết quả của sự phát triển tư tưởng về văn hóa đã đến trình độ khái quát cao về bản chất và những quy luật phổ biến của văn hóa, thì khách thể văn hóa ln được nghiên cứu dưới góc độ triết học văn hóa, tức là xem xét văn hóa dưới góc độ bản thể luận văn hóa, quyết định văn hóa và nhận thức luận văn hóa.

<i>Như vậy, văn hóa học là bộ môn khoa học nghiên cứu về các hiện tượng,</i>

<i>các q trình, các vịng cộng đồng văn hóa với tư cách quá trình phát triển bảnchất người theo quy luật khách quan của nó trong tổng hịa các quan hệ giữacon người với tự nhiên, với xã hội và với bản thân con người.</i>

Theo đó, cơ cấu của văn hóa học bao gồm văn hóa học đại cương, lịch sử văn hóa, địa lý văn hóa và cơ sở văn hóa. Tuy cùng lấy văn hóa làm đối tượng nghiên cứu nhưng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận với đối tượng đó mà đã ra đời các mơn học về văn hóa với những nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau.

Văn hóa học đại cương nghiên cứu văn hóa dưới góc độ lý luận khái quát chung, bao gồm các quan niệm, các học thuyết, các cách tiếp cận văn hóa và văn hóa học nói chung.

Lịch sử văn hóa nghiên cứu văn hóa dưới góc độ thời gian, bao gồm diễn trình văn hóa của một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử với các sự kiện, hiện tượng văn hóa cụ thể đã phát sinh và phát triển.

Địa lý văn hóa nghiên cứu văn hóa dưới góc độ khơng gian, thơng qua việc khảo sát văn hóa trong mối tương quan với điều kiện địa lý, tìm hiểu đặc điểm của từng khu vực, từng vùng văn hóa.

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Cơ sở văn hóa nghiên cứu những đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình thành và phát triển của các nền văn hóa cụ thể.

Cơ sở văn hóa Việt Nam là mơn khoa học nghiên cứu về văn hóa Việt Nam với tư cách là một nền văn hóa trong mối tương quan với văn hóa khu vực và thế

<i>giới. Thực chất nghiên cứu cơ sở văn hóa Việt Nam là nghiên cứu những đặc</i>

<i>trưng cơ bản cùng những quy luật hình thành và phát triển của nền văn hóa ViệtNam cả về mặt lịch đại và đồng đại; làm rõ tính phong phú đa dạng của cácvùng, miền văn hóa, sự giao lưu và tiếp biến cũng như bản sắc dân tộc của vănhóa Việt Nam trong q trình phát triển của quốc gia - dân tộc. Đó chính là cách</i>

nhìn chỉnh thể và khái quát nhất về sự phong phú, đa dạng của đời sống văn hóa dân tộc Việt Nam.

<b>1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b>

Nghiên cứu những tiền đề tự nhiên, kinh tế - xã hội, con người, lịch sử tác động đến sự hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở đó có cái nhìn đối sánh giữa văn hóa dân tộc với các nền văn hóa khác.

Nghiên cứu tiến trình phát triển, giao lưu và tiếp biến của văn hóa Việt Nam; những thành tựu, đặc trưng văn hóa cũng như sự biến đổi các giá trị văn hóa qua các giai đoạn lịch sử, thơng qua đó làm rõ những quy luật phát triển của văn hóa Việt Nam.

Nghiên cứu các vùng văn hóa Việt Nam trong quan hệ xác định với các các vùng lãnh thổ nhằm làm nổi bật tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam.

Nghiên cứu những giá trị tiêu biểu về bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam; đường lối quan điểm của Đảng về vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa và con người trong tình hình mới.

<b>1.2.3. Phương pháp nghiên cứu </b>

Quán triệt, vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin phổ biến là phương pháp lịch sử; phương pháp logic; phương pháp tiếp cận hệ thống,...

Phương pháp lịch sử (cách tiếp cận lịch đại): Khảo cứu sự tiến triển của một nền văn hóa theo trục thời gian. Nó đem lại bức tranh phong phú, sinh động, các tiểu tiết, các tài liệu cụ thể liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Bên cạnh những mặt mạnh vốn có, phương pháp này cũng gặp phải những hạn chế nhất định như: Bị lệ thuộc nhiều vào các tài liệu và các di chỉ tìm được; quy luật phát triển của đối tượng thường bị chèn lấp bởi các sự kiện mang tính mảnh đoạn; đối tượng thường được hình dung như một tập hợp bao gồm các biểu hiện đa dạng hơn là một chỉnh thể có kết cấu và có logic phát triển nội tại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Phương pháp logic (cách tiếp cận đồng đại): Khảo cứu đối tượng (văn hóa) theo lát cắt đồng đại. Nó có ưu điểm là cho phép hình dung về kết cấu của đối tượng cùng với các chức năng và các yếu tố cấu thành. Nó cũng vạch ra được quy luật nội tại của đối tượng, nhờ đó đối tượng được tái hiện như một chỉnh thể sống động, vận động tự thân. Nó cũng giảm sự phụ thuộc của nghiên cứu vào các tài liệu lịch sử. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng có những hạn chế như: kém sinh động và thiếu các luận cứ thực chứng. Để khắc phục những nhược điểm này, người ta thường sử dụng phương pháp logic trong sự kết hợp và hỗ trợ của phương pháp lịch sử.

Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu văn hóa trong sự vận động không ngừng, phát triển theo quy luật khách quan của văn hóa. Văn hóa bản thân nó là một hệ thống bao gồm nhiều vi hệ, các thành tố trong mỗi vi hệ có mối liên quan chặt chẽ với nhau, như: Các điều kiện hình thành và phát triển của văn hóa; văn hóa nhận thức; các hình thức tổ chức cộng đồng; văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội; giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại.

Ngồi những phương pháp trên, do văn hóa là khái niệm rộng, bao gồm toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần, xã hội con người, vì vậy nghiên cứu văn hóa cần vận dụng phương pháp liên ngành như: Phương pháp sử văn hóa; địa -văn hóa; triết học -văn hóa; xã hội học -văn hóa; nhân học -văn hóa,…

<b>1.2.4. Ý nghĩa nghiên cứu </b>

Văn hóa nằm trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người nên nó đã “đụng chạm” đến tất cả từ những vấn đề bình thường nhất trong cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, những vấn đề về tín ngưỡng, phong tục, lối sống cá nhân, đến cả những vấn đề lớn như ý thức hệ, nền tảng tư tưởng, thế giới quan, lý tưởng mang tầm vĩ mô của cộng đồng dân tộc, quốc gia, vì vậy nó có ý nghĩa thực tiễn và lý luận rất lớn.

Với tính cách là một mơn khoa học của ngành văn hóa học, mơn học Cơ sở văn hóa Việt Nam trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản nhất về cơ sở hình thành những đặc trưng cơ bản của văn hóa dân tộc. Đây là những kiến thức nền tảng hết sức quan trọng đối với việc hình thành, phát triển nhân cách người sĩ quan Quân đội. Cùng với kiến thức về lịch sử, những kiến thức về cơ sở văn hóa giúp cho người học hiểu biết sâu sắc, toàn diện, hệ thống hơn về lịch sử dân tộc và truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện theo nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Xét về bản chất, Quân đội nhân dân Việt <small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước ta để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta xây dựng Quân đội nhằm mục đích bảo vệ sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trước nguy cơ xâm lược của bọn đế quốc và các thế lực phản động, bảo vệ quyền được sống, quyền được hưởng hịa bình của mỗi người dân, bảo vệ truyền thống văn hóa, giá trị văn hóa thiêng liêng của dân tộc.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã sáng tạo những giá trị truyền thống lâu đời, bền vững. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, chúng ta đã kế thừa, phát huy cao độ bản sắc văn hóa dân tộc, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thấm nhuần lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khắc phục mọi khó khăn, chiến đấu và chiến đấu thắng lợi mọi kẻ thù. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với những biến động phức tạp khó lường đang đặt ra những yêu cầu mới, địi hỏi chúng ta khơng chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà cịn phải tinh thơng về văn hóa, tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Thực tiễn đã cho thấy, những kiến thức về lịch sử, văn hóa đặc biệt quan trọng, cần thiết đối với đội ngũ cán bộ, chỉ huy ở đơn vị cơ sở, nhất là trong chỉ đạo, tổ chức các hoạt động giáo dục chính trị, giáo dục lịch sử, truyền thống, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở. Khơng có các kiến thức về lịch sử, văn hóa dân tộc, người cán bộ, chỉ huy không thể tiến hành các hoạt động quản lý, giáo dục quân nhân có hiệu quả và khó có thể tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục bộ đội giữ gìn, bảo vệ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Điều đó địi hỏi, học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội phải coi trọng học tập, nghiên cứu về cơ sở văn hóa Việt Nam. Quá trình học tập cần tích cực tìm hiểu, nghiên cứu thêm các tài liệu về lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc để mở rộng tầm hiểu biết về lịch sử và văn hóa Việt Nam, đồng thời, tích cực vận dụng kiến thức môn học vào thực tiễn học tập, rèn luyện tại trường và công tác ở đơn vị cơ sở trong tương lai.

<b><small>VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</small></b>

1. Phân biệt khái niệm văn hóa, văn minh. 2. Đặc trưng, chức năng của văn hóa.

3. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và văn hóa.

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<b>Chương 2</b>

<b>NHỮNG ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬTÁC ĐỘNG ĐẾN Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN</b>

<b>CỦA VĂN HĨA VIỆT NAM</b>

<b><small>2.1. ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN GỐC CỦADÂN TỘC VIỆT NAM</small></b>

<b>2.1.1. Đặc điểm môi trường tự nhiên </b>

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Văn hoá là sản phẩm của con người với tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hố chính do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (vị trí địa lí, địa hình, khí hậu) quy định. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho rằng: “Chính vì những điều kiện tự nhiên về địa lý khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng thành khác nhau vậy. Bởi thế muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc, trước hết phải xem xét dân tộc ấy sinh trưởng ở trong điều kiện địa lý nào. Các điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của người ta, song người là giống hoạt động cho nên trở lại cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và biến những điều kiện ấy cho thích hợp với những điều kiện cần thiết cho mình. Cách sinh hoạt vì thế mà cũng biến chuyển và khiến văn hóa biến chuyển theo”<small>1</small>.

Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, thuộc bán đảo Đông Dương, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào, Campuchia, phía Đơng và Đơng Nam trơng ra biển Đơng và Thái Bình Dương. Đơng Nam Á là khu vực tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là cầu nối giữa lục địa Á - Âu với lục địa Ô- xtrây - li - a, đây là nơi giao thoa của các nền văn hóa lớn. Với vị trí đặc biệt đó, Việt Nam sớm là nơi hội tụ giao thoa văn hóa giữa các nền văn hóa trong khu vực và trên thế giới.

Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, Việt Nam trở thành tiền đồn của khu vực Đông Nam Á. Xưa, nay, bất cứ một đế chế nào thời cổ - trung đại hay một cường quốc thời cận - hiện đại, có tham vọng chinh phục, bành trướng ra vùng Đơng Nam Á, đều coi nước ta là một địa bàn chiến lược cần phải chiếm lấy. Vì vậy, từ thuở dựng nước đến nay, nhân dân ta đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù lớn mạnh hơn, dân tộc ta phải phát huy tất cả sức mạnh của đất nước, của nhân dân. Đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên từ nhiều nhân tố: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đồn kết tồn dân “chúng chí thành thành”, đó là nghệ thuật quân sự tài tình “Chiến tranh nhân dân”, “chiến tranh du kích”, dựa vào hình thế núi sông đánh giặc. Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quốc gia “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn; Lấy chí nhân thay cường bạo”. Dựng nước gắn liền với giữ nước trở thành quy luật sinh tồn của dân tộc Việt Nam.

Từ góc độ địa văn hóa, địa hình Việt Nam trải dài theo hướng Bắc -Nam, hẹp Đông - Tây. Đi từ Bắc vào Nam với chiều dài hơn 2.000km bị chia cắt bởi các đèo và sông cắt ngang theo hướng Đông - Tây; đi từ Tây sang Đơng có núi - đồi - thung lũng - châu thổ - ven biển - biển và hải đảo, tạo ra nhiều vùng

<small>1</small><i><small> Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 2000, tr.10.</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

sinh thái khác nhau, là cơ sở tạo ra tính đa dạng của văn hóa Việt Nam như văn hóa núi, văn hóa đồng bằng, văn hóa biển.

Nước ta có hệ thống sơng ngịi chằng chịt, trung bình mỗi km<small>2</small> đất có từ 01 đến 1,5 km sơng. Trên thế giới duy nhất có Việt Nam, trung bình cứ cách 20 km, có một cửa sơng lớn đổ ra biển. Nếu tính các sơng có chiều dài trên 3.000m thì Việt Nam có khoảng 2.670 con sơng. Trong đó, sơng Hồng và sơng Cửu Long là hai hệ thống sông lớn nhất ở Việt Nam. Đặc điểm của sơng ngịi Việt Nam là ngắn, chảy trên một độ dốc lớn, lưu lượng nước tập trung chủ yếu vào mùa mưa nên thường gây ra lũ lụt. Nhưng qua đó, sơng ngịi đã đem phù sa bồi đắp cho trên 7 triệu héc - ta đất nông nghiệp của hai đồng bằng tương đối rộng là đồng bằng sông Hồng (15.000 km<small>2</small>) và đồng bằng sông Cửu Long (31.000 km<small>2</small>)cùngmột chuỗi đồng bằng ở ven biển miền Trung. Đồng bằng là “tặng vật” của sơng ngịi, đồng thời là cái nơi của văn hóa, văn minh Việt Nam. Mặt khác, yếu tố sông nước cũng là hằng số địa lý quan trọng, tạo nên nét đặc thù trong đời sống văn hóa dân tộc - văn hóa vùng sơng nước. Yếu tố văn hố sơng nước được thể hiện qua rất nhiều hình thức khác nhau, từ những vấn đề sinh hoạt đời thường đến đời sống tâm linh, tình cảm của người Việt Nam đều gắn liền với các vùng sơng nước. Chính yếu tố nước mang tính phổ quát và đặc thù này đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong tập quán kĩ thuật canh tác (đê, ao, kênh, rạch...), cư trú (làng ven sông, trên sông “vạn chài, từ chợ búa, bến” tới những đô thị ven sông, biển hay ngã ba, ngã tư sông: Hội an , phố Hiến, Thăng Long... ), ăn (cá nước ngọt, nước mặn...), ở (nhà sàn, nhà mái cong hình thuyền), tới tâm lý ứng xử (linh hoạt, mềm mại như nước), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chải), tín ngưỡng tơn giáo (thờ cá, thờ rắn, thuỷ thần, thờ nước...), phong tục tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật (chèo, tuồng, múa rối nước, hị, lí) và truyền thống của người Việt.

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm, mưa nhiều, do nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có nền nhiệt độ cao, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 22ºC đến 27ºC, lượng mưa trung bình trên 2.000mm (cá biệt có nơi như vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế) đạt tới 7.977mm), vào loại cao nhất thế giới. Độ ẩm khơng khí trên 80%, số giờ nắng khoảng 1.600 - 2.000 giờ. Điều kiện thời tiết đó rất thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của hệ thực vật, đặc biệt là cây lúa nước. Vì thế, trước khi tiếp xúc với các nền văn hóa lớn trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, cư dân Việt Nam đã sáng tạo nên một nền văn hóa bản địa hết sức phong phú, đa dạng, lấy sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước làm phương thức hoạt động cơ bản. Quyết định nền tảng kinh tế cơ bản <small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

của người Việt là nghề nông trồng lúa nước, các ngành nghề luyện kim, đúc đồng sớm hình thành, phát triển. Cùng với tính trội văn hóa sơng nước, tính chất thực vật (cốt lõi là cây lúa) in dấu đậm nét trong đời sống hàng ngày như ăn, mặc, ở, đi lại và cả trong đời sống tâm linh của con người Việt Nam.

Bên cạnh những ưu đãi, thiên nhiên đặt cho con người, dân tộc Việt Nam khơng ít những khó khăn, thử thách. Do sự phân hóa Bắc - Nam, lại theo hướng Đơng - Tây, và vừa theo độ cao địa hình nên khí hậu Việt Nam thuộc vào loại phức tạp, thất thường, nhiều hiện tượng thiên nhiên cực đoan như: lũ lụt, khô hạn, giông lốc, bão,…và cả động đất. Từ bao đời nay dân tộc Việt Nam phải đấu tranh với thiên nhiên, tiến hành chinh phục và cải tạo tự nhiên phát triển sản xuất và đời sống. Nhân dân ta đã làm nên kì tích trong đắp đê ngăn lũ, khẩn hoang khai phá đồng ruộng, quai đê lấn biển, lập làng, dựng xóm, tạo nên diện mạo nền văn minh nông nghiệp. Cuộc đấu tranh chống chọi hàng nghìn năm với những thử thách của thiên nhiên đã hun đúc nên tính cách kiên cường, tinh thần cố kết cộng đồng của người Việt, đồng thời cũng đòi hỏi nhân dân ta sớm phải tập hợp lại trong một quốc gia tập quyền thống nhất. Đặc điểm khí hậu đó cịn tạo nên tính thời vụ trong sản xuất và sự linh hoạt, nhạy bén trong sinh hoạt, ứng

<b>xử. Trong sản xuất chia thành nhiều mùa vụ trong năm. Trong sinh hoạt, ứng xử</b>

người Việt ln có thái độ tôn thờ các hiện tượng tự nhiên.

Từng nền văn hóa, xét cho cùng đều là hậu quả của việc từng cộng đồng để tồn tại, phải thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó. Có thể nói, tổ tiên ta đã kéo đồng bằng Bắc Bộ từ dưới biển lên. Người nông dân Việt Nam phải chống chọi với nắng mưa, bão tố - “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, mặt khác phải bám chặt vào đất, lấy đất, lấy nước làm đối tượng tác động chủ yếu (sống ngâm da, chết ngâm xương), để làm ra lúa, ngô, khoai, sắn nuôi sống con người. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên diện mạo một nền văn hoá, văn minh đặc sắc - văn minh nông nghiệp trồng lúa nước.

<b>2.1.2. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam</b>

Văn hoá là sản phẩm của con người, cho nên để tìm hiểu văn hố Việt Nam, bắt đầu từ việc tìm hiểu sự hình thành, phân bố và phát triển tộc người trên đất nước ta.

Sự hình thành, phân bố và phát triển của các tộc người trên đất nước Việt Nam là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, vốn là kết quả của sự phân hóa, đan xen và thiên di trong một thời gian dài.

Căn cứ vào những đặc điểm chung tính, không thay đổi trước những biến động của môi trường (nhóm máu, đường vân tay, hình thái răng,...) các nhà khoa

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

học đã chia nhân loại thành hai khối quần cư lớn: Phi - Âu và Úc - Á. Đó cũng chính là hai trung tâm hình thành chủng tộc cổ xưa nhất của loài người.

Trung tâm phía Tây ở Đơng - Bắc Phi và Tây - Nam Á, và Trung tâm phía Đơng ở Đơng Nam Á. Trung tâm phía Tây có hai đại chủng: Âu (Europeoid) và Phi (Negroid). Trung tâm phía Đơng cũng có hai đại chủng: Á (Mongoloid) và Úc, hay phương Nam (Australoid, tiếng Latinh, Austra = phương Nam). Hai trung tâm này xuất hiện khơng đồng thời, trung tâm phía Tây có trước. Khơng loại trừ khả năng là từ đó, lồi người ngun thủy đã tiến dần sang phía Đơng để rồi phát triển thành trung tâm thứ hai ở đây.

Như vậy, có thể nói rằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời trong phạm vi của trung tâm hình thành lồi người phía Đơng và trong khu vực hình thành của đại chủng phương Nam. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, Đơng Nam Á đã là một trong những cái nơi hình thành lồi người. Đây chính là địa bàn hình thành đầu tiên của đại chủng phương Nam.

Những kết quả khai quật ở hàng loạt địa điểm khác nhau như hang động Bình Gia (Lạng Sơn), núi Đọ (Thanh Hóa), vùng Hàng Gịn - Dầu Giây (Đồng Nai),... đã tìm thấy những răng hàm của người vượn cổ, những công cụ đá như mảnh tước, nạo thơ, rìu tay,... có niên đại vào khoảng 30 - 40 vạn năm (sơ kì đồ đá cũ), tức là chính vào khoảng thời gian hình thành trung tâm phía Đơng - cái nơi thứ hai của lồi người. Muộn hơn, khi người nguyên thủy phân hóa dần thành các chủng tộc, sống trên địa bàn Đông Dương là những người thuộc đại chủng phương Nam (các chủng Negrito, Melanésien). Vào khoảng gần 20.000 năm trước Công nguyên mực nước biển ở các đại dương đã hạ xuống tới mức thấp nhất (thấp hơn mực nước biển hiện nay khoảng 100 - 200m), bán đảo Đông Dương và vùng các quần đảo trở nên gần như nối liền nhau; ở vùng châu thổ sơng Cửu Long đã hình thành một “cầu lục địa”. Nhờ đó, những dịng người và động vật có điều kiện di chuyển từ đất liền ra các hải đảo, rồi đi tiếp tới vùng lục địa Úc châu và những nơi xa xôi khác.

Trên nền của những sự kiện trên, trong những giai đoạn tiếp theo, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể hình dung theo ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất, vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước). Theo những cứ liệu lịch sử, có một dịng người thuộc chủng Mongoloid từ vùng Tây Tạng thiên di về phía Đơng Nam, tới Đơng Dương thì dừng lại. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanésien bản địa (thuộc đại chủng Úc), dẫn đến kết quả là sự hình thành chủng Indonésien (cịn gọi là cổ Mã Lai) với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp. Từ đây lan tỏa ra, người Indonésien cư trú trên tồn bộ địa bàn Đơng Nam Á cổ đại. Đó là một <small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

vùng rộng lớn, phía Bắc tới sơng Dương Tử, phía Tây tới bang Assam của Ấn Độ, phía đơng tới vùng quần đảo Philippin và phía Nam tới các hải đảo Inđônêxia.

Giai đoạn thứ hai, từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng gần 5.000 năm về trước). Tại khu vực mà hiện nay là Nam Trung Hoa và Bắc Đơng Dương (từ phía Nam sơng Dương Tử đến lưu vực sông Hồng Hà), trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình Indonésien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía Bắc, đã hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (Austro - asiatique). Với chủng Nam - Á, các nét đặc trưng Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó được xếp vào ngành Mongoloid phương Nam.

Giai đoạn thứ ba, chủng Nam - Á được chia tách thành một loạt các chủng tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt. Tuy “Bách” chỉ là một cách nói biểu trưng, nhưng đó thực sự là một cộng đồng cư dân hùng hậu, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt.. sinh sống khắp khu vực phía Nam sông Dương Tử cho tới tận Bắc Trung Bộ ngày nay, họp thành những khối cư dân lớn (mà ban đầu mỗi khối có một tiếng nói riêng) như Mơn Khmer, Việt -Mường, Tày - Thái, Mông - Dao. Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các dân tộc cụ thể (cùng với sự chia tách ngôn ngữ), trong đó người Việt đã tách ra từ khối Việt - Mường chung vào khoảng cuối thời Bắc thuộc (từ thế kỷ VII đến thế kỷ VIII).

Trong khi đó, ở phía Nam dọc theo dải Trường Sơn, vẫn là địa bàn cư trú của người Indonésien. Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm của truyền thống văn hóa cổ gần gũi với cư dân

<b>các hải đảo. Đó là tổ tiên của người Chăm, Rag - lai, Ê - đê, Gia - rai, Chu - ru,...</b>

Ngôn ngữ của khối người mà Chăm có thể xem là đại diện này (gọi là Nam Đảo, Austronésien) cũng duy trì được nhiều nét tương đồng với ngôn ngữ của cư dân các hải đảo.

Như vậy, người Việt và tuyệt đại bộ phận các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc chung là loại hình Indonésien, chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất - một tính thống nhất trong sự đa dạng - của con người và văn hóa Việt Nam và rộng hơn là tồn vùng Đơng Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại ln có tính thống nhất bộ phận của người Việt - Mường và các dân tộc cùng gốc Nam Á - Bách Việt,... Sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa Việt Nam, cịn tính đa dạng của các tộc người làm nên những sắc thái riêng của từng vùng văn hóa, sự khác biệt này được thể hiện trong các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội,...

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b><small>2.2. ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM</small></b>

<b>2.2.1. Đặc điểm xã hội</b>

Với bất kỳ mọi nền văn hoá, sản xuất ra của cải vật chất là một trong những nhân tố quan trọng nhất định vị bản sắc văn hoá dân tộc. Văn hoá Việt Nam mang những đặc trưng điển hình của văn hố gốc nông nghiệp trồng lúa nước.

Cùng với Đông Nam Á, Việt Nam là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp cổ xưa nhất. Cây lúa nước xuất hiện ở nước ta vào giai đoạn

<b>cuối thời đại đồ đá mới, đầu thời đại đồng thau, cách ngày nay khoảng 5.000 </b>

-6.000 năm, đến thời kỳ các vua Hùng dựng nước, cây lúa nước đã chiếm giữ vai trò chủ đạo, đẩy các ngành săn bắn, hái lượm xuống hàng thứ yếu. Sang thời kỳ phong kiến các triều đại đều lấy nghề nông làm gốc, coi nông nghiệp là bản nghiệp. Nghề nông đã tác động sâu sắc đến mọi mặt của cuộc sống con người, từ công việc làm ăn thường ngày đến phong tục, lễ nghi, tập quán, đình đám, lễ hội,... Tất cả đều in đậm dấu ấn của của văn minh nông nghiệp lúa nước. Để tận dụng thời gian nhàn rỗi sau các mùa vụ, người nông dân làm thêm các nghề thủ công như đan lát, làm gốm sứ, đồ gỗ, đúc đồng,... Tuy nhiên, do vị trí chủ đạo của nghề nông trồng lúa nước chi phối quá mạnh nên các nghề thủ công và thương nghiệp phát triển chậm chạp, chưa trở thành ngành kinh tế độc lập mà luôn phụ thuộc vào nghề nông. Tâm lý “dĩ nông vi bản” của người nơng dân cùng với chính sách “trọng nông, ức thương” của các triểu đại phong kiến đã khơng kích thích được sự phát triển của nền kinh tế hàng hố, dẫn đến xu hướng xem nhẹ cơng thương, xem nhẹ nghề rừng, nghề biển, mặc cảm với dân chài. Cùng với đó, q trình đơ thị hố diễn ra chậm chạp, buôn bán kém phát triển, sản xuất hàng hoá ở mức giản đơn, việc trao đổi, mua bán chủ yếu thông qua hệ thống chợ quê giữa các làng, xóm, vùng, miền. Chợ cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hố, là hình ảnh của nền sản xuất và buôn bán nhỏ, tự cung, tự cấp, là thành tựu đặc sắc của nền văn hoá nông nghiệp Việt Nam.

Nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa, kết trái và thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định. Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nơng nghiệp có ý thức tơn trọng và ước vọng sống hịa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra là nói “nhờ trời”, “lạy trời”, như: “lạy trời mưa xuống, lấy nước tơi uống, lấy ruộng tơi cày”,…Các tín ngưỡng và lễ hội sùng bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đất nước. Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên “trông trời, trông đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trơng ngày, trơng đêm,…” cho nên về mặt <small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp - biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa các yếu tố. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”, “được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa”, “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”,… Người xưa đã tìm ra khơng chỉ những mối quan hệ giữa các hiện tượng tự nhiên, mà còn rất chú ý đến cả những mối quan hệ giữa chúng với các hiện tượng trong đời sống thường ngày và trong xã hội: “Thâm đơng thì mưa, thâm dưa thì khú”; “cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà ghẹ ổ”,...

Về mặt tổ chức cộng đồng, người Việt có lối sống cố định lâu dài nên tạo ra những mối quan hệ tình cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống trọng tình “một bồ cái lí khơng bằng một tí cái tình”. Nhưng cũng từ đây hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần của người nông nghiệp định cư coi trọng ngôi nhà của người Việt, coi trọng cái bếp, coi trọng phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Người Việt coi: “Nhất vợ nhì trời”, “lệnh ơng khơng bằng cồng bà”,… Phụ nữ Việt Nam là người có trách nhiệm quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình, dân gian gọi là “tay hịm chìa khố”. Phụ nữ Việt Nam được xem là người có vai trị quyết định trong việc giáo dục con cái: “Phúc đức tại mẫu”, “con dại cái mang”,… Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa: “Lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”,… Các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lý: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”,…

<b>Lối tư duy tổng hợp - biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của cư dân nông</b>

nghiệp cộng với lối sống trọng tình đã dẫn đến cách thức tổ chức cộng đồng theo lối linh hoạt, luôn thay đổi để thích hợp với từng hồn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lý sống của người Việt là: “Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài”, “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”,… Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “cửa sau” để giải quyết cơng việc (Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế). Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tơn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến đặc trưng quan trọng bậc nhất là tâm lý coi trọng cộng đồng, coi trọng tập thể. Người Việt Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, ln có tập thể đứng sau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo hiếu hồ trong đối phó: Ở Việt Nam khơng những khơng có chiến tranh tơn giáo mà mọi tơn giáo trên thế giới đều được tiếp nhận và có chỗ đứng. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hịa. Người Việt tiếp thu các yếu tố văn hóa bên ngồi trên nền tảng truyền thống văn hóa nơng nghiệp trồng lúa nước. Do vậy, các yếu tố văn hóa ngoại lai được tiếp biến, chọn lọc, khi trở thành một bộ phận trong nền văn hóa bản địa, đều mang đậm dấu ấn của nền văn hóa nơng nghiệp trồng lúa nước của cư dân Việt.

Khác với những nước có nền cơng thương nghiệp phát triển, cư dân sinh sống chủ yếu ở đô thị và các trung tâm kinh tế lớn, xã hội Việt Nam cổ truyền là xã hội của cư dân nông nghiệp, phần lớn dân số sinh sống ở nơng thơn, do đó làng, xã là tổ chức cơ bản của toàn xã hội. Trong xã hội đó, gia đình (và gia đình mở rộng - gia tộc), làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối đến toàn bộ xã hội Việt Nam. Làng, xã Việt Nam là đơn vị cộng cư của cư dân nơng nghiệp, là nơi sinh sống của nhiều gia đình trên cùng một vùng đất cụ thể, được bao quanh bởi lũy tre làng, có cùng phong tục, tập quán, lối sống, cùng chung nơi sinh hoạt văn hóa, một hình thức xã hội tiểu nơng tự cung, tự cấp, mặt khác lại là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nơng, với gia đình - tơng tộc gia trưởng, bảo đảm sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy.

Làng, xã Việt Nam được hình thành dựa trên hai nguyên lý cơ bản là cội nguồn và cùng một chỗ. Làng, xã hình thành trên cơ sở cội nguồn là những làng, xã lâu đời nhất, ra đời từ thời kỳ đầu của công xã thị tộc. Làng và gia tộc (họ) nhiều khi đồng nhất với nhau. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, những làng này không bị mất đi mà vẫn tồn tại cho đến đầu thế kỷ XX và thường mang tên Xá như Hoàng Xá (Xá là nơi ở, Hoàng Xá là làng của họ Hồng), Ngơ Xá, Dương Xá, Đỗ Xá, Trần Xá,... Trong làng, người Việt vẫn đến giờ vấn thích sống theo lối đại gia đình. Làng, xã được hình thành trên cơ sở nguyên lý cùng một chỗ có lịch sử muộn hơn, nó ra đời vào thời kỳ tan rã của chế độ công xã thị tộc chuyển sang chế độ công xã nông thôn, loại làng này khơng chỉ có một dịng họ mà có nhiều dịng họ khác nhau. Tổ chức nơng thơn theo địa bàn cư trú là ngọn nguồn của tinh thần đồn kết và tính dân chủ. Đó là loại hình dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc; trong lịch sử, nền dân chủ nơng nghiệp này có trước.

Làng, xã Việt Nam là một cấu trúc nhân văn tổng hợp bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với những mối quan hệ nhiều chiều, phức tạp. L àng, xã không chỉ là đơn vị sản xuất kinh tế mà còn là tế bào chính hình thành nên <small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

xã hội, là nơi sản sinh, bảo lưu và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; nơi sản sinh và ni dưỡng các danh nhân văn hố của đất nước. Làng, xã là hình ảnh thu nhỏ của quốc gia, là nơi chứa đựng các mối quan hệ cơ bản của xã hội, như: quan hệ huyết thống, quan hệ hàng xóm láng giềng, quan hệ theo đơn vị hành chính, theo nghề nghiệp, sở thích, theo phe giáp,...

Đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng, xã là tính cộng đồng và tính tự trị. Mục đích của tính cộng đồng là nhằm tạo sự đoàn kết, thống

<i>nhất, cộng đồng trách nhiệm, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống theo</i>

kiểu hàng xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”, mỗi người đều hướng tới những người khác, coi mọi người trong cộng đồng như anh, em trong nhà: “tay đứt ruột xót”, “lá lành đùm lá rách”. Mục đích của tính tự trị nhằm bảo vệ những phong tục, tập quán, lối sống riêng của từng

<i>làng, chống lại những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài theo kiểu “trống làng</i>

nào làng nấy đánh”, “thánh làng nào làng nấy thờ”, mỗi làng là một vương quốc khép kín với luật pháp riêng (các làng gọi là Hương ước). Sự khác biệt, tạo nên tinh thần tự lập, nếp sống tự cung, tự cấp. Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng làng, xã là cây đa, bến nước, sân đình; biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ, chúng chính là nguồn gốc sản sinh ra hàng loạt những ưu điểm và nhược điểm trong tính cách của người Việt

<b>Về tổ chức xã hội, quan hệ nhà - làng - nước gắn bó từ thời Nhà nước</b>

Hùng Vương ra đời với truyền thống cộng đồng bền chặt. Khác với Trung Hoa, với bản tính động, phải lấy gia đình làm gốc (Nho giáo rất coi trọng gia đình), khác với các nước phương Tây, chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Ở Việt Nam vai trị của gia tộc lớn hơn. Cá nhân ln hịa đồng vào tập thể, làng, xóm như một gia đình mở rộng, đất nước như một ngơi làng lớn, lợi ích của cá nhân có trong lợi ích của làng, xã, Tổ quốc, làm cho quan hệ nhà - làng - nước ln gắn bó bền chặt, tạo cơ sở cho sự cố kết dân tộc. Có làng mới có nước. Nước hình thành trên cơ sở làng. Mọi người đều gắn bó với làng, với nước. Khi quyền lợi của làng, xã và Nhà nước thống nhất với nhau, thì ý thức cộng đồng làng sẽ dẫn đến ý thức dân tộc. Sự thống nhất giữa nhà - làng - nước, tạo nên sức mạnh to lớn, đưa đất nước Việt Nam vượt qua biết bao biến cố, thăng trầm của thời đại.

<b>2.2.2. Đặc điểm lịch sử</b>

<i><b>a) Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử xun suốt tiếntrình văn hóa Việt Nam</b></i>

Vừa lao động sản xuất, xây dựng đất nước, mở mang nền văn minh nông nghiệp vừa đấu tranh chống giặc ngoại xâm giữ gìn bờ cõi, nhân dân ta đã làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

nên một nền văn hoá dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Do có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quân sự ở khu vực Đơng Nam Á, trong suốt q trình xây dựng và phát triển của dân tộc, Việt Nam thường xuyên bị kẻ thù nhịm ngó và xâm lược. Việt Nam lại ở kề bên một đất nước ln có âm mưu bành trướng bá quyền ra các khu vực và đặc biệt xuống Đơng Nam Á, do đó, đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta diễn ra thường xuyên và liên tục qua nhiều thế kỷ. Dựng nước và giữ nước là quy luật sinh tồn và phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Từ thời Hùng Vương dựng nước, cùng với quá trình chinh phục thiên nhiên, đắp đê lấn biển, khai phá đồng bằng, dựng làng, lập ấp, phát triển kinh

<b>tế nông nghiệp trồng lúa nước tạo nên nền văn minh sông Hồng, xây dựng đấtnước, ông cha ta liên tiếp phải đấu tranh chống lại sự xâm lược, thống trị và</b>

đồng hoá của các thế lực ngoại bang để bảo vệ chủ quyền đất nước và truyền thống văn hóa dân tộc. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta còn ghi nhận các sự tích chống giặc Ân, giặc Man, giặc Hồ Tơn, Tần. Qua các di chỉ khảo cổ ở Gị Mun, Đơng Sơn, số vũ khí chiếm 50% di vật tìm được.

Trong thời kỳ Bắc thuộc (179 trước Cơng ngun - 938), nhân dân các dân tộc Việt Nam liên tục đứng lên đấu tranh chống sự xâm lược, thống trị, đồng hóa và giành độc lập dân tộc, vừa tiếp thu có chọn lọc phương thức canh tác cây lúa nước, phát triển giống cây trồng nhằm đa canh và mở rộng hai vụ lúa. Các ngành nghề thủ công nghiệp cũng được bảo tồn và phát triển. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền đã mở ra kỷ nguyên xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, phục hưng văn hóa dân tộc, kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam.

Trong công cuộc xây dựng đất nước, các triều Lý, Trần, Lê đã tổ chức nhân dân đắp đê trị thủy, làm thủy lợi trên tất cả các sông lớn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hệ thống đê sông, đê biển đồ sộ với chiều dài hàng nghìn kilơmét đã được xây dựng tạo nên những cơng trình có giá trị văn hóa, chứng minh cho sức mạnh đồn kết của dân tộc Việt Nam. Công cuộc khai hoang trên quy mô lớn làm chủ vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sơng Cả, sơng Chu, lập nên hàng nghìn làng xóm mới; phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, chấn hưng đất nước, tạo nên bộ mặt mới của nền văn minh nông nghiệp, văn minh Đại Việt. Cùng với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, dân tộc ta lập nên bao chiến công hiển hách trong các cuộc chiến tranh chống sự xâm lược của quân Tống, Mông - Nguyên, Minh giữ vững nền độc lập của dân tộc.

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cùng với quá trình khai phá vùng Thuận Quảng và tiến vào khai phá đồng bằng sông Cửu Long, quan hệ buôn bán giữa nước ta với nước ngoài ngày càng mở rộng. Nhiều thương thuyền của Trung Hoa, Nhật Bản hàng năm theo các đợt gió mùa đến buôn bán trên các thương cảng của Đại Việt, nhất là Thăng Long, Phố Hiến (Đàng ngoài), Hội An (Đàng trong). Một hiện tượng mới trong lịch sử thông thương quốc tế là từ thế kỷ XVI, nước ta buôn bán với một sống nước phương Tây như Bồ Đào Nha (thế kỷ XVI), Hà Lan, Anh, Pháp (thế kỷ XVIII), là những nước đang trên đà phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự tiếp xúc đó là kết quả của sự phát triển và bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây sang các nước phương Đơng, đồng thời mang lại sự giao lưu văn hóa giữa Đông - Tây, giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Việt Nam thu hút sự chú ý của thương nhân và các giáo sĩ phương Tây. Các nước phương Tây thực hiện giao lưu buôn bán với các nước Đông Nam Á và Việt Nam, gắn với nó là q trình truyền đạo và do thám tình hình đất nước ta phục vụ cho âm mưu xâm lược của các nước tư bản phương Tây đối với khu vực Đông Nam Á và Việt Nam. Với chiêu bài “khai hóa văn minh”, các nước tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm lược các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, biến các nước thành thuộc địa và phụ thuộc vào chủ nghĩa thực dân. Trong bối cảnh đó, từ năm 1858 đến 1975 Việt Nam lần lượt bị thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ xâm lược. Song với lòng yêu nước và ý chí quật cường dân tộc, nhân dân ta liên tục đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ.

Đất nước Việt Nam ở giữa vịng xốy của giơng bão tự nhiên và giông bão lịch sử. Con người Việt Nam, thế hệ nối tiếp thế hệ phải liên tục chống lại hai thế lực (hai kẻ thù) chủ yếu là sự tàn phá khủng khiếp của thiên nhiên và sự dã man, tàn bạo của quân xâm lược. Cuộc đấu tranh vô cùng cam go, quyết liệt và kéo dài đã tôi luyện nên những con người Việt Nam kiên cường bất khuất, bền bỉ, dẻo dai: thắng lợi không chủ quan, thất bại khơng nản chí. Hiện nay, trong cơng cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn dân, tồn qn ta tiếp tục kết hợp hài hịa, sáng tạo hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã và đang kế thừa xuất sắc truyền thống kết hợp dựng nước với giữ nước của cha ơng.

<i><b>b) Văn hóa Việt Nam ln có sự giao lưu, tiếp biến với các nền vănhóa trong khu vực và thế giới</b></i>

Giao lưu, tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người hay cộng đồng, dân tộc có văn hóa khác nhau giao lưu, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm, đó là q trình dung hợp và

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

tích hợp văn hóa ở các cộng đồng, ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố nội sinh với yếu tố ngoại sinh, tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn.

Như vậy giao lưu, tiếp biến văn hoá là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó với tiến hố xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hố, là sự vận động thường xun của văn hố.

Với vị trí địa chính trị, Việt Nam nằm trên đường giao lưu từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Xét về địa văn hóa, Việt Nam nằm trong khu vực tiếp xúc của hai nền văn hóa, văn minh cổ xưa nhất và cũng là lớn nhất của châu Á đó là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nằm ở giao điểm của các luồng văn hóa, trong quá trình phát triển lịch sử - xã hội, văn hóa Việt Nam ln ln có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa rộng rãi trong khu vực Đơng Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Trong quá trình giao lưu văn hóa có cả sự chủ động tiếp nhận, vay mượn, khai hóa, đồng hóa văn hóa. Tuy nhiên, nét chủ đạo trong quá trình giao lưu văn hóa Việt Nam là tiếp nhận một cách chủ động và sáng tạo thành tựu văn hóa nước ngồi, đồng thời đồng hóa những thành tựu văn hóa ấy cho phù hợp với mơi trường, truyền thống văn hóa, khẳng định tính độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam.

<i>Giao lưu, tiếp biến với văn hóa Đơng Nam Á</i>

Nền tảng tạo ra những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam là từ cơ tầng văn hóa Đơng Nam Á. Khái niệm vùng Đông Nam Á trong thuật ngữ này rộng hơn nhiều so với vùng Đông Nam Á hiện nay. Vùng Đơng Nam Á thời tiền sử có ranh giới phía Bắc tới sơng Dương Tử (Trung Quốc), phía Nam đến tận đảo Nam dương (Inđơnêxia), phía Tây đến tận biên giới bang Assam của Ấn Độ, phía Đơng là cả một thế giới bán đảo và đảo nằm cạnh châu Đại Dương. Dựa vào cứ liệu của ngành nhân loại học, dân tộc học, ngôn ngữ học và ngành khoa học nhân văn đã xác định được vùng Đông Nam Á có cơ tầng văn hóa riêng biệt, phi Hoa, phi Ấn. Những cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo ra nền văn hóa của mình, “nền văn hóa đó có cội nguồn và bản sắc riêng, đã phát triển liên tục trong lịch sử. Đó là phức thể văn hóa lúa nước với ba yếu tố: Văn hóa núi, văn hóa biển, văn hóa đồng bằng, trong đó yếu tố đồng bằng ra đời sau nhưng đóng vai trị chủ đạo”<small>1</small>. Cơ tầng văn hố chung ấy được tạo ra từ nhiều yếu tố. Trước hết, cư dân cổ vùng Đông Nam Á đã chuyển từ trồng củ sang trồng lúa nước từ khoảng thế kỷ VI, IV trước công nguyên. Tuỳ theo địa bàn định cư mà người ta trồng lúa nước hay lúa cạn. Thuần hố trâu bị dùng làm sức kéo. Kim khí, chủ yếu là đồng và sắt đã được dùng và chế tạo ra công

<small>1</small><i><small> Phạm Đức Dương, Tiếp xúc, giao lưu và phát triển văn hóa: quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và thế giới, Tạp </small></i>

<small>chí nghiên cứu Đơng Nam Á, số 4 - 1994, tr 3,4.</small>

<small>37</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

cụ, vũ khí, dụng cụ nghi lễ. Người phụ nữ có vai trị quyết định trong mọi hoạt động của gia đình, huyết tộc mẫu hệ, tổ chức xã hội theo nhu cầu tưới nước ruộng. Đời sống tinh thần của cư dân vẫn ở dạng bái vật giáo với việc thờ các thần: thần đất, thần nước, thần lúa. Ngồi ra cịn thờ mặt trời, thờ cây, thờ đá,...Tổ tiên được thờ phụng. Đáng lưu ý là quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp về thế giới của cư dân thời kỳ này; đồng thời là việc sử dụng các ngôn ngữ đơn âm với năng lực dồi dào về phát triển từ.

Những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam mang những đặc điểm chung của cơ tầng văn hóa Đơng Nam Á, được tạo ra từ những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, lịch sử văn hóa của Đơng Nam Á với mẫu số chung là nông nghiệp lúa nước. Việt Nam nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á là một Đông Nam Á thu nhỏ. Cũng như các nước Đông Nam Á khác, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, ở đây, người Việt đóng vai trị chủ thể. Đó là một cộng đồng tộc người làm ruộng nước được hình thành trong quá trình khai phá vùng châu thổ sông Hồng. Người phụ nữ chiếm giữ vị trí quan trong trong đời sống của dân tộc; hình thức tín ngưỡng phong phú, đa dạng, trong đó nổi bật là tín ngưỡng tơn thờ các hiện tượng tự nhiên có sự chi phối, tác động sâu sắc đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Cũng chính điều này là cơ sở tạo nên sự khác biệt rất cơ bản giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá Trung Hoa.

<i>Giao lưu, tiếp biến với văn hóa Trung Hoa</i>

Q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa Trung Hoa chủ yếu được hình thành qua hai giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc và văn hóa Đại Việt. Đặc trưng của q trình giao lưu văn hóa này là sự song tồn của hai xu hướng trái ngược nhau: xu hướng Hán hóa và xu hướng chống Hán hóa, đồng thời, Việt hóa các ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Cuộc tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa diễn ra bằng các biện pháp cưỡng bức thơng qua chính sách đơ hộ hà khắc của các đế chế phong kiến Trung Hoa, trong thời kỳ Bắc thuộc, và cả sự chủ động giao lưu, tiếp nhận trong thời kỳ xây dựng và phát triển của quốc gia phong kiến Việt Nam độc lập tự chủ.

Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc quá trình giao lưu tiếp biến ấy diễn ra trọng trạng thái cưỡng bức, người Hán áp đặt văn hóa của mình đối với người Việt. Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, di thực mơ hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt Nam với mục đích thiết lập trên nước ta một thể chế chính trị, một phương thức canh tác và một phong tục tập quán giống như Trung Hoa. Đồng hố dân tộc Việt về nịi giống. Ở lĩnh vực tư tưởng là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo ở phương Đông, là sự du nhập đạo Nho, đạo Lão - Trang vào Việt Nam. Tuy nhiên người Việt Nam khơng bị đồng hóa như bao dân tộc khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

trong khối Bách Việt cư trú ở miền Nam Trung Quốc hiện nay. Trái lại, trong hơn 10 thế kỷ đó diễn ra q trình đan xen, hỗn dung văn hóa hai chiều Bắc - Nam và Nam - Bắc, giữa văn hóa Đơng Sơn của người Việt với văn hóa Hán của các đế chế Trung Hoa. Nhờ sức sống mãnh liệt của mình, dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn nghìn năm Bắc thuộc, đã tiếp thu tinh hoa của văn hóa Hán (kỹ thuật rèn đúc sắt và gang, kinh nghiệm chất đá làm đê ngăn sóng biển, kỹ thuật canh tác lúa, kỹ thuật làm giấy,...) làm giàu cho nền văn hóa của dân tộc mình, giành độc lập dân tộc, đưa nền văn hóa lên tầm cao mới, mở ra thời kỳ văn hóa, văn minh Đại Việt.

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Việt Nam chủ động giao lưu văn hóa với Trung Hoa trên cơ tầng văn hố Đơng Nam Á. Q trình giao lưu đó đã tạo ra những yếu tối nội sinh mới cho sự phát triển của văn hóa dân tộc. Những yếu tố tích cực, tiến bộ của văn hóa Hán trong tư tưởng Nho giáo, Hán tự đã được người Việt tiếp thu và Việt hóa cho phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, đồng thời vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc trong q trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với Trung Hoa. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình giao lưu này.

<i>Giao lưu, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ </i>

Văn hóa Ấn Độ thẩm thấu vào văn hóa Việt Nam từ rất sớm từ những năm đầu công nguyên, qua sự giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa thơng qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà sư. Bằng nhiều hình thức, văn hóa Ấn Độ có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam - nhất là Phật giáo. Trên cơ tầng văn hóa bản địa, ở văn hóa Đơng Sơn, người Việt chỉ chọn những yếu tố văn hóa Ấn Độ phù hợp để hòa nhập chúng vào kho tàng dân gian truyền thống của dân tộc mình. Qua Phật giáo, nghệ thuật và văn học Ấn Độ (chủ yếu là nghệ thuật, văn học Phật giáo) để lại những dấu ấn sân sắc trong nghệ thuật và văn học Việt Nam. Tư tưởng từ bi, bác ái, cứu độ chúng sinh, bình đẳng của Đức Phật đã ảnh hưởng khơng nhỏ, góp phần tạo nên tâm lý, tình cảm bao dung, độ lượng, yêu thương đồng loại và cởi mở của con người Việt Nam. Ngược lại, truyền thống văn hóa Việt Nam đã làm thay đổi ít nhiều đặc trưng nguyên thủy của đạo Phật thành Phật giáo của Việt Nam, mang đậm sắc thái dân gian nghiêng về nhập thế hơn là yếm thế. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nhất là Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập ra cả một hệ tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Chính hệ tư tưởng này đã trở thành một trong những sức mạnh chính của người Việt Nam trong suốt hàng nghìn năm chống chính sách đồng hóa của phong kiến phương Bắc và có một vị trí khơng nhỏ trong q trình hình thành bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến nền văn hóa Việt ở Bắc Bộ, Chămpa ở Trung Bộ và cư dân Nam Bộ ở những mức độ khác nhau, bằng giao thoa tự nguyện.

<small>39</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<i>Giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây</i>

Trong q trình giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây cũng diễn ra hai xu hướng: Một bên là xu hướng Âu hóa, bên kia là xu hướng chống Âu hóa và Việt hóa các ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Q trình đó đã làm cho văn hố Việt Nam biến đổi về mọi phương diện, lối tư duy phân tích của phương Tây bổ sung khá nhuần nhuyễn cho lối tư duy tổng hợp truyền thống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước; ý thức về vai trò cá nhân được nâng cao bổ sung cho ý thức cộng đồng truyền thống; đơ thị ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, quá trình đơ thị hóa diễn ra ngày một nhanh hơn. Chữ Quốc ngữ ra đời là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa với phương Tây. Tất cả những yếu tố đó đã tạo cho lịch sử văn hóa Việt Nam có bước phát triển. Đặc biệt, từ những năm đầu thế kỷ XX chủ nghĩa Mác - Lênin xâm nhập vào Việt Nam đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến nên văn hóa dân tộc, làm cho văn hóa Việt Nam phát triển theo hướng mới - kết hợp truyền thống với hiện đại, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, trong xu thế tồn cầu hóa, sự phát triển bùng nổ của cơng nghệ thông tin, truyền thông đã tạo nên sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa các quốc gia dân tộc. Đây là cơ hội để Việt Nam mở rộng giao lưu và hợp tác văn hóa với các nước và các dân tộc trên thế giới, giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam với cộng đồng nhân loại, với các dân tộc và các nước trên thế giới; làm cho thế giới biết đến một nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, sáng ngời tiêu chí “chân, thiện, mỹ, nhân, trí, dũng”. Từ đó xây dựng và bồi đắp tình cảm tin yêu và hợp tác của cộng đồng nhân loại với dân tộc Việt Nam. Tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái đẹp, tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu thêm đời sống tinh thần của nhân dân và bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, giao lưu văn hóa hiện nay cũng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cấp thiết hơn. Trong q trình xây dựng nền văn hóa chúng ta phải ln cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn các trào lưu tư tưởng độc hại, lối sống lai căng mất gốc không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

<b>VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</b>

1. Tác động của điều kiện tự nhiên đến sự hình thành, phát triển của văn hóa Việt Nam.

2. Đặc điểm xã hội, lịch sử chi phối sự hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam.

3. Quy luật giao lưu và tiếp biến văn hóa trong tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b>Chương 3</b>

<b><small>NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂNCỦA VĂN HÓA VIỆT NAM</small></b>

<b><small>3.1. VĂN HĨA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ, SƠ SỬ</small></b>

<b>3.1.1. Văn hố Việt Nam thời tiền sử</b>

Văn hóa Việt Nam thời tiền sử được tính từ khi con người xuất hiện trên đất nước Việt Nam, dấu tích ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), Quảng Yên (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai), Lộc Ninh (Bình Phước),… có niên đại cách ngày ngay khoảng 30 - 40 vạn năm, tương ứng với thời đại đồ đá. Trải qua các giai đoạn phát triển, dấu tích của người hiện đại được tìm thấy rải rác ở Hang Hùm (Yên Bái), Kéo Lèng (Lạng Sơn), Ngườm (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ), Biển Hồ (Pleiku), Lung Leng (Kon Tum),… Các nền văn hóa từ thời kỳ đá cũ (Sơn Vi), đến thời kỳ đá mới (Hịa Bình, Bắc Sơn) đã cho thấy khơng gian văn hóa ngày càng rộng lớn. Cuộc cách mạng đá mới với bước phát triển về kỹ thuật chế tác công cụ đã làm chuyển biến sâu sắc cuộc sống của con <small>41</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

người. Văn hóa thời kì tiền sử trên đất nước Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn phát triển như sau:

Sơ kỳ thời đại đá cũ, đại diện là văn hóa Núi Đọ (Thanh Hố), bắt đầu hàng chục vạn năm, kéo dài cho đến một vạn năm cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè (mảnh tước) có bàn tay gia cơng của người ngun thủy và nhiều rìu tay... nhưng cịn thơ sơ, đơn giản. Khảo cổ học đã chứng minh người nguyên thủy đã dùng đá bazan ngay tại Núi Đọ để chế tác công cụ tại chỗ.

Hậu kỳ thời đại đá cũ, đại diện tiêu biểu là văn hóa Sơn Vi (Phú Thọ), tồn tại từ 18.000 đến 11.000 năm cách ngày nay. Con người đã cư trú trên địa bàn rộng lớn, sống trên các đồi gò vùng Trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và cả trong các hang động, mái đá. Đây là các bộ lạc hái lượm và săn bắt (bắn), công cụ đồ đá thơ sơ nhưng đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác (ghè đẽo hai cạnh), có nhiều loại hình. Tổ chức xã hội chuyển từ bầy người sang công xã thị tộc. Người nguyên thủy đã biết dùng lửa, chôn người chết trong nơi cư trú.

Thời đại đá mới bắt đầu từ nền văn hóa Hồ Bình. Giai đoạn văn hóa này kéo dài khoảng từ 10.000 đến 5.000 năm cách ngày nay. Hoạt động khai thác chủ yếu là hái lượm và săn bắt (bắn). Con người đã nhận biết và sử dụng đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ,… Kỹ thuật chế tác đá được hoàn thiện, biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, cư trú trong các hang động núi đá vơi,... Dấu tích của vỏ chấu cháy, bào tử phấn hoa, hình hạt thóc được in trên đồ gốm,... trong văn hóa Hịa Bình là minh chứng cho sự ra đời của nền nông nghiệp sơ khai.

Đến nền văn hóa Bắc Sơn (Lạng Sơn) giai đoạn trung kỳ và hậu kỳ thời đại đá mới, cư dân đã chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi, trước núi và ven biển. Ở vùng sinh thái ven biển, nghề đánh cá phát triển mạnh. Nền văn hóa đặc trưng cho thời kỳ này là văn hóa Đa Bút (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long (Quảng Ninh), Bàu Tró (Quảng Bình),… với những làng định cư lâu dài, ổn định và xuất hiện quan hệ láng giềng.

Cư dân thời đá mới có tri thức phong phú về tự nhiên, những hang động và những nơi cư trú đều là những địa điểm cho sinh hoạt và sản xuất.<small> Những dấu</small> vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội (Hịa Bình). Tư duy về thời gian, vũ trụ được thể hiện bằng những hoa văn, kí hiệu biểu thị mặt trời như hình trịn, hình chữ vẽ trên đồ gốm. Tín ngưỡng sơ khai xuất hiện, mặt trời đã trở thành một trong những thần linh quan trọng đối với con người.

Đến cuối thời đá mới, phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ đã tiến sang giai đoạn nơng nghiệp trồng lúa. Đó là một bước tiến quan trọng chuyển từ kinh tế

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×