Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Tài liệu tham khảo: Quản trị rủi ro tài chính - Hồ Công Hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 177 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<small>TS. Hồ Công Hưởng, TS. Nguyễn Thế Bính (chủ biên) </small>

QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH

Tài liệu tham khảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Quản trị rủi ro tài chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1.3.3. Tác động của rủi ro tài chính đến doanh nghiệp 201.3.4. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tài chính 22

1.4.4. Hình thành các chiến lược giảm thiểu rủi ro 31

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.3.7 Hệ số bất đối xứng (skewness) 60

2.4 Một số phân bố xác suất sử dụng trong quản trị rủi ro 63

2.4.2 Phân phối chuẩn tắc (Standard normal distribution) 64

3.4.2. Phương pháp phân tích hoặc phương sai - hiệp phương sai 793.4.3. Dự đoán VaR theo phương pháp mơ phỏng lịch sử 833.4.4. Dự đốn VaR theo phương pháp mô phỏng Monte Carlo 86

4.3.3. Các biến chi phối (drivers) rủi ro tín dụng 1034.3. Đo lường, đánh giá và định giá rủi ro tín dụng 104

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

4.3.4. Các mơ hình đo lường rủi ro tín dụng 1094.3.5. Mơ hình dựa trên các hệ thống của chuyên gia 1124.3.6. Hệ thống chấm điểm tín dụng dựa trên kế tốn 113

4.4.1. Giảm rủi ro tín dụng bằng cách hạn chế các phơi nhiễm rủi ro 1224.4.2. Giảm rủi ro tín dụng thơng qua đánh giá lại theo giá thị trường 1224.4.3. Sử dụng tài sản đảm bảo để giảm thiểu rủi ro tín dụng 123

4.4.5. Giảm rủi ro tín dụng bằng các tiêu chuẩn tín dụng tối thiểu và các công ty kinh

4.4.6 Chuyển rủi ro tín dụng bằng các cơng cụ phái sinh tín dụng 125

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Lời nói đầu </b>

Quản trị rủi ro tài chính là một mơn học đã được đưa vào chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành tài chính tại Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua. Để giúp sinh viên có thêm nguồn tư liệu tham khảo, bộ mơn Đầu tư tài chính tổ chức biên soạn Tài liệu tham khảo cho môn học này.

Trên thị trường, sách viết về chủ đề quản trị rủi ro tài chính bằng tiếng Việt khơng

<i>nhiều. Phổ biến nhất là cuốn sách “Các sản phẩm phái sinh và quản trị rủi ro tài chính”, </i>

bản dịch tiếng Việt của cuốn sách cùng tên của Nhà xuất bản Cengage ấn hành do Lê Đạt Chí và cộng sự dịch. Các tài liệu biên soạn khác về chủ đề quản trị rủi ro tài chính bằng tiếng Việt cũng có cách tiếp cận tương tự: quản trị rủi ro bằng các sản phẩm phái sinh.

Tài liệu tham khảo về Quản trị rủi ro tài chính này có cách tiếp cận hồn tồn khác vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, các sản phẩm phái sinh là công cụ quan trọng để quản trị rủi ro tài chính nhưng phái sinh khơng phải là cơng cụ duy nhất.

Thứ hai, trên thị trường tài chính Việt Nam, chỉ mới có 1 sản phẩm phái sinh duy nhất trong số hàng trăm sản phẩm phái sinh đã tồn tại trên thị trường các nước. Do nhiều nguyên nhân, tình trạng này sẽ tiếp tục kéo dài trong nhiều năm nữa.

Vì những lý do nói trên, nếu tiếp cận quản trị rủi ro tài chính chỉ bằng cơng cụ phái sinh e rằng đó khơng phải là cách tiếp cận phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Với phương châm lấy người học, nhà tuyển dụng chuyên viên thực hiện quản trị rủi ro tài chính làm trung tâm, câu hỏi chính đặt ra cho nhóm biên soạn Tài liệu tham khảo môn

<i>học “Quản trị rủi ro tài chính” là: Để quản trị tốt rủi ro tài chính, các chuyên viên thực hiện quản trị rủi ro tài chính cần được trang bị những kiến thức và kỹ năng gì? Chương trình đào tạo phải được thiết kế như thế nào để có thể hỗ trợ tốt nhất những gì ngành tài chính và các nhà quản lý rủi ro trong tương lai cần trong thế giới thực?. </i>

Từ góc độ thực tiễn, ở cấp độ cơ bản (cấp độ I), để làm tốt nhiệm vụ quản trị rủi ro tài chính, một mặt, ngồi các kiến thức cơ bản về lý thuyết tài chính, thị trường tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

chính và các sản phẩm tài chính, các chuyên viên quản trị rủi ro phải được trang bị kiến thức cơ bản để nhận diện, đo lường các loại rủi ro, quy trình và kỹ thuật quản trị rủi ro. Mặt khác, với yêu cầu của các kỹ thuật đo lường quản trị rủi ro tài chính hiện đại, người học cũng phải thủ đắc các kiến thức về giải tích (đạo hàm, tích phân), đại số tuyến tính, xác xuất, thống kê và cả kinh tế lượng.

Ở cấp độ ứng dụng (cấp độ II), người học phải biết vận dụng các kiến thức cơ bản để quản trị từng loại rủi ro mà các doanh nghiệp phải đối mặt trong một môi trường kinh doanh quốc nội và quốc tế đang thay đổi nhanh chóng như rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động (operational risk). Thực tế, đây cũng là các nội dung đào tạo

<b>và sát hạch để lấy chứng chỉ PRM của Hiệp hội quốc tế các giám đốc quản trị rủi ro chuyên nghiệp (PRMIA) hoặc chứng chỉ FRM của Hiệp hội toàn cầu các nhà quản trị rủi ro chuyên nghiệp (GARP), một tiêu chuẩn ngành toàn cầu, hiện đang được chấp </b>

nhận bởi các tập đoàn và ngân hàng hàng đầu, tại hơn 190 quốc gia trên thế giới. Cần lưu ý rằng, trước khi FRM (và cả PRM) được giới thiệu, quản lý rủi ro vẫn chưa hoàn toàn trở thành một nghề và chủ yếu tồn tại dưới bóng của các tổ chức tài chính. Tầm quan trọng của FRM chỉ thực sự được xác lập sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2007 - 2008. Có hai lý do khiến FRM được mở rộng trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu. Đầu tiên là nhân viên muốn chứng minh một cách khách quan với người sử dụng lao động rằng họ có các kỹ năng quản lý rủi ro quan trọng cần thiết, những kỹ năng mà giúp họ có lợi thế hơn so với các đồng nghiệp không đủ tiêu chuẩn.

Thứ hai là chương trình giảng dạy của FRM được xây dựng dựa trên các bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu khiến người học nhận thức được rằng họ cần hiểu những điều này để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực quản lý rủi ro. Chính cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đã thực sự làm nổi bật giá trị của các nhà quản lý rủi ro trong các tổ chức, biến việc xác định, đánh giá và quản lý rủi ro mà các tổ chức tài chính phải đối mặt thành một nghề nghiệp, thành một phòng ban độc lập chứ khơng chỉ là một phần của nhóm tín dụng hay một phịng kế tốn trong tổ chức. Cụ thể, sự thăng chức các nhà quản lý rủi ro cấp cao lên CRO (Giám đốc rủi ro), một trong các vị trí lãnh đạo cao cấp của cơng ty (C-suite), tức là các CEO (Giám đốc điều hành), CFO

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

(Giám đốc tài chính), COO (Giám đốc vận hành), CIO (Giám đốc công nghệ thông tin),… sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu.

Được xây dựng dựa trên nhu cầu thực tiễn và chuẩn nghề nghiệp PRM, FRM, có điều chỉnh để tránh trùng lắp trong nội dung của một số môn học, tài liệu tham khảo này gồm có 5 Chương; Chương 1 và Chương 2 tương ứng với cấp độ I (Level I), các Chương 3, 4, 5 tương ứng với cấp độ 2 (Level II) của chứng chỉ FRM. Cụ thể:

Chương 1, nền tảng của quản trị rủi ro, sinh viên sẽ được hệ thống hóa các kiến thức cơ bản về các loại rủi ro, phân loại rủi ro tài chính và phi tài chính, lý do tại sao phải quản trị rủi ro tài chính, ngun tắc và quy trình quản trị rủi ro tài chính.

Chương 2 của tài liệu đề cập đến các nền tảng cơ bản của phân tích định lượng. Miller (2014, ix) cho rằng: “Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế rộng lớn hơn làm nổi bật tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro tài chính thế giới ngày nay. Đồng thời, các sản phẩm tài chính và chiến lược đầu tư ngày càng trở nên phức tạp hơn. Hiểu biết kỹ lưỡng về toán học và thống kê của nhân viên quản lý rủi ro là quan trọng hơn bao giờ hết".

Thực vậy, trong quản trị rủi ro tài chính hiện đại, các kỹ thuật phân tích định lượng, đo lường và đánh giá rủi ro thường dựa trên các cơng cụ của tốn học như xác suất, thống kê, kinh tế lượng và cả các kiến thức về đại số như đạo hàm, tích phân. Rõ ràng, nếu bạn khơng thể giải thích một cách rõ ràng các công thức, cách thức vận hành các loại thuật tốn, nếu bạn khơng thành thạo trong việc xây dựng và diễn giải các mơ hình, bạn sẽ khơng thực sự sử dụng chúng được. Vì vậy, việc ơn lại và hệ thống hóa một số kiến thức mang tính ứng dụng vào lĩnh vực quản trị rủi ro của các mơn học này đặc biệt hữu ích.

Trên cơ sở các nền tảng được trang bị ở Chương 1 và Chương 2, phần còn lại của tài liệu sẽ tập trung nghiên cứu các kỹ thuật quản trị một số rủi ro mà nhiều doanh nghiệp phải đối mặt trong môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Trước khi bàn đến từng kỹ thuật quản trị rủi ro cụ thể, các kỹ thuật nhận diện, đo lường, đánh giá rủi ro đề được trình bày chi tiết trong từng lĩnh vực.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Chương 3 bàn về kỹ thuật quản trị rủi ro thị trường. Thay vì giới thiệu các kỹ thuật quản trị rủi ro truyền thống, chương này sẽ tập trung trình bày ba phương pháp đánh giá rủi ro thị trường bằng thước đo giá trị rủi ro (VaR), một thước đo hiện đại mới nổi lên trong những năm gần đây.

Chương 4 bàn về kỹ thuật quản trị rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là một trong những dạng rủi ro tài chính khó phân tích và khó định lượng nhất. Một mặt, một chun viên phân tích tín dụng có thể dễ dàng đo lường khả năng trả nợ của một con nợ nhưng khơng thể “đo lường” thiện chí trả nợ, mức độ sẵn sàng trả nợ của một đối tác. Mặt khác, cách tiếp cận truyền thống đối với nghiên cứu rủi ro tín dụng là áp dụng các phương pháp đánh giá rủi ro dựa trên dữ liệu lịch sử. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của các hoạt động phái sinh trên thị trường tài chính, đặc biệt trên thị trường OTC, các phái sinh tín dụng và sự phức tạp cao của một số cơng cụ tài chính đã làm bộc lộ sự bất cập của các phương pháp truyền thống trong việc ước tính chính xác giá trị rủi ro tín dụng trong thực tế. Vì vậy, bên cạnh các kỹ thuật phân tích định lượng rủi ro tín dụng (đo lường), một số kỹ thuật phân tích định tính (đánh giá) sẽ được trình bày chi tiết trong Chương này.

Chương 5 đề cập đến các kỹ thuật quản trị rủi ro hoạt động, rủi ro do các yếu tố bên trong doanh nghiệp (con người, quy trình, hệ thống) và yếu tố bên ngồi (mơi trường kinh doanh quốc nội, quốc tế, thiên tai,…). Có bốn lý do giải thích tại sao rủi ro hoạt động hiện đang giữ một vị trí quan trọng trong các chương trình đào tạo quản trị rủi ro tài chính quốc tế.

<i>Thứ nhất, rủi ro hoạt động được định nghĩa là rủi ro thua lỗ do sự không đầy đủ </i>

hoặc khơng hiệu quả của các quy trình, do nguồn nhân lực, do hệ thống nội bộ hoặc do các sự kiện bên ngoài. Carlone (2021, 2) khẳng định rằng: “Trên thực tế, về bản chất, rủi ro này không phải là rủi ro đặc trưng của các trung gian tài chính. Rủi ro hoạt động chỉ trở thành đặc trưng của các trung gian tài chính khi Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng tuyên bố rằng sự không hiệu quả, trục trặc ở một trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của ngân hàng có thể gây rủi ro cho sự ổn định của ngân hàng”. Vì vậy, bốn yếu tố rủi ro: nguồn nhân lực, hệ thống thơng tin, quy trình bên ngoài và các sự kiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

bên ngồi có thể tác động đối với bất kỳ doanh nghiệp thuộc bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào chứ không phải chỉ riêng ngân hàng.

Thứ hai, mặc dù rủi ro hoạt động không phải là một lĩnh vực quản lý rủi ro hồn tồn mới nhưng nó đã nhận được rất nhiều sự quan tâm trong thời gian gần đây. Thực tế ghi nhận rằng, nhiều tổn thất lớn nhất trong lĩnh vực tài chính có thể được quy cho, bằng cách này hay cách khác, là do không quản trị tốt rủi ro hoạt động. Thực vậy, hầu hết các thảm họa tài chính cụ thể của các cơng ty có thể được cho là có sự kết hợp giữa rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động (Jorion, 2011). Theo Lam (2014, 237), “Một nghiên cứu trước đó cho thấy 45% các công ty được khảo sát chỉ định giám đốc điều hành (ngoài quản lý cấp cao) là lực lượng mũi nhọn đằng sau các chương trình quản lý rủi ro hoạt động. Những số liệu này cho thấy cách các nhà điều hành doanh nghiệp xem rủi ro hoạt động cũng quan trọng như các dạng rủi ro khác. Mối quan tâm đến quản lý rủi ro hoạt động tiếp tục tăng lên sau các vụ bê bối của cơng ty (ví dụ: Enron, WorldCom, JP Morgan), cũng như các cuộc thảo luận liên quan về quản trị và tn thủ của cơng ty”.

Đó là cũng là lý do giải thích tại sao quản trị rủi ro hoạt động là một nội dung không thể thiếu trong chương trình đào tạo các chứng chỉ PRM, FRM.

<i>Thứ ba,</i>dựa trên các xu hướng hiện tại, khi các cơng nghệ đột phá như trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy (ML) được triển khai và áp dụng trong quản trị rủi ro, rủi ro hoạt động sẽ ngày càng được quan tâm nhiều hơn (Ginnis, 2013).

<i>Thứ tư, vì những lý do nói trên, ngày càng có nhiều nhà khoa học xem rủi ro hoạt </i>

động như một bộ phận cấu thành rủi ro tài chính: Jorion (2011), Miller (2019), Carlone (2021),…

Tài liệu tham khảo này được biên soạn với sự tham gia của các giảng viên: TS. Hồ Công Hưởng (chủ biên)

TS. Nguyễn Thế Bính (đồng chủ biên) ThS. Ngơ Sỹ Nam

TS. Nguyễn Duy Linh

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

TS. Lưu Thu Quang

Quản trị rủi ro tài chính là một lĩnh vực phức tạp và khá mới mẻ nên tài liệu được biên soạn lần đầu này chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của sinh viên, giảng viên để có thể hồn thiện Tài liệu trong thời gian tới.

Thay mặt tập thể giảng viên biên soạn.

<b>Đồng chủ biên: TS. Hồ Công Hưởng, TS. Nguyễn Thế Bính </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Rủi ro tài chính đề cập đến các kết quả tiêu cực tiềm ẩn hoặc tổn thất có thể phát sinh từ các sự kiện hoặc tình huống khơng chắc chắn trong các hoạt động tài chính. Những rủi ro này có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động và nhiều hơn nữa. Chúng có thể tác động đến hiệu quả tài chính của một cá nhân hoặc một tổ chức và vốn có trong bất kỳ giao dịch đầu tư hoặc tài chính nào. Mặc dù rủi ro khơng thể được loại bỏ hồn tồn, nhưng nó có thể được quản trị thơng qua một q trình có hệ thống xác định, đánh giá và xử lý các rủi ro tiềm ẩn.

Thông qua việc xác định, đo lường và giảm thiểu rủi ro, quản trị rủi ro hiệu quả giúp các doanh nghiệp bảo vệ tài sản và duy trì danh tiếng trên thị trường. Trong chương 1 này, chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát về rủi ro và rủi ro tài chính, các loại rủi ro tài chính một số vấn đề liên quan đến quản trị rủi ro tài chính như sự cần thiết và quy trình quản trị rủi ro.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>1.2 Rủi ro </b>

<i><b>1.2.1 Định nghĩa rủi ro </b></i>

Như đã đề cập ở trên, tất cả chúng ta dù là cá nhân hay doanh nghiệp đều phải đối mặt với rủi ro trong cuộc sống hàng ngày. Một ví dụ đơn giản về rủi ro tài chính đối với cá nhân như việc bạn đi vay một một khoản vay với lãi suất thả nổi. Mặc dù lãi suất ban đầu có thể thấp hơn khoản vay lãi suất cố định nhưng có khả năng lãi suất biến động theo theo thời gian đặc biệt là khi lãi suất tăng lên, dẫn đến các khoản thanh tốn hàng tháng cao hơn và có khả năng gây gia tăng áp lực tài chính. Đối với một cơng ty, rủi ro tài chính có thể là việc biến động tỷ giá trong các giao dịch xuất nhập khẩu. Điều này có thể dẫn đến việc giảm lợi nhuận hoặc tăng chi phí cho cơng ty. Từ đó chúng ta thấy rủi ro sẽ làm mọi dự trù tài chính của bạn thay đổi và những khoản chi phí phát sinh càng lớn so với dự kiến sẽ làm bạn mất cân đối tài chính càng lớn.

Trước khi đi sâu vào vấn đề rủi ro tài chính, ở phần này tác giả sẽ giới thiệu chung về rủi ro và quản trị rủi ro. Knight (1921) cho rằng rủi ro là một tình huống trong đó kết quả của một hành động hoặc sự kiện có thể được dự đốn với xác suất có thể đo lường được. Knight phân biệt giữa hai loại không chắc chắn: rủi ro và sự khơng chắc chắn. Nói cách khác, khi có rủi ro, xác suất của các kết quả có thể được biết hoặc có thể được ước tính, và những người ra quyết định có thể đưa ra các lựa chọn sáng suốt dựa trên thông tin đó.

Ví dụ, khi một người mua vé số, có một rủi ro liên quan vì xác suất trúng xổ số được biết đến, mặc dù nó thường rất thấp. Tương tự, một chủ doanh nghiệp có thể quyết định đầu tư vào một dòng sản phẩm mới sau khi phân tích nghiên cứu thị trường và dự đốn khả năng thành công dựa trên dữ liệu lịch sử và xu hướng của ngành.

<i>Ngược lại, theo Knight, khái niệm không chắc chắn của đề cập đến các tình </i>

huống trong đó xác suất của các kết quả có thể xảy ra là khơng rõ hoặc khơng thể ước tính được. Trong những trường hợp này, những người ra quyết định phải dựa vào các phán đốn chủ quan của riêng họ, thay vì vào dữ liệu khách quan, để đưa ra quyết định. Crouhy và cộng sự (2014) cho rằng rủi ro thực sự là những chi phí đột nhiên tăng theo một cách hồn tồn bất ngờ, hoặc một số chi phí khác sẽ xuất hiện và làm tổn thất

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

số tiền mà doanh nghiệp đã dành cho các khoản chi tiêu dự kiến của họ. Rủi ro nằm ở mức độ thay đổi chi phí và doanh thu của doanh nghiệp.

Như vậy rủi ro có thể được định nghĩa là khả năng mất mát hoặc tổn hại phát sinh từ sự khơng chắc chắn trong một tình huống nhất định. Nói cách khác, rủi ro đề cập đến khả năng một cái gì đó tiêu cực hoặc bất ngờ có thể xảy ra, và mức độ mà khả năng đó có thể dẫn đến một kết quả tiêu cực. Rủi ro có mặt trong các khía cạnh khác nhau của cuộc sống, bao gồm đầu tư tài chính, hoạt động kinh doanh, sức khỏe và an toàn và các quyết định cá nhân. Hiểu và quản trị rủi ro là rất quan trọng để giảm thiểu hậu quả tiêu cực và đưa ra quyết định sáng suốt.

<i><b>1.2.2 Các loại rủi ro </b></i>

Có nhiều loại rủi ro khác nhau và việc phân loại rủi ro là quá trình chia rủi ro thành từng nhóm dựa trên đặc điểm hoặc thuộc tính của chúng. Điều này cho phép một cách tiếp cận có hệ thống và hiệu quả hơn để quản trị rủi ro vì các rủi ro với các thuộc tính tương tự có thể được giải quyết bằng các chiến lược tương tự. Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại rủi ro: bản chất của rủi ro, khả năng tác động của rủi ro, nguồn gốc gây rủi ro, phương thức kiểm soát rủi ro.

Căn cứ vào bản chất của rủi ro, rủi ro có thể được phân loại thành rủi ro tài chính, rủi ro hoạt động, rủi ro chiến lược, rủi ro pháp lý và rủi ro uy tín là một số loại rủi ro phổ biến mà các tổ chức có thể gặp phải.

Căn cứ vào khả năng và tác động của rủi ro, rủi ro có thể được phân loại thành rủi ro có khả năng xuất hiện cao và tác động tiềm năng cao.

Theo nguồn gốc gây rủi ro, rủi ro có thể được phân loại thành rủi ro nội bộ (rủi ro phát sinh từ trong tổ chức, chẳng hạn như lỗi nhân viên hoặc gian lận) và rủi ro bên ngoài (rủi ro phát sinh từ bên ngoài tổ chức, như thảm họa tự nhiên hoặc suy thối kinh tế).

Rủi ro cũng có thể được phân loại dựa trên cách chúng có thể được kiểm sốt. Ví dụ, rủi ro có thể phịng ngừa là những rủi ro có thể tránh được hoặc ngăn chặn thông qua các chiến lược quản trị rủi ro thích hợp trong khi rủi ro khơng thể có được là những rủi ro không thể tránh khỏi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Bessis ( 2011) phân loại rủi ro thành ba nhóm rộng: rủi ro tài chính, rủi ro phi

<b>tài chính và rủi ro hệ thống. Rủi ro tài chính là rủi ro phát sinh từ hoạt động tài chính </b>

của một tổ chức. Những rủi ro này có thể được phân loại thêm thành rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động. Rủi ro thị trường đề cập đến rủi ro tổn thất do thay đổi giá hoặc điều kiện thị trường, trong khi rủi ro tín dụng đề cập đến rủi ro mặc định của người vay. Rủi ro thanh khoản đề cập đến rủi ro không thể đáp ứng các yêu cầu về dòng tiền và rủi ro hoạt động liên quan đến rủi ro mất do các quy trình, hệ thống hoặc con người khơng đầy đủ hoặc thất bại.

<b>Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không phát sinh từ các hoạt động tài chính </b>

nhưng vẫn có thể ảnh hưởng đến khả năng của một tổ chức để đạt được các mục tiêu kinh doanh. Những rủi ro này có thể được phân loại thêm thành rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng và rủi ro pháp lý. Rủi ro chiến lược đề cập đến rủi ro không thể đạt được các mục tiêu chiến lược của tổ chức, trong khi rủi ro danh tiếng đề cập đến rủi ro thiệt hại cho danh tiếng của một tổ chức. Rủi ro pháp lý đề cập đến rủi ro mất mát do hành động pháp lý hoặc không tuân thủ luật pháp và quy định, trong khi rủi ro theo quy định đề cập đến rủi ro mất mát do thay đổi luật pháp hoặc quy định.

<b>Rủi ro hệ thống là những rủi ro vốn có trong hệ thống mà một tổ chức hoạt </b>

động. Những rủi ro này có thể bao gồm rủi ro kinh tế vĩ mô, rủi ro địa chính trị và rủi ro mơi trường. Rủi ro kinh tế vĩ mô đề cập đến nguy cơ mất mát do những thay đổi trong nền kinh tế rộng lớn hơn, trong khi các rủi ro địa chính trị đề cập đến nguy cơ mất mát do sự bất ổn chính trị hoặc xung đột. Rủi ro mơi trường đề cập đến nguy cơ mất mát do các yếu tố môi trường, chẳng hạn như thiên tai hoặc biến đổi khí hậu.

<b>Theo Crouhy và cộng sự (2014), rủi ro có thể bao gồm các loại sau: rủi ro thị </b>

trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro kinh doanh, rủi ro chiến lược và rủi ro danh tiếng.

<b>Hình 1.1: Các loại rủi ro </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>Nguồn: Crouhy và cộng sự (2014) </i>

<b>Rủi ro thị trường </b>

Rủi ro thị trường là rủi ro thay đổi giá tài sản trên thị trường tài chính từ đó làm giảm giá trị của chứng khoán hoặc danh mục đầu tư. Rủi ro về giá có thể được tách ra thành 2 loại: rủi ro thị trường chung (rủi ro mà toàn bộ thị trường sẽ giảm giá trị) và một thành phần rủi ro thị trường cụ thể, duy nhất cho các tài sản/giao dịch tài chính cụ thể đang được xem xét. Trong các hoạt động giao dịch, rủi ro phát sinh cả từ các vị thể mở (chưa được phòng vệ) và từ mối tương quan khơng hồn hảo giữa các vị thế giao dịch trên thị trường để bù đắp cho nhau.

Theo Ủỷ ban giám sát ngân hàng (Basel) thì rủi ro thị trường phát sinh từ những thay đổi bất lợi về giá trị của các trạng thái hoặc các danh mục tài sản do những thay đổi trong giá cả thị trường, lãi suất hay tỷ giá. Khi thực hiện giao dịch cho chính mình, các ngân hàng xem xét tác động của rủi ro thị trường trực tiếp đối với trạng thái trong sổ kinh doanh của ngân hàng cũng như trong mối liên hệ với vai trò của ngân hàng như là một trung gian tài chính cho các khách hàng. Rủi ro thị trường không chỉ tác động tới ngân hàng mà tất cả các doanh nghiệp kinh doanh cũng đối mặt với loại rủi ro này.

Rủi ro thị trường được gọi với nhiều tên khác nhau trong các bối cảnh khác nhau. Ví dụ, trong trường hợp của một quỹ đầu tư, hiệu quả đầu tư của quỹ có thể được đánh

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

giá trên thị trường trên cơ sở so sánh với hiệu suất của một tham chiếu nhất định như chỉ số chung của thị trường chẳng hạn. Trong trường hợp này, rủi ro thị trường rất quan

<i><b>trọng và nó được xác định trên cơ sở liên quan đến chỉ số tham chiếu. Rủi ro cơ bản là </b></i>

một thuật ngữ được sử dụng trong ngành quản trị rủi ro để mơ tả cơ hội phân tích trong mối quan hệ giữa giá của sản phẩm, một mặt và giá của cơng cụ được sử dụng để phịng ngừa rủi ro về giá. Một lần nữa, chúng ta có cần lưu ý khái niệm rủi ro thị trường cụ thể theo các bối cảnh khác nhau.

Có bốn loại rủi ro thị trường chính: rủi ro lãi suất, rủi ro giá cổ phiếu, rủi ro tỷ giá và rủi ro giá cả hàng hóa.

<b>Rủi ro lãi suất </b>

Hình thức đơn giản nhất của rủi ro lãi suất đó là giá thị trường của các cơng cụ có thu nhập cố định (thông thường là trái phiếu) sẽ giảm do một sự gia tăng của lãi suất thị

<i>trường. Nhưng trong các danh mục đầu tư phức tạp bao gồm các tài sản nhạy cảm với </i>

lãi suất, nhiều tình huống giảm giá khác nhau của tài sản có thể phát sinh từ sự khác biệt về kỳ hạn và thời gian đáo hạn của các cơng cụ và dịng tiền giống như tài sản (ở vị thế mua) và những khoản nợ (vị thế bán).

Đối với rủi ro lãi suất, đường cong lãi suất là cơ sở dự báo về lãi suất về các kỳ hạn khác nhau. Thơng thường các kỳ hạn dài sẽ có lãi suất cao hơn các kỳ hạn ngắn. Rủi ro của đường cong lãi suất có thể phát sinh trong danh mục đầu tư trong đó các kỳ hạn dài và ngắn của các kỳ hạn khác nhau được bảo vệ hiệu quả so với sự thay đổi đồng thời về năng suất, nhưng khơng chống lại sự thay đổi hình dạng của đường cong năng suất. Trong khi đó, ngay cả khi các vị thế bù đắp cho nhau trong danh mục có cùng thời gian đáo hạn, rủi ro lãi suất có thể phát sinh nếu tỷ lệ của các vị thế có mối tương quan khơng hồn hảo. Ví dụ, các cơng cụ Eurodollar ba tháng và Tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 tháng sẽ có sự tương quan cùng chiều nên danh mục chỉ có hai tài sản này sẽ không giảm thiểu được rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, lãi suất của các công cụ này khơng tương quan hồn hảo với nhau và chênh lệch giữa lợi suất của chúng có thể thay đổi theo thời gian. Do đó, đầu tư vào tín phiếu Kho bạc ba tháng từ việc huy động tiền gửi Eurodollar ba tháng là ví dụ về cho một vị thế bù đắp hoặc phòng ngừa rủi ro (thường được gọi là rủi ro cơ sở).

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>Rủi ro giá cổ phiếu </b>

Đây là rủi ro liên quan đến sự biến động của giá cổ phiếu. Rủi ro thị trường chung của cổ phiếu đề cập đến độ nhạy của một giá trị công cụ hoặc danh mục đầu tư đối với sự thay đổi về mức độ của các chỉ số thị trường chứng khoán. Rủi ro cụ thể hoặc riêng biệt của cổ phiếu đề cập đến phần biến động giá cổ phiếu của cổ phiếu được xác định bởi các đặc điểm của doanh nghiệp, chẳng hạn như lĩnh vực kinh doanh, chất lượng quản trị của nó hoặc sự cố trong quy trình sản xuất. Theo lý thuyết danh mục đầu tư, rủi ro thị trường chung không thể được loại bỏ thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư, trong khi rủi ro cụ thể có thể được đa dạng hóa.

<b>Rủi ro tỷ giá </b>

Rủi ro tỷ giá phát sinh từ các vị trí mở hoặc việc phịng vệ khơng hồn hảo trong các tài sản bằng ngoại tệ và các khoản nợ dẫn đến sự biến động của lợi nhuận hoặc giá trị được đo bằng đồng nội tệ. Những vị thế này có thể phát sinh như là kết quả tự nhiên trong các hoạt động kinh doanh thay vì từ bất kỳ mong muốn có chủ đích nào để bảo đảm một vị thế giao dịch bằng một loại tiền nhất định. Biến động tỷ giá có thể ăn vào lợi nhuận từ các khoản đầu tư xuyên quốc gia và đồng thời đặt một công ty gặp bất lợi trong sự cạnh tranh liên quan đến các đối thủ ở nước ngồi. Nó cũng có thể tạo ra thua lỗ lớn trong q trình hoạt động, thơng qua sự khơng chắc chắn mà nó gây ra, giảm thiểu hoạt động đầu tư. Các lý do chính của rủi ro tỷ giá phát sinh từ mối tương quan khơng hồn hảo trong việc chuyển đổi tiền tệ và biến động của lãi suất trên thị trường quốc tế. Chúng ta phải thừa nhận tỷ giá là một yếu tố rủi ro thị trường riêng biệt, việc xác định tỷ giá các giao dịch ngoại hối đòi hỏi kiến thức về biến động lãi suất trong và ngoài nước, cũng như các yếu tố liên quan tỷ giá hối đoái giao ngay.

<b>Rủi ro giá hàng hoá </b>

Rủi ro về giá của hàng hóa có sự khác biệt đáng kể so với rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá, vì hầu hết các mặt hàng được giao dịch tại các thị trường trong đó nguồn cung trong tay của một vài nhà cung cấp có thể tác động đến sự biến động giá. Đối với hầu hết các mặt hàng, số lượng người tham gia thị trường giao dịch hàng hóa cụ thể là khá hạn chế, do đó ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, từ đó có thể tạo ra mức độ biến động giá cao.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Các nguyên tắc cơ bản khác ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa bao gồm sự thuận tiện và chi phí lưu trữ, và điều thay đổi đáng kể trên các thị trường hàng hóa khác nhau (ví dụ: từ vàng đến năng lượng và đến lúa mì). Do đó kết quả của các yếu tố này, giá hàng hóa thường có biến động cao hơn và sự không liên tục về giá lớn hơn (tức là, những khoảnh khắc khi giá nhảy từ mức này sang các mức giá khác nhau) so với hầu hết các chứng khốn được giao dịch. Hàng hóa có thể được phân loại theo đặc điểm của chúng như sau: “hàng hóa cứng” hoặc hàng hóa khơng thể phục hồi, thị trường được chia thành các kim loại quý (ví dụ: vàng, bạc và bạch kim), có giá trị giá/trọng lượng cao và giá trị cơ bản kim loại (ví dụ, đồng, kẽm và thiếc); “Hàng hóa mềm”, hoặc hàng hóa có thời hạn sử dụng ngắn rất khó lưu trữ, chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp (ví dụ: ngũ cốc, cà phê và đường); và hàng hóa năng lượng, bao gồm dầu, khí đốt, điện và các sản phẩm năng lượng khác.

<b>Rủi ro tín dụng </b>

Rủi ro tín dụng là rủi ro tổn thất kinh tế từ việc khơng hồn trả đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi của đối tác để thực hiện các nghĩa vụ nợ của mình hoặc từ rủi ro vỡ nợ gia tăng trong suốt thời hạn vay nợ. Ví dụ, rủi ro tín dụng trong danh mục cho vay của ngân hàng phát sinh khi người đi vay không thực hiện thanh toán, một khoản tiền lãi định kỳ hoặc khoản định kỳ của tiền gốc đối với khoản vay theo hợp đồng tín dụng với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể được phân tách thành bốn loại chính: rủi ro vỡ nợ (default risk), rủi ro phá sản (bankruptcy risk), rủi ro xuống hạng tín nhiệm (downgrade risk) và rủi ro thanh toán (settlement risk).

Rủi ro vỡ nợ tương ứng với việc người đi vay không có khả năng hoặc từ chối đáp ứng nghĩa vụ trả nợ của mình, bao gồm tiền lãi hoặc tiền gốc đối với khoản vay được thoả thuận trong hợp đồng, lớn hơn một khoảng thời gian quá hạn kể từ ngày đáo hạn, thường là 60 ngày trong hoạt động cho vay ngân hàng (Crouhy và cộng sự, 2014)

Rủi ro phá sản là rủi ro thực sự liên quan đến tranh chấp quyền thanh lý lấy tài sản tài sản thế chấp, hoặc ký quỹ, của người vay hoặc đối tác. Trong trường hợp của một công ty phá sản, những người nắm giữ nợ đang nắm quyền kiểm sốt cơng ty từ tay các cổ đơng (Crouhy và cộng sự, 2014)

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Rủi ro xuống hạng tín nhiệm là rủi ro mà mức độ tín nhiệm của người vay hoặc đối tác có thể xấu đi. Nói chung, mức độ tín nhiệm xấu đi chuyển thành một hành động hạ mức xếp hạng tín nhiệm của các cơ quan xếp hạng, như Standard và Poor, (S & P), Moody, hoặc Fitch, và gia tăng phần bù rủi ro hoặc mức chênh lệch tín dụng của người đi vay. Một sự suy giảm lớn trong xếp hạng tín nhiệm của người vay có thể là sự bắt đầu của rủi ro vỡ nợ (Crouhy và cộng sự, 2014)

Rủi ro thanh toán là rủi ro do trao đổi dòng tiền khi một giao dịch được thiết lập. Việc khơng thực hiện khi thanh tốn có thể được gây ra bởi việc vỡ nợ của đối tác, các ràng buộc thanh khoản hoặc các vấn đề liên quan đến hoạt động. Rủi ro này là lớn nhất khi các khoản thanh toán được thực hiện ở các múi giờ khác nhau, đặc biệt là đối với các giao dịch ngoại hối, chẳng hạn như hoán đổi tiền tệ, trong đó số tiền khái tốn được trao đổi bằng các loại tiền tệ khác nhau (Crouhy và cộng sự, 2014)

Rủi ro tín dụng chỉ là một vấn đề liên quan đến tổn thất khi vị thế này là một tài sản, tức là khi nó thể hiện giá trị thay thế dương. Trong tình huống đó, nếu đối tác vỡ nợ, công ty sẽ mất tất cả giá trị thị trường của tài sản, thông thường hơn, một phần của giá trị mà công ty không thu hồi được khi đối tác vỡ nợ. Giá trị mà cơng ty có khả năng thu hồi được gọi là giá trị thu hồi hoặc tốc độ thu hồi khi được biểu thị bằng phần trăm;

<i><b>Số tiền dự kiến sẽ mất được gọi là tổn thất khi vỡ nợ. </b></i>

Không giống như khoản lỗ tiềm năng được đưa ra khi vỡ nợ đối với trái phiếu hoặc khoản vay, tổn thất vợ nợ trên các vị thế giao dịch phái sinh thường thấp hơn nhiều so với số tiền gốc danh nghĩa của giao dịch và trong nhiều trường hợp chỉ là một phần nhỏ của số tiền này. Điều này là do giá trị kinh tế của một cơng cụ phái sinh có liên quan đến sự thay thế hoặc giá trị thị trường của nó hơn là giá trị danh nghĩa hoặc giá trị của nó. Tuy nhiên, các mức tổn thất tín dụng do các giá trị thay thế của các công cụ phái sinh là biến động: chúng có thể âm tại một thời điểm, nhưng vẫn dương vào thời điểm sau khi có các biến động trên thị trường. Do đó, các cơng ty phải kiểm tra không chỉ sự tổn thất hiện tại, được đo bằng giá trị thay thế hiện tại mà còn phân bổ các mức tổn thất tiềm năng trong tương lai cho đến khi kết thúc thỏa thuận.

<b>Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk) </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Rủi ro thanh khoản bao gồm “rủi ro thanh khoản nguồn tài trợ” và “rủi ro thanh khoản giao dịch”. Rủi ro thanh khoản nguồn tài trợ liên quan đến khả năng của công ty để huy động lượng tiền mặt cần thiết để thanh toán nợ; để đáp ứng các nhu cầu về tiền mặt, ký quỹ và các yêu cầu về đảm bảo của các đối tác; và để đáp ứng nhu cầu rút tiền vốn của nhà đầu tư. Rủi ro thanh khoản nguồn tài trợ có thể được quản trị thông qua việc giữ tiền mặt và tương đương tiền, thiết lập hạn mức tín dụng và giám sát khả năng vay bán chịu doanh nghiệp. Khả năng bán chịu của doanh nghiệp đề cập đến số tiền mà một đối tác giao dịch có thể mua chịu trong điều kiện thị trường bị căng thẳng về thanh khoản mua bán chịu hàng hoá.

Rủi ro thanh khoản giao dịch, thường được gọi đơn giản là rủi ro thanh khoản, là rủi ro mà một doanh nghiệp sẽ không thể thực hiện một giao dịch ở giá thị trường phổ biến vì, tạm thời, khơng có sự tham gia giao dịch đối ứng ở chiều giao dịch ngược lại trên thị trường (người bán nhưng không có người mua và ngược lại). Nếu giao dịch khơng thể bị hỗn lại, việc thực hiện nó có thể dẫn đến tổn thất đáng kể về vị thế giao dịch. Rủi ro thanh khoản nguồn tài trợ cũng liên quan đến quy mơ của giao dịch và tính tức thời của nó. Giao dịch càng nhanh và/hoặc quy mơ lớn hơn, khả năng thua lỗ càng lớn. Rủi ro này thường rất khó để định lượng.

<b>Rủi ro hoạt động (Operational risk) </b>

Rủi ro hoạt động đề cập đến các tổn thất tiềm năng do một loạt các điểm yếu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp bao gồm các hệ thống không đầy đủ, thất bại trong quản trị, hệ thống kiểm soát bị lỗi, gian lận và lỗi của con người; Trong ngành ngân hàng, rủi ro hoạt động cũng thường được thực hiện để bao gồm nguy cơ thảm họa tự nhiên và nhân tạo (ví dụ: động đất, khủng bố) và các rủi ro phi tài chính khác.

Nhiều tổn thất lớn từ giao dịch phái sinh trong thập kỷ qua là hậu quả trực tiếp của các thất bại trong quản trị rủi ro hoạt động. Giao dịch công cụ phái sinh dễ đối mặt với các rủi ro hoạt động hơn các giao dịch giao ngay vì các cơng cụ phái sinh, theo bản chất của chúng, là các giao dịch có mức độ địn bẩy tài chính cao. Q trình định giá cho các công cụ phái sinh phức tạp cũng tạo ra rủi ro hoạt động đáng kể. Kiểm soát chặt chẽ là một điều cần thiết tuyệt đối đối với một công ty để tránh các tổn thất lớn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Rủi ro liên quan đến nhân tố con người là một trường hợp đặc biệt của rủi ro hoạt động. Nó liên quan đến các tổn thất có thể xảy ra do các lỗi của con người như nhấn nút sai trên máy tính, vơ tình phá hủy một tập tin dữ liệu hoặc nhập sai giá trị cho đầu vào tham số của mô hình giao dịch. Rủi ro hoạt động cũng bao gồm gian lận, ví dụ, khi một nhà giao dịch hoặc nhân viên khác cố tình làm sai lệch và trình bày sai các yếu tố rủi ro phát sinh trong một giao dịch. Rủi ro công nghệ, chủ yếu rủi ro hệ thống máy tính, cũng rơi vào danh mục rủi ro hoạt động.

<b>Rủi ro pháp lý và các quy định</b>

Rủi ro pháp lý và các quy định phát sinh vì nhiều lý do; Nó liên quan chặt chẽ đến rủi ro hoạt động cũng như rủi ro danh tiếng. Ví dụ, một đối tác có thể thiếu thẩm quyền pháp lý hoặc pháp lý để tham gia vào một giao dịch rủi ro. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro pháp lý và các quy định được phân loại là rủi ro hoạt động theo Hiệp định về vốn Basel II, Basel III.

Trong thị trường giao dịch các công cụ phái sinh, rủi ro pháp lý thường gặp trở nên rõ ràng khi đối tác hoặc nhà đầu tư, mất tiền vào một giao dịch và quyết định kiện công ty cung cấp để tránh thực hiện nghĩa vụ của mình.

<b>Rủi ro kinh doanh (Business Risk) </b>

Rủi ro kinh doanh là khái niệm đề cập đến các rủi ro kinh điển của các hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như sự không chắc chắn về nhu cầu về sản phẩm hoặc giá bán có thể được tính cho các sản phẩm đó, hoặc các khoản chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm. Trong lĩnh vực sản xuất, rủi ro kinh doanh phần lớn được quản trị thông qua các nhiệm vụ quản trị cốt lõi của doanh nghiệp, bao gồm các quyết định liên quan đến chiến lược, ví dụ, các lựa chọn về kênh phân phối, sản phẩm, nhà cung cấp, cách sản phẩm được bán trên thị trường, chính sách hàng tồn kho, v.v. Tất nhiên, có cả một lượng rất lớn tài liệu kinh doanh nói chung, liên quan đến những vấn đề này, tuy nhiên loại rủi ro này không phải là mục tiêu quan tâm chính của tài liệu tham khảo này.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề việc rủi ro kinh doanh nên được giải quyết như thế nào trong các khung quản trị rủi ro chính thức và điều đó đã trở nên phổ biến trong các ngành tài chính. Mặc dù rủi ro kinh doanh chắc chắn nên được đánh giá và theo dõi,

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

nhưng không rõ ràng làm thế nào để làm điều này theo cách bổ sung cho lĩnh vực ngân hàng phản ứng trước các rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường. Ngồi ra cịn có chỗ để tranh luận về việc liệu rủi ro kinh doanh có cần được hỗ trợ bởi vốn theo cùng một cách rõ ràng hay không. Theo Hiệp ước Basel II, rủi ro kinh doanh đã bị loại trừ khỏi định nghĩa của các cơ quan quản trị về rủi ro hoạt động, mặc dù một số nhà nghiên cứu tin rằng đó là một nguồn biến động lớn hơn trong doanh thu ngân hàng so với rủi ro hoạt động/tổn thất mà các cơ quan quản trị đã bao gồm trong các yêu cầu về vốn tối thiểu của ngân hàng.

Rủi ro kinh doanh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chất lượng của chiến lược của cơng ty và/hoặc danh tiếng của nó, cũng như các yếu tố khác. Do đó, thơng thường rủi ro chiến lược và danh tiếng là các thành phần của rủi ro kinh doanh và tài liệu rủi ro đôi khi đề cập đến một phức tạp của rủi ro kinh doanh/chiến lược/danh tiếng.

<b>Rủi ro chiến lược </b>

Rủi ro chiến lược là rủi ro mà chiến lược và mục tiêu kinh doanh của một tổ chức sẽ không đạt được do các yếu tố bên trong hoặc bên ngoài. Rủi ro chiến lược phát sinh từ các quyết định liên quan đến mục tiêu, định hướng và mơ hình kinh doanh của tổ chức. Những rủi ro này có thể bao gồm rủi ro mất thị phần, không thể tham gia vào thị trường mới, rủi ro pháp lý hoặc rủi ro cơng nghệ.

Rủi ro chiến lược thường có bản chất lâu dài và có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn như thay đổi sở thích của khách hàng, thay đổi trong bối cảnh cạnh tranh, thay đổi quy định hoặc gián đoạn chuỗi cung ứng. Quản trị hiệu quả rủi ro chiến lược đòi hỏi sự hiểu biết tồn diện về mơ hình và mục tiêu kinh doanh của tổ chức, cũng như môi trường bên ngồi mà nó hoạt động. Các tổ chức nên xác định và đánh giá các rủi ro chiến lược của họ, phát triển các kế hoạch để giảm thiểu các rủi ro đó, và thường xuyên xem xét và cập nhật các kế hoạch đó để đảm bảo chúng vẫn có liên quan và hiệu quả.

Quản trị rủi ro chiến lược là một phần thiết yếu của quản trị rủi ro tổng thể, vì nó giúp đảm bảo rằng chiến lược và mục tiêu kinh doanh của tổ chức phù hợp với sự thèm ăn rủi ro của nó và tổ chức có vị trí tốt để điều hướng một bối cảnh kinh doanh luôn thay đổi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i><b>Rủi ro danh tiếng </b></i>

Từ góc độ quản trị rủi ro, rủi ro danh tiếng có thể được chia thành hai loại chính: niềm tin rằng một doanh nghiệp có thể và sẽ thực hiện lời hứa của mình với các đối tác và chủ nợ; và niềm tin rằng doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh công bằng và tuân thủ theo các hoạt động đạo đức.

Tầm quan trọng của loại rủi ro danh tiếng đầu tiên là rõ ràng trong suốt lịch sử ngân hàng và là một đặc điểm kịch tính của cuộc khủng hoảng 2007-2009. Cụ thể, sự tin tưởng rất quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng đã tan vỡ sau khi Lehman Brothers sụp đổ vào tháng 9 năm 2008. Vào thời điểm khủng hoảng, khi những tin đồn lan truyền nhanh, niềm tin vào sự sức khoẻ của các ngân hàng đầu tư có thể là giá trị lớn tất cả các nhà đầu tư và khách hàng.

Hình thức chính thứ hai của rủi ro danh tiếng, đối với giao dịch công bằng, cũng cực kỳ quan trọng và có một khía cạnh mới vào đầu thiên niên kỷ sau các vụ bê bối kế toán đã lừa gạt các cổ đông, trái phiếu và nhân viên của nhiều tập đoàn lớn trong những năm 1990 bùng nổ trên các thị trường cổ phiếu.

Rủi ro danh tiếng đặt ra một mối đe dọa đặc biệt đối với các tổ chức tài chính vì bản chất kinh doanh của họ đòi hỏi sự tự tin của khách hàng, chủ nợ, cơ quan quản trị và thị trường chung. Việc phát triển một loạt các sản phẩm tài chính có cấu trúc, bao gồm các cơng cụ phái sinh tài chính cho rủi ro thị trường và tín dụng, chứng khốn hố tài sản với dịng tiền tùy chỉnh và các công cụ phái sinh chuyên biệt để quản trị các nhóm tài sản đã mua, đã gây áp lực lên việc giải thích các quy tắc kế tốn và thuế và, đến lượt nó, đã làm phát sinh những lo ngại đáng kể về tính hợp pháp và sự phù hợp của một số giao dịch. Sự tham gia vào các giao dịch như vậy có thể làm hỏng giá trị danh tiếng và nhượng quyền của tổ chức.

Sau đây là liệt kê các loại rủi ro điển hình và các cơng cụ phân tích tương ứng:

<b>Bảng 1.1: Các nguy cơ rủi ro liên quan đến doanh nghiệp/khách hàng </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

1. Rủi ro hoạt động

- Bộ máy quản trị khơng kiểm sốt được kinh doanh gây thất thoát tài sản, kinh doanh lỗ.

-Tổ chức sản xuất chưa hợp lý

- Sự gián đoạn trong sản xuất.

- Hoạt động bán hàng không hiệu quả làm giảm doanh thu.

- Năng lực điều hành của khách hàng.

- Các yếu tố cơ sở hạ tầng, đầu vào.

2. Rủi ro tài chính

- Vốn vay lớn, lãi suất thay đổi làm chi phí biến động. - Nghĩa vụ trả nợ không hợp lý, lớn hơn nguồn trả nợ. - Rủi ro tỷ giá.

Phân tích định lượng về tài chính có quan tâm đến sự biến động theo thời gian như: Hệ số đòn bẩy; Hệ số thanh khoản; Hệ số lợi nhuận; Cơ cấu nợ vay; Loại tiền của nguồn tiền trả nợ.

trường

- Cạnh tranh cao dẫn đến mất thị phần.

- Thị phần chưa ổn định. - Mức độ biến động kinh doanh cao do đặc thù ngành.

Phân tích định tính và định lượng: - Tình hình cạnh tranh trong ngành; - Phân tích bản chất của ngành; - Tốc độ tăng trưởng so với trung bình ngành.

chính sách

- Sự thay đổi của chính sách doanh nghiệp.

Phân tích thơng tin như:

- Mơi trường chính sách địa phương.

- Xu hướng chính sách có tác động đến lĩnh vực kinh doanh khách hàng.

<i>Nguồn: Cossin & Pirotte (2001) </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i><b> 1.2.3 Sự đa chiều, đa diện của rủi ro (risk landscape) </b></i>

Đặc trưng của rủi ro là tính đa diện, đa chiều. Các ngành, lĩnh vực khác nhau phải đối mặt với rất nhiều vấn đề rủi ro khác nhau như: môi trường, công nghệ, khoa học, kinh doanh, sức khỏe, an toàn, giao thơng, chính sách cơng và nhiều lĩnh vực khác. Có nhiều cách khác nhau để liệt kê các rủi ro khác nhau mà một tổ chức phải đối mặt. Hai kết luận quan trọng có thể được rút ra từ cách tiếp cận này.

Đầu tiên, quản lý rủi ro tài chính chỉ là một khía cạnh của quản trị rủi ro. Mặc dù tài liệu này tập trung vào quản trị rủi ro tài chính, các phương pháp được sử dụng để quản trị rủi ro tài chính có thể được áp dụng cho các khía cạnh khác của các hoạt động của một tổ chức. Hai là, trong khi tài liệu tập trung bàn về rủi ro tài chính, có nhiều rủi ro và nhiều nhân tố khác tác động đến rủi ro tài chính. Cuối cùng, mọi rủi ro đều có liên hệ với nhau và mục tiêu của quản trị rủi ro là kiểm soát rủi ro theo cách cho phép một tổ chức hoạt động hiệu quả trong khả năng và các giới hạn về nguồn lực của mình.

Một trong những khía cạnh chính của quản trị rủi ro hiệu quả là hiểu được tính đa diện của rủi ro. Bằng cách đánh giá bối cảnh dẫn đến rủi ro, các tổ chức và cá nhân có thể xác định rủi ro tiềm ẩn và thực hiện các chiến lược quản trị rủi ro phù hợp để giảm thiểu hoặc ngăn chặn chúng. Quá trình này liên quan đến việc xác định, đánh giá và ưu tiên rủi ro, phát triển các chiến lược giảm thiểu rủi ro, thực hiện các kế hoạch quản trị rủi ro, và giám sát và xem xét hiệu quả của các chiến lược quản trị rủi ro theo thời gian.

Tính đa diện của rủi ro có thể được phân tích bằng nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm phân tích kịch bản, bản đồ rủi ro và bản đồ nhiệt rủi ro. Phân tích kịch bản liên quan đến việc phát triển một loạt các kịch bản có thể và đánh giá tác động tiềm năng của từng kịch bản đối với một công ty hoặc ngành công nghiệp. Bản đồ rủi ro liên quan đến việc vẽ các rủi ro khác nhau trên bản đồ để trực quan hóa việc phân phối rủi ro và xác định các khu vực có rủi ro cao. Các bản đồ “quy mô” rủi ro liên quan đến việc gán điểm số cho mỗi rủi ro dựa trên khả năng và tác động của nó, và vẽ các điểm trên bản đồ “quy mơ” để trực quan hóa việc phân phối rủi ro.

Điều quan trọng đối với các công ty và các lĩnh vực khác nhau là thường xuyên phân tích bối cảnh rủi ro của họ để xác định rủi ro tiềm ẩn và sự không chắc chắn và

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

phân bổ nguồn lực hiệu quả. Bằng cách hiểu bối cảnh rủi ro, các công ty và lĩnh vực khác nhau có thể phát triển các chiến lược quản trị rủi ro hiệu quả, như chuyển giao rủi ro, giảm thiểu rủi ro và chấp nhận rủi ro.

Một ví dụ về tính đa diện của rủi ro trong mơi trường cơng ty có thể kể đến như trong một tập đoàn đa quốc gia lớn với các hoạt động ở các quốc gia và nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với công ty trong trường hợp này những vấn đề liên quan đến rủi ro tài chính có thể bao gồm biến động tiền tệ, biến động lãi suất và rủi ro tín dụng từ việc vỡ n của đối tác. Ví dụ, cơng ty có thể phải đối mặt với rủi ro tài chính từ thua lỗ tỷ giá do hoạt động của nó ở nhiều quốc gia khác nhau, nơi biến động của tỷ giá hối đối có thể ảnh hưởng đến thu nhập của cơng ty. Cũng chính cơng ty đó nếu công ty phụ thuộc rất nhiều vào việc vay ngắn hạn để tài trợ cho hoạt động của mình, thì có thể bị ảnh hưởng bởi tăng lãi suất đột ngột có thể gây khó khăn cho việc thanh toán tiền lãi. Như vậy mỗi bối cảnh khác nhau công ty sẽ phải đối mặt với các rủi ro tài chính có thể gây ra sự tổn thất khác nhau.

<i><b> 1.2.4 Quản trị rủi ro </b></i>

Rủi ro là điều khó tránh khỏi đối với cá nhân và doanh nghiệp, chính vì vậy cần phải có những giải pháp để giảm thiểu rủi ro và đặc biệt là quản trị rủi ro. Rejda (2011) định nghĩa quản trị rủi ro là q trình có hệ thống xác định, đánh giá và kiểm soát các phơi nhiễm rủi ro thuần túy mà một tổ chức hoặc cá nhân phải đối mặt. Định nghĩa này cho thấy rằng quản trị rủi ro là một cách tiếp cận có hệ thống để xác định các rủi ro tiềm ẩn hoặc sự không chắc chắn, đánh giá tác động hoặc hậu quả tiềm tàng của chúng và thực hiện các bước để giảm thiểu hoặc tránh những kết quả tiêu cực đó.

Crouhy và cộng sự (2014) xác định quản trị rủi ro là quá trình đo lường hoặc đánh giá rủi ro và sau đó phát triển các chiến lược để quản trị nó. Định nghĩa của họ cho thấy rằng quản trị rủi ro liên quan đến một cách tiếp cận có cấu trúc để đo lường và đánh giá rủi ro, tiếp theo là sự phát triển của các chiến lược để quản trị các rủi ro đó.

Như vậy, quản trị rủi ro là q trình xác định, đánh giá và ưu tiên rủi ro và thực hiện các hành động để giảm thiểu hoặc giảm thiểu tác động của chúng đối với một tổ chức. Mục tiêu của quản trị rủi ro là giảm các hậu quả tiêu cực tiềm ẩn của rủi ro trong khi tận dụng bất kỳ cơ hội nào có thể phát sinh. Quản trị rủi ro hiệu quả có nghĩa là cố

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

gắng kiểm soát, càng nhiều càng tốt, kết quả trong tương lai bằng cách hành động chủ động hơn là phản ứng. Quản trị rủi ro hiệu quả giúp các tổ chức đưa ra quyết định sáng suốt, bảo vệ tài sản của họ và duy trì khả năng tồn tại lâu dài của họ. Do đó, quản trị rủi ro hiệu quả cung cấp tiềm năng để giảm cả khả năng xảy ra rủi ro và tác động tiềm năng của nó.

Cấu trúc quản trị rủi ro được thiết kế để làm nhiều hơn là chỉ ra những rủi ro hiện có. Một cấu trúc quản trị rủi ro tốt cũng nên tính tốn sự khơng chắc chắn và dự đốn ảnh hưởng của họ đối với một doanh nghiệp. Do đó, kết quả là một lựa chọn giữa việc chấp nhận rủi ro hoặc từ chối chúng. Sự chấp nhận hoặc từ chối rủi ro phụ thuộc vào mức độ dung nạp mà một doanh nghiệp đã xác định cho chính nó.

Nếu một doanh nghiệp thiết lập quản trị rủi ro như một quy trình có kỷ luật và liên tục cho mục đích xác định và giải quyết rủi ro, thì các cấu trúc quản trị rủi ro có thể được sử dụng để hỗ trợ các hệ thống giảm thiểu rủi ro khác. Chúng bao gồm lập kế hoạch, tổ chức, kiểm sốt chi phí và ngân sách. Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp thường sẽ không có các trải nghiệm bất ngờ bởi vì đã quản trị rủi ro chủ động.

<b>1.3 Rủi ro tài chính </b>

<i><b> 1.3.1 Định nghĩa </b></i>

Trong tài chính, thuật ngữ "rủi ro" liên quan đến sự không chắc chắn phát sinh từ khả năng mất giá trị trong tương lai của một hoạt động, cơng cụ tài chính hoặc nói chung hơn là một khoản đầu tư. Do đó, một hoạt động tài chính được coi là rủi ro nếu lợi nhuận bằng tiền từ hoạt động tài chính không thể được như mong đợi.

Rủi ro tài chính phát sinh thơng qua nhiều giao dịch có tính chất tài chính, bao gồm mua bán, đầu tư và cho vay và nhiều hoạt động kinh doanh khác. Rủi ro tài chính có thể phát sinh do hậu quả của các giao dịch pháp lý, dự án mới, sáp nhập và mua lại, tài trợ nợ, bộ phận chi phí năng lượng trong tổng chi phí hoặc thơng qua các hoạt động của ban quản lý, các bên liên quan, đối thủ cạnh tranh, chính phủ nước ngồi hoặc thời tiết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Khi giá cả tài chính thay đổi mạnh sẽ làm tăng chi phí, giảm doanh thu, hoặc ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của tổ chức. Biến động tài chính có thể làm cho việc lập kế hoạch và ngân sách, định giá hàng hóa và dịch vụ và phân bổ vốn trở nên khó khăn hơn. Hayes (2013) cho rằng rủi ro tài chính đề cập đến khả năng mất tiền trong một hoạt động đầu tư hoặc kinh doanh mạo hiểm.

Dowd (2005) xem rủi ro tài chính là khả năng tổn thất tài chính do những thay đổi ngẫu nhiên hoặc không lường trước được trong các yếu tố rủi ro tiềm ẩn.

<i>Như vậy có thể hiểu rủi ro tài chính là các rủi ro liên quan đến các nguy cơ gây </i>

tổn thất về mặt tài chính cho doanh nghiệp. Rủi ro tài chính này có thể phát sinh từ các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như: do sự biến động của thị trường làm giảm giá tài sản tài chính của doanh nghiệp; hoặc phát sinh từ các quyết định tài chính ở bên trong doanh nghiệp từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng thanh tốn các khoản nợ và kiểm sốt dịng tiền kinh doanh và tài trợ của doanh nghiệp. Những rủi ro tài chính này có thể dẫn đến việc đình trệ trong hoạt động và lớn hơn nữa có thể dẫn đến việc doanh nghiệp mất khả

<i>năng thanh toán và phá sản. </i>

<i><b> 1.3.2 Phân loại rủi ro tài chính </b></i>

Có nhiều cách phân loại rủi ro tài chính. Theo Crouhy và cộng sự ( 2014) rủi ro tài chính bao gồm các loại sau đây:

<b>Hình 1.2 Rủi ro tài chính </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i>Nguồn: Crouhy và cộng sự (2014) </i>

Tuy nhiên, cũng theo Crouhy và cộng sự (2014, 14), có thể “phân loại rủi ro theo phương pháp quản lý mới nhất trong ngành ngân hàng toàn cầu, tập trung vào ba loại rủi ro chính có thể kiểm sốt và quản lý được”: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động…. Điều quan trọng là phải hiểu tất cả các loại rủi ro này, khơng chỉ ngân hàng, vì mỗi loại rủi ro yêu cầu một bộ kỹ năng quản trị rủi ro khác nhau (nhưng có liên quan).

Haslett (2010) cho rằng: “Rủi ro tài chính khơng phải là một thực thể nguyên khối (monolithic entity). Trên thực tế, quan điểm kinh điển về rủi ro chia rủi ro tài chính thành các loại lớn: thị trường, tín dụng, hoạt động, thanh khoản, pháp lý và quy định. Quan điểm cổ điển này đã cung cấp xương sống cho sự phát triển vượt bậc của khoa học quản trị rủi ro trong 15 năm qua”.

<i>Jorion (2011, 283) cho rằng “rủi ro tài chính bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động”. </i>

<i>Miller (2019, 6) khẳng định “rủi ro tài chính nhìn chung được chia thành bốn loại rủi ro chính: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<i>động. Hầu hết các giao dịch tài chính liên quan đến các khía cạnh của cả bốn loại rủi ro </i>

<i>Carlone (2021, 1) phân biệt “năm loại rủi ro trong rủi ro tài chính là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro đối tác, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động”. Định </i>

nghĩa rủi ro hoạt động là rủi ro của các tổn thất do sự khơng đầy đủ hoặc có sự trục trặc trong các thủ tục, nguồn nhân lực và hệ thống nội bộ, hoặc tổn thất gây ra bởi các sự kiện bên ngoài, Carlone (2021, 2) khẳng định rằng: “Trên thực tế, về bản chất, rủi ro này không phải là rủi ro đặc trưng của các trung gian tài chính. Rủi ro hoạt động chỉ trở thành đặc trưng của các trung gian tài chính khi Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng tuyên bố rằng sự trục trặc ở một trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của ngân hàng có thể gây rủi ro cho sự ổn định của ngân hàng”.

<i><b>1.3.3. Tác động của rủi ro tài chính đến doanh nghiệp </b></i>

Như đã đề cập trên, khi nói tới rủi ro chúng ta sẽ nghĩ tới nhiều về những tổn thất mà nó có thể mang lại. Khơng nằm ngồi vấn đề này, khi đề cập đến rủi ro tài chính thì khi rủi ro này xảy ra thì thơng thường sẽ mang lại những tác động tiêu cực tới tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Thậm chí, có thể khiến doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động nếu khơng có biện pháp phịng ngừa và xử lý thích hợp cụ thể như:

Rủi ro tài chính vốn có trong hoạt động của bất kỳ cơng ty nào và họ có thể có tác động đáng kể đến khả năng của tổ chức để đạt được các mục tiêu kinh doanh. Những rủi ro này có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm biến động thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro tài trợ. Hiểu được tác động của rủi ro tài chính đối với các tập đồn là điều cần thiết để quản trị rủi ro hiệu quả, vì nó cho phép các tổ chức phát triển các chiến lược phù hợp để giảm thiểu các rủi ro này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Một trong những tác động chính của rủi ro tài chính đối với các tập đồn là tổn thất tài chính. Rủi ro tài chính có thể dẫn đến tổn thất cho doanh thu và lợi nhuận của tập đoàn, dẫn đến giảm thu nhập, dịng tiền âm và thậm chí phá sản. Ví dụ, một công ty tiếp xúc nhiều với biến động thị trường có thể phải chịu những tổn thất đáng kể trong trường hợp suy thoái thị trường. Tương tự, một cơng ty mở rộng q nhiều tín dụng cho khách hàng hoặc đối tác có thể phải đối mặt với rủi ro đáng kể về mặc định, dẫn đến tổn thất tài chính đáng kể.

Rủi ro tài chính cũng có thể có tác động đến danh tiếng của một cơng ty. Ví dụ, gian lận tài chính hoặc bất thường kế tốn có thể làm tổn hại danh tiếng của một công ty, dẫn đến mất khách hàng, nhà đầu tư và các bên liên quan khác. Tác động của thiệt hại uy tín có thể là đáng kể, và có thể mất nhiều năm để một cơng ty xây dựng lại danh tiếng của mình sau một sự cố quan trọng.

Một tác động khác của rủi ro tài chính đối với các tập đồn là tăng chi phí vay. Rủi ro tài chính có thể dẫn đến chi phí vay cao hơn vì người cho vay u cầu lãi suất cao hơn hoặc yêu cầu thêm tài sản thế chấp để bù đắp rủi ro gia tăng. Ví dụ, nếu một cơng ty được coi là có nguy cơ vỡ nợ cao, người cho vay có thể yêu cầu công ty phải đưa ra thêm tài sản thế chấp hoặc trả lãi suất cao hơn để bù đắp cho việc tăng rủi ro.

Rủi ro tài chính cũng có thể dẫn đến xếp hạng tín dụng thấp hơn cho tập đồn. Các cơ quan xếp hạng tín dụng đánh giá mức độ tín dụng của các tập đồn và phân cơng xếp hạng tín dụng dựa trên đánh giá của họ về sức mạnh tài chính của tổ chức và khả năng trả nợ. Rủi ro tài chính có thể dẫn đến xếp hạng tín dụng thấp hơn cho tập đồn, điều này có thể dẫn đến những khó khăn trong việc có được tài chính và chi phí vay cao hơn.

Ngồi các tác động đến hiệu quả tài chính, rủi ro tài chính cũng có thể dẫn đến việc tuân thủ và rủi ro quy định. Rủi ro tài chính có thể dẫn đến việc không tuân thủ các yêu cầu quy định, dẫn đến hình phạt, tiền phạt và chi phí pháp lý. Ví dụ, một công ty không tuân thủ các quy định chống rửa tiền có thể phải đối mặt với các khoản tiền phạt và chi phí pháp lý đáng kể, cũng như thiệt hại có uy tín.

Rủi ro tài chính cũng có thể có tác động đến niềm tin của nhà đầu tư. Sự tự tin của nhà đầu tư là rất quan trọng đối với sự thành công của bất kỳ cơng ty nào, vì nó cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

phép tổ chức tăng vốn để tài trợ cho các hoạt động và tăng trưởng của mình. Rủi ro tài chính có thể dẫn đến giảm niềm tin của nhà đầu tư, gây ra sự sụt giảm giá cổ phiếu của tập đoàn và khiến việc tăng vốn trở nên khó khăn hơn. Điều này có thể tạo ra một chu kỳ luẩn quẩn, vì sự tự tin của nhà đầu tư giảm có thể dẫn đến chi phí vay cao hơn và xếp hạng tín dụng thấp hơn, làm trầm trọng thêm rủi ro tài chính của tập đoàn.

<i><b> 1.3.4 Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tài chính </b></i>

Rủi ro tài chính luôn tồn tại tiềm ẩn trong mỗi doanh nghiệp, và quản trị rủi ro tốt là một nhân tố quan trọng để vận hành doanh nghiệp thành công. Một số rủi ro có thể được doanh nghiệp trực tiếp kiểm sốt; nhưng phần lớn rủi ro khác thì nằm ngồi tầm kiểm sốt của doanh nghiệp. Do đó, đơi khi điều tốt nhất mà một doanh nghiệp có thể làm là cố gắng lường trước những rủi ro có thể xảy ra, đánh giá tác động tiềm tàng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch để phản ứng với những sự kiện bất lợi.

Quản trị rủi ro tài chính là điều cần thiết cho các tổ chức vì nó giúp bảo vệ họ khỏi tổn thất tài chính tiềm năng và sự không chắc chắn. Việc quản trị rủi ro tài chính liên quan đến việc xác định, phân tích và giảm thiểu các rủi ro mà một tổ chức phải đối mặt do điều kiện thị trường, các sự kiện kinh tế và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của nó.

Quản trị rủi ro tài chính là hoạt động trong tính chất quản trị, tìm kiếm hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Các rủi ro tài chính là điều doanh nghiệp khơng mong muốn. Nó có thể mang đến các tổn thất lớn trong lợi ích vật chất và đánh giá về tiềm năng kinh doanh. Công việc quản trị giúp người thực hiện trong tư thế chủ động đón nhận và điều chỉnh. Khi đó, các giải pháp nhanh chóng được áp dụng, rủi ro nhanh chóng được tháo gỡ. Hoạt động mang đến ý nghĩa cho tính chất sáng tạo, mở ra tiềm năng cho phát triển. Quản trị rủi ro tài chính là cơng việc thực hiện trong quản trị doanh nghiệp. Với tính chất mang đến định hướng và chiến lược cho thành công trong hoạt động. Đây là hoạt động trọng yếu giúp doanh nghiệp tránh được những nguy cơ có thể xảy ra. Mang đến tư thế chủ động và sẵn sàng đối mặt khi các khó khăn khơng được dự báo trước. Muốn thành cơng với những lợi ích lớn, doanh nghiệp phải có kế hoạch phịng ngừa và

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

tác động kiểm sốt thiệt hại. Quản trị giúp tìm kiếm các lợi nhuận bền vững và phát triển ổn định.

Đây là công việc được thực hiện trong xuyên suốt quá trình hoạt động doanh nghiệp. Rủi ro tài chính mang đến tình trạng khó khăn trong thực hiện hoạt động duy trì doanh nghiệp. Hậu quả nghiêm trọng nhất có thể xảy ra đó là phá sản. Do đó trong hoạt động của mình, doanh nghiệp cần quản trị, mang đến những chủ động trong mọi tình huống. Quản trị có vai trị quan trọng trong thực hiện chiến lược cho hoạt động doanh nghiệp. Tính chất rủi ro có thể sẽ được kiểm sốt, điều chỉnh hay xử lý để mang lại các thiệt hại thấp nhất.

Để thực hiện được tính chủ động, cần xác định các kết quả có thể xảy ra trong doanh nghiệp để tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả. Lập kế hoạch là cách thức tốt nhất, khi vấn đề xảy ra sẽ kịp ứng biến. Trong tính chất quản trị, các điều chỉnh phải được thực hiện trên cơ sở các cơng cụ phù hợp. Khi đó, tính chất và mức độ rủi ro được đo lường phản ánh nguy cơ ít hay nhiều. Nhà quản trị tài chính cần phải nhận diện tất cả tác động và nguy cơ của nó. Từ đó thấy được các nguy cơ quan trọng nhất cần thiết phải điều chỉnh.

Quản trị rủi ro tài chính ln cần thiết đối với sự vận hành của doanh nghiệp. Bởi trong tất cả các cơng việc, tác động chủ quan hay khách quan có thể xảy ra. Nó mang đến kết quả phản ánh cho từng thời điểm không báo trước. Việc ngăn ngừa rủi ro mang lại hiệu quả tốt nhất khi các thiệt hại được giảm thiểu về tài chính. Chi phí tham gia được sử dụng đúng mục đích, tạo ra các giá trị thu về. Từ đó giúp tối ưu hóa lợi nhuận, đảm bảo hoạt động kinh doanh được thuận lợi và nhận các lợi ích như mục tiêu đề ra.

Như vậy quản trị rủi ro tài chính là công việc hết sức thiết cho các doanh nghiệp để bảo vệ chống lại tổn thất tài chính tiềm năng, đảm bảo tuân thủ các yêu cầu quy định, tăng cường ổn định tài chính và khả năng phục hồi và cải thiện việc ra quyết định. Bằng cách xác định và quản trị rủi ro tài chính, các tổ chức có thể định vị tốt hơn để thành công lâu dài và đạt được các mục tiêu chiến lược của họ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<b>1.4. Quy trình (khung) quản trị rủi ro </b>

Quản trị rủi ro là một q trình kiểm sốt rủi ro nhằm giảm thiểu rủi ro liên tục cho một doanh nghiệp. Đó là quá trình các doanh nghiệp chủ động lựa chọn các loại và mức độ rủi ro phù hợp để họ chấp nhận chứ khơng phải chỉ thuần túy phịng thủ. Hầu hết các quyết định kinh doanh liên quan đến việc hy sinh các nguồn lực hiện tại cho lợi nhuận không chắc chắn trong tương lai. Trong nhiều trường hợp, một trong những khía cạnh quan trọng nhất của quản lý rủi ro hiện đại là khả năng định giá rủi ro để đảm bảo rằng các rủi ro trong hoạt động kinh doanh được đền đáp xứng đáng.

Có năm bước trong quy trình quản trị rủi ro: (i) Nhận diện các phơi nhiệm rủi ro; (ii) Đo lường và ước tính các phơi nhiễm rủi ro; (iii) Đánh giá tác động của các phơi nhiễm rủi ro; (iv) Hình thành các chiến lược giảm thiểu rủi ro, (v) Đánh giá hiệu quả của chiến lược.

<i><b> 1.4.1 Nhận diện rủi ro </b></i>

Nhận dạng rủi ro liên quan đến việc xác định các rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến một tổ chức, cũng như các nguồn của những rủi ro đó. Nhận diện rủi ro là một quá trình xác định liên tục và có hệ thống đối các rủi ro tài chính và những vấn đề bất ổn tiềm tàng của một doanh nghiệp. Các hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm phát triển thông tin về nguồn gốc gây rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa và nguy cơ rủi ro mà doanh nghiệp đối mặt, Mục đích của việc xác định rủi ro là cung cấp một danh sách tồn diện về tất cả các rủi ro có thể phát sinh từ cả nguồn bên trong và bên ngồi, sau đó có thể được đánh giá và quản trị một cách thích hợp.

Q trình xác định rủi ro có thể phức tạp vì nó liên quan đến việc xác định các rủi ro có thể khơng được biết, khơng thể đốn trước hoặc khơng chắc chắn. Có nhiều phương pháp khác nhau mà các tổ chức có thể sử dụng để xác định các rủi ro tiềm ẩn, bao gồm:

<b>Động não (Brainstorming). Một trong những phương pháp xác định rủi ro phổ </b>

biến nhất là tổ chức họp mặt với các bên liên quan chính, các đại diện từ các bộ phận khác nhau cũng như các bên liên quan bên ngoài như khách hàng, nhà cung cấp để tạo ra một danh sách các rủi ro tiềm ẩn có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>Hình 1.3: Quy trình quản trị rủi ro tài chính </b>

<i>Nguồn: Crouhy, Galai, & Mark (2014) </i>

<b>Xác định các rủi ro tiềm ẩn. Một phương pháp xác định rủi ro khác là tiến hành </b>

xem xét hệ thống các quy trình, hệ thống và kiểm soát của tổ chức để xác định các rủi ro tiềm ẩn. Việc xác định các rủi ro tiềm ẩn có thể được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau, bao gồm lập bản đồ quy trình, sơ đồ và đánh giá kiểm soát.

Nhận diện các phơi nhiễm rủi ro (risk exposures)

Đánh giá chi phí và lợi ích của các cơng cụ

Đánh giá ảnh hưởng của rủi ro

<small>Tìm cơng cụ và phương tiện để dịch chuyển hoặc hoán đổi rủi ro </small>Đo lường và ước lượng rủi ro

Hình thành các chiến lược giảm thiểu rủi ro:

• Tránh • Chuyển • Giảm thiểu • Giữ

Đánh giá hiệu quả của chiến lược

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<b>Phân tích dữ liệu lịch sử. Các tổ chức cũng có thể xác định các rủi ro tiềm ẩn </b>

bằng cách phân tích dữ liệu lịch sử. Điều này liên quan đến việc xem xét các sự cố hoặc sự kiện trong quá khứ đã tác động đến tổ chức và xác định nguyên nhân gốc rễ của những sự cố đó. Bằng cách hiểu các nguyên nhân của các sự cố trong quá khứ, các tổ chức có thể xác định rủi ro tiềm ẩn và thực hiện các bước để ngăn chặn chúng xảy ra một lần nữa trong tương lai.

<b>Ý kiến chuyên gia. Các tổ chức cũng có thể tìm kiếm ý kiến chuyên gia từ các </b>

chuyên gia tư vấn, chuyên gia trong ngành hoặc các chuyên gia khác để xác định các rủi ro tiềm ẩn. Những chun gia này có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về xu hướng ngành, thực tiễn tốt nhất và rủi ro mới nổi mà tổ chức có thể không xem xét.

<b>Sử sụng biểu đồ Ishikawa. Biểu đồ Ishikawa, còn được gọi là biểu đồ xương </b>

cá, biểu đồ nguyên nhân và kết quả) là biểu đồ do Kaoru Ishikawa tạo ra để chỉ ra nguyên nhân tiềm ẩn của một sự kiện cụ thể. Các ứng dụng phổ biến của biểu đồ Ishikawa là thiết kế sản phẩm và ngăn ngừa lỗi chất lượng để xác định các yếu tố tiềm ẩn góp phần vào tác động tổng thể. Mọi nguyên nhân hay lý do của sự khơng hồn hảo đều là nguồn gốc của sự biến đổi và được tập hợp thành 6 nhóm (5M + E) như sau: Man (con người), Material (nguyên liệu đầu vào), Machine (thiết bị), Method (phương pháp), Measurement (đo lường, chuẩn mực), Environment (môi trường).

<b>Sử dụng biểu đồ Pareto. Biểu đồ Pareto là biểu đồ xây dựng dựa trên quy tắc </b>

80:20, nguyên tắc khẳng định rằng một thiểu số nguyên nhân, nguyên liệu đầu vào, công sức thường dẫn đến đa số những kết quả, sản phẩm đầu ra, những thành quả. Hay nói dễ hiểu hơn, nguyên tắc 80:20 cho rằng trong nhiều sự kiện thì khoảng 80% kết quả là do 20% nguyên nhân gây ra.

Biểu đồ Pareto phân loại dữ liệu theo hiện tượng hoặc liệt kê những nguyên nhân theo thứ tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất. Mỗi hiện tượng hay nguyên nhân sẽ được biểu diễn trên một thanh đồ thị và tần suất (hay số lần xuất hiện) được thể hiện trên chiều cao của thanh đồ thị đó.

<i><b>Hình 1.2 Biểu đồ Pareto </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Như hình trên chúng ta thấy được với kết quả thống kê thì gần 80% rủi ro mà doanh nghiệp đối mặt đến từ 4 vấn đề chính (A, B, C, D) các vấn đề còn lại chỉ chiếm 20%. Với việc xác định như vậy doanh nghiệp nên tập trung nguồn lực vào các nguyên

<i><b>nhân chính dẫn đến rủi ro. </b></i>

<i><b> 1.4.2 Đo lường và ước tính phơi nhiễm rủi ro </b></i>

Đo lường rủi ro là quá trình định lượng tác động tiềm năng của rủi ro được xác định. Nó liên quan đến việc ước tính khả năng rủi ro xảy ra và đánh giá tác động tiềm tàng của rủi ro đó đối với các mục tiêu của một tổ chức. Đo lường rủi ro là một yếu tố quan trọng vì nó ảnh hưởng đến quyết định phân bổ nguồn lực cho nhà quản trị trong việc xây dựng kế hoạch và giải pháp kiểm soát rủi ro.

Có một số phương pháp và kỹ thuật mà các tổ chức có thể sử dụng để đo lường rủi ro, bao gồm:

<b>Phân tích rủi ro định tính. Phương pháp này liên quan đến việc đánh giá khả năng và </b>

tác động của rủi ro bằng cách sử dụng các thuật ngữ mơ tả như thấp, trung bình hoặc cao. Nó thường được sử dụng khi có dữ liệu hạn chế có sẵn hoặc khi rủi ro khó định lượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<b>Phân tích rủi ro định lượng. Phương pháp này liên quan đến việc sử dụng các kỹ thuật </b>

thống kê để định lượng khả năng và tác động của rủi ro. Nó địi hỏi nhiều dữ liệu và phân tích hơn phân tích rủi ro định tính nhưng cung cấp đánh giá chính xác hơn về rủi ro.

<b>Phân tích kịch bản. Phương pháp này liên quan đến việc phân tích tác động tiềm năng </b>

của các kịch bản cụ thể đối với tổ chức. Nó liên quan đến việc xác định và đánh giá khả năng và tác động của các sự kiện hoặc tình huống cụ thể có thể ảnh hưởng đến tổ chức.

<b>Phân tích độ nhạy. Phương pháp này liên quan đến việc đánh giá tác động của những </b>

thay đổi trong các biến hoặc giả định cụ thể đối với đánh giá rủi ro tổng thể. Nó thường được sử dụng để kiểm tra sự mạnh mẽ của các mơ hình rủi ro và để xác định các trình điều khiển rủi ro chính.

<b>Mơ phỏng Monte Carlo. Phương pháp này liên quan đến việc mô phỏng các kết quả </b>

tiềm năng của một rủi ro cụ thể hoặc tập hợp rủi ro bằng cách sử dụng phân phối xác suất. Nó thường được sử dụng khi có nhiều nguồn không chắc chắn hoặc khi đánh giá rủi ro liên quan đến các tương tác phức tạp giữa các biến khác nhau.

<i><b> 1.4.3 Đánh giá rủi ro </b></i>

Đánh giá rủi ro là một thành phần chính của quy trình quản trị rủi ro liên quan đến việc

<i>xác định, phân tích và đánh giá rủi ro cho một tổ chức. Mục tiêu của đánh giá rủi ro là </i>

cung cấp một cách tiếp cận có hệ thống và khách quan để xác định và đánh giá rủi ro để các chiến lược quản trị rủi ro phù hợp có thể được thực hiện để giảm thiểu hoặc tránh các rủi ro đó.

<b>Đánh giá rủi ro và bất định. Đánh giá rủi ro và bất định bao gồm ba hoạt động </b>

liên quan với nhau. Trước hết, phải nhận ra những rủi ro và bất định ảnh hưởng đến tổ chức. Việc nhận ra những rủi ro thường đi với nhận ra mối hiểm họa và nguy cơ. Tiếp theo, nhà quản trị rủi ro tài chính phải hiểu được bản chất của chúng, chúng xuất hiện như thế nào và chúng tác động qua lại với nhau như thế nào để dẫn đến một tổn thất hay may mắn. Cuối cùng là đo lường rủi ro, là việc đánh giá khả năng, giá trị tổn thất hay may mắn theo tần số và mức tổn thất.

</div>

×