Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận văn: Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã hà hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.04 KB, 109 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
@&?




Trần Thị Hương Lam





ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN
GIA SÚC HIỆN CÓ Ở XÃ HÀ HIỆU HUYỆN BA BỂ
TỈNH BẮC KẠN





Chuyên ngành:
Sinh thái học

Mã số: 60-42-60



LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG CHUNG





THÁI NGUYÊN NĂM 2007








LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan. Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

Tác giả



Trần Thị Hương Lam
















LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày giáo PGS - TS Hoàng Chung đã tận
tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cám ơn Tiến sỹ Lê Ngọc Công cùng toàn thể các thầy cô giáo, các
cán bộ, nhân viên khoa Sinh trường Đại học sư phạm Thái Nguyên. Xin cám ơn
cán bộ, nhân viên phòng thí nghiệm Trung tâm - Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và bạn bè đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu khoa học.
Nhân đây tôi cũng xin cám ơn Sở Giáo Dục – Đào Tạo Thái Nguyên, Phòng
Giáo Dục – Đào Tạo Phổ Yên, Trung tâm KTTH – HN & Giáo dục thường xuyên
Phổ Yên đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2007
Tác giả




Trần Thị Hương Lam















NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT


CTV: Cộng tác viên
DS : Dạng sống
ĐVTA: Đơn vị thức ăn
HTX : Hợp tác xã
NC: Nghiên cứu
PTNT: Phát triển nông thôn
TS : Tổng số
VCK: Vật chất khô
















DANH MỤ C CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loại cỏ trên vùng đất thấp vào
45 ngày cắt.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày.
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Bảng 1.4: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam.
Bảng 1.5:Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính.
Bảng 1.6: Giá trị dinh dưỡng của Ngô trong các giai đoạn khác nhau.
Bảng 4.1: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ tự nhiên.
Bảng 4.2: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ tự nhiên.
Bảng 4.3: Năng suất các thảm cỏ trong đồng cỏ tự nhiên.
Bảng 4.4: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.5: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.6: Năng suất các thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.7: Thành phần loài trong các thảm cỏ soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.8: Những dạng sống chính của thực vật trong các soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.9: Năng suất các thảm cỏ trong soi bãi hoang hóa.

Bảng 4.10: Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi.
Bảng 4.11: Một số chỉ tiêu của các cây cỏ trồng tại xã Hà Hiệu.
Bảng 4.12: Giá trị dinh dưỡng của các loài cỏ trồng dùng làm thức ăn cho gia súc.








MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam. 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 9
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 21
1.4. Nhận xét chung 26
Chương 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý 28
2.2. Địa hình, địa mạo 28
2.3. Khí hậu 29
2.4. Thủy văn 29
2.5. Các nguồn tài nguyên 30
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường. 32

Chương 3: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu 33
3.2. Phương pháp nghiên cứu 33
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên cứu 42
4.2. Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi 87
4.3. Các loài cây trồng có giá trị chăn nuôi 90
4.4. Tình hình sử dụng hiện nay, khả năng và xu hướng phát triển. 93
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận 97
2. Đề nghị 98
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦU
Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất của nghề chăn nuôi gia súc đặc biệt là trâu
bò, càng quan trọng khi nền công nghiệp chăn nuôi ngày càng phát triển trên đà
thâm canh tăng năng xuất .Cỏ không những là nguồn thức ăn gia súc có chất lượng,
rẻ tiền và phù hợp với điều kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác như
bảo vệ và cải tạo đất trồng dưới dạng này hay dạng khác [14]. Đồng cỏ là kho dự
trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong đồng
cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác đồng cỏ, nhưng
lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng nhu cầu phát triển chăn nuôi ngày
một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được. Do đó đòi

hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ. Các nhà khoa học đã
tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật học
đến các phương thức cải tạo, sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn vị
diện tích đồng cỏ trồng cũng như tự nhiên [10].
Tuy nhiên, đến nay quan niệm về đồng cỏ là vấn đề còn đang tranh cãi. Nhiều
nhà nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc nhóm
đặc điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo A.O.Felipe
(1965), những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi núi, bao phủ
bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quản canh được gọi là bãi cỏ tự
nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế bãi cỏ tự nhiên bằng
cách trồng những loài cỏ có năng xuất và giá trị dinh dưỡng cao hơn [44]. Đa số các
tác giả cho rằng đồng cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục,
nơi có lượng mưa dao động từ 250 – 750mm ở vùng ôn đới và tới 1200mm ở vùng
nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng trong
mùa khô… Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974), cũng có những đề nghị khác
nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ (vĩnh viễn hay tạm thời)
còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có người đề nghị là chăn dắt) chủ
yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi chăn [36] Theo Hoàng Chung (2006): Đồng
cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

với độ khép tán lớn hay nhỏ và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm
sinh, có sự ngừng sinh trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự
giảm sút rõ rệt, đất đa dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối [11].
Việt Nam là nước “nhiệt đới gió mùa ẩm” [21], thảm thực vật về cơ bản thuộc
“rừng mưa nhiệt đới” [45], không có đồng cỏ rộng như các nước vùng ôn đới, hay
Châu Phi nhiệt đới [20]. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng tập
trung nhiều nhất vẫn là trên các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền núi

(chiếm tới 10 triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích rộng lớn
không có nhiều lắm, đại diện là các đồng cỏ thuộc Mộc Châu và Mai Sơn (tỉnh Sơn
La), Lai Châu, đồng cỏ Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn) và một số đồng cỏ thuộc vùng
Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm ha.
Các thảm cỏ tự nhiên thường xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều, những
khu vực này dùng từ “bãi chăn” có lẽ chính xác hơn [24]. Theo Hoàng Chung
(2004) thì đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, do khai phá rừng
mà thành [10], tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và gia súc mà
nó biểu hiện ra ở các trạng thái khác nhau…
Đối với gia súc nhai lại thì thức ăn xanh đóng một vai trò hết sức quan trọng vì
trong khẩu phần ăn hàng ngày của chúng có thể chiếm từ 60-100% [22]. Đáp ứng
nhu cầu thức ăn cho gia súc, một trong những vấn đề cơ bản phải giải quyết khi
muốn phát triển chăn nuôi là phát triển đồng cỏ, biện pháp hợp lý và kinh tế nhất
mà nhiều nước, kể cả các nước tiên tiến đang áp dụng [14]. Trên thực tế hiện nay
nguồn thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu hẹp
lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó do chăn thả một cách bừa bãi
không có kỹ thuật đã làm cho một số bãi chăn trở thành đất trống, đồi trọc, không
còn khả năng khai thác dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn gia súc, đặc biệt là về mùa
đông [34]. Để phục vụ cho sự phát triển chăn nuôi, nhiều địa phương ngoài việc biết
khai thác các loài cây, cỏ trong các loại hình tự nhiên khác nhau thì nhiều cây trồng
cũng được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về thành phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới như: Lê Sinh Tặng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3

Nguyễn Chính (1959), Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng (1964), Lê Sinh Tặng
(1969), Trịnh Văn Thịnh và các tác giả (1974), Điền Văn Hưng (1975), Nguyễn
Đăng Khôi (1978, 1979, 1981), Võ Huy Giảng (1983), Dương Thành Liên (1981),
Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu (1981), bước đầu đã nêu lên được tập đoàn cây thức

ăn gia súc. Một số tác giả có đề cập đến vấn đề cải tạo đồng cỏ tự nhiên, sử dụng
hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập nội một số loài mới, phân tích thành phần
dinh dưỡng của một số loài cỏ ở nước ta như : Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Hoàng
Kim Nhuệ (1979), Võ Văn Trị (1983), … [10].
Hà Hiệu là xã miền núi của huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội của xã năm 2007 là phát triển đàn gia súc lên 2.299 con (trâu: 864 con, bò:
1435 con) [4]. Với diện tích không lớn (4006,66 ha), đất nông nghiệp ít và đã ở mức
độ khai thác cao, đất rừng cũng đang bị thoái hoá. Để có thể nâng cao đời sống và
đảm bảo an toàn về môi trường sinh thái cần có sự chuyển đổi phương hướng sản
xuất, đặc biệt là với chăn nuôi đại gia súc. Với mục đích xác lập đàn gia súc ổn định
lâu dài cho chiến lược phát triển kinh tế miền núi và các phương án sử dụng hợp lý
loại hình đồng cỏ và cây cỏ tự nhiên, cỏ và cây trồng khác ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã xây dựng đề tài “Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn
gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạ n”. Đề tài nhằm đánh giá
thực trạng các loài cây cỏ được dùng làm thức ăn gia súc ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn và mức độ sử dụng hiện tại của người dân địa phương với các loài này.
Từ đó có thể rút ra kết luận khoa học nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản, cần thiết
cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên tại địa phương, đem lại hiệu quả kinh tế
cao mà không gây ảnh hưởng gì đến môi trường sống.






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam.
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo, cây
đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn cho gia súc.
Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác nhau như bảo
vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ dại [1].
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh dưỡng,
như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có khả năng sử
dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ không những rất cần
thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ
đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó
trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất,
có năng suất cao, tương đối ổn định và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm
giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường
chỉ cần gieo trồng một lần mà sử dụng được nhiều năm. Ví dụ: Giá thành cho 1kg
cỏ Mộc Châu và cỏ lông Para trong 3 năm sử dụng là: 0.037 và 0.035 đồng [14].
Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ cao
trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
hyđratcacbon và đặc biệt là các chất dinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi thu
hoạch. Các cây họ Đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn gia súc
nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng Protein và
khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ xung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp được
16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị thức ăn [36].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu hoạch dưới
dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [46]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi thu hoạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5

ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm bảo lấy
được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân tố
sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon miệng cao,
nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu gia súc về các
mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được trồng kết hợp; có
khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự
cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm
bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng; …
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức
ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin, … Chăn nuôi là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng Đông Nam Á,
nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.
- Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự nhiên,
21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp để giải
quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu) [27].
- Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản phẩm
trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu tiêu dùng.
Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người nông dân
bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đặc biệt là gia
súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt giống cỏ để trồng.
- Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực phía
Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo, Brachiaria,
Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn sản xuất 20,5 tấn

hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [31].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các trang trại
nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum atratum, … đều
phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các giống cỏ trên còn được
trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây
ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát triển
cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống cỏ Hoà thảo
và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong sản xuất. Hằng năm
sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong trào trồng cây thức ăn xanh
để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc
đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.
* Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia súc trên thế giới:
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống cỏ tốt
từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề năng suất,
chất lượng cỏ.
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria decumbens,
Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum khoảng từ 15-20,
18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp vào
45 ngày cắt.
Tên khoa học Tên Việt Nam

Năng suất (tấn/ha)

Prôtêin (%)



Brachiaria mutica

Cỏ lông Para 9 - 15

6 – 10

Digitaria decumbens Pangola 15 – 20 7 – 11
Paspalum atratum Cỏ đắng 18 – 25

6 – 7

Paspalum plicatulum



6 – 10

5 - 6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [39].
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum plicatulum
là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy, hai
giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái Lan) cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x 50cm và được

bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha tương đương 18 tấn
phân bón /1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau trồng)
và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày [40]. Sản lượng này được thể hiện ở
bảng 1.2.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Thời gian cắt Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000 8,9
11/9/2000 7,1
11/10/2000 6,9
11/11/2000 6,8
11/12/2000 4,6
11/01/2001 2,6
11/02/2001 4,1
11/03/2001 4,3
11/04/2001 5,8
11/05/2001 3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [40].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [42], giống Brachiaria decumbens có
thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí nghiệm không bón đạm
nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón lân và đạm
thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết
quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens), Para (Brachiaria
mutica) và Ghinê (Panicum maximum) (Barnard, 1969) [41].
Tại Purertorico, Vieente - Chandler Silva và Figarella (1959) [49] thông báo
năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha với mức
bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton và Micosker,
(1975) [47] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam Johnstone, vùng
Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã sản xuất được 60.000 kg
VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha. Tại Samford, Queensland năng suất
hàng năm của giống Paspalum rinatatum là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [43].

Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros và
Wilson (1970) [48] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ 23.500-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và
cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu mỡ…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác
quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn
hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin, Inđônêsia,
Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho chăn nuôi. Một số
giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng dụng vào sản xuất ở một số
vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số giống
sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở các
vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng chưa
nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào nghiên
cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như: Lê Hòa
Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới nhập nội ở một số vùng
và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như trình bày ở bảng 1.1 [6].
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Tt

Tên giống
Long Mỹ Sơn Thành

Ba Vì Thụy Phương


Xanh

VCK

Xanh

VCK
Xanh

VCK

Xanh

VCK

1 Panicum maximum Hamil
56.91

9.73 92.9 17.6

86.3 16.5

90.5 17.3
2 Panicum maximum Liconi
40.57

8.11

-



-


99.96

18.9

97.5

17.5

3 Panicum maximum Trichoglumen

40.89

8.21

62.4

12.6

44

10.1

68.2

15.7


4 Panicum maximum Makueni

59.96

11.92

77.1 15.1

60.8 12.4

108 19.4
5 Pennisetum King grass
119

19.02

-


-


170.1

22.3

207

23.6


6 Pennisetum purpureum
99.73

16.95

176 22.9

169.5

20.4

198 21.8
7 Setaria splendida
28.13

5.56 - - 75.1 14.1

80.4 12.6
8 Brachiaria mutica
28.42

7.61 68.9 12.7

42.6 10.2

86.6 15.9
9 Brachiaria decumbens
44.16

8.77 72.6 13.7


56.7 11.2

73.8 11.8
Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [25]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn Đĩnh
(2001) [30] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và miền Bắc cho
kết quả:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình Dương với
20 tấn phân chuồng, 80 kg P
2
O
5
, 80 kg K
2
O và 500 kg vôi/ha/năm. Lượng phân
đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất xanh cỏ Panicum maximum TD
58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 – 60,44%, năng suất hạt 287 –
323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là 40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi trong
điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc độ sinh trưởng
khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 – 100 tấn/ ha/ năm. Cỏ
Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha, tỷ lệ sử dụng của gia súc
đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.
Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả năng sử
dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.

Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên, tác
giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ sinh trưởng, năng
suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội cho biết: Cả 5 giống cỏ
đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/ ngày. Trong đó 2 giống cỏ
Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58 có tốc độ sinh trưởng cao nhất
(1,82 và 1,70 cm/ngày) [26].
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại hình đồng cỏ được
hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có những đồng cỏ được hình
thành do hoạt động của con người trên vùng đất rừng, thảo nguyên hay đầm lầy …
làm thay đổi điều kiện môi trường và hình thành ra đồng cỏ [11].
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý kiến khác
nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các
quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [10].
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt
đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ và cây bụi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị chặt hạ. Con người
khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm đất bị cháy và khô đi, những tác
động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa ở đây sẽ được gieo trồng
các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần như vậy đất sẽ được bỏ hoang,
trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả
dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt, cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình
thành nên lớp cỏ hay có lẫn một số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo
nó gần giống thảo nguyên vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ
phân bố rải rác ở các vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy
thuộc vào mức độ sử dụng của con người.

Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và các dạng
trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi mà đất còn khá
tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng cỏ vì thảm cỏ ở đây
gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung sinh sống lâu năm ngừng
sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động tiếp theo con người sẽ làm cho
lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước của đất kém, đất có độ chua cao, trong
thảm cỏ tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi
hạn sinh và cây đoản mệnh, hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi
hạn sinh. Có thể tóm tắt quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh
- đồng cỏ - savan cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [10].
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật:
Nghiên cứu về khu hệ thực vật là một trong những nghiên cứu được tiến hành
từ lâu trên thế giới. Người ta có thể nghiên cứu khu hệ thực vật ở từng vùng hay
trên từng thảm thực vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo nguyên, ở Liên
Xô (cũ), có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ,
thảo nguyên đã công bố như: Alekhin (1904), Vưsotxki (1915), Graxits (1927),
Sennhicop (1938), Creepva (1978), … [9]. Nói chung, theo các tác giả thì ở mỗi
một vùng sinh thái xác định sẽ hình thành các thảm thực vật đặc trưng, cơ sở để
phân biệt sự khác nhau giữa chúng là thành phần loài và dạng sống, đó là chỉ tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
quan trọng của các công trình nghiên cứu về thực vật.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ thực vật trong đồng cỏ, savan hoặc
một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm 1950 trở về
đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu khu hệ thực vật trong đồng cỏ như:
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loài và dạng sống của đồng cỏ
vùng núi Bắc Việt Nam đã đưa ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ, savan, thảo
nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loài thu được là 233 loài thuộc 54 họ và 44
chi [9]. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam” năm 2004 là 79 họ, 402

loài [10].
Đặc biệt là Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình tổng hợp “Đồng cỏ
Bắc Việt Nam”, tác giả đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ của vùng này với
sự phân chia 5 vùng đồng cỏ bắc Việt Nam [33].
Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang Anh
(1969), khi nghiên cứu thành phần loài đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã gọi đây là
đồng cỏ [32].
Khi nghiên cứu về loại hình sa van, các tác giả: Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn
Chi (1964), đã nghiên cứu thành phần loài của thảm thực vật ở Hữu Lũng (Lạng
Sơn) đã gọi loại hình này là Savan cỏ [23].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995), khi nghiên cứu một số đặc điểm sinh
thái, sinh vật học của savan Quang Ninh và các mô hình sử dụng, đã phát hiện được
60 họ với 131 loài thực vật khác nhau [18].
Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loài, dạng sống
của savan bụi ở vùng đồi Trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123 loài thuộc
47 họ khác nhau [7] …
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Dạng sống là sự biểu hiện về thích nghi với môi trường sống của thực vật nên
đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm.
Theo Ewarming (1884, 1908, 1909) khi nghiên cứu và phân chia dạng sống
của thực vật thuộc thảo vùng ôn đới đã sử dụng những đặc điểm sinh vật học như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo dài đời sống, sự phát triển
Drude (1913), Raunkiner (1905, 1934) khi phân chia dạng sống đã sử dụng
vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn để phân
chia [10].
I.K.Patrotxki (1915) chia thảm thực vật thành 5 nhóm: Thực vật thường
xanh, thực vật rụng lá vào điều kiện bất lợi, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và

phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm.
Đối với cây thuộc thảo có các bảng phân loại dạng sống đã được làm do
Cannon (1911), Markle (1917),… Ở Liên Xô (cũ) có G.N.Vưsoxki (1915),
Kadakêvich (1922), Laprenko (1935) Đặc biệt, trong phân loại dạng sống thực
vật của T.Isatrenko (1954), I.V.Brixôva (1960, 1961), … đã sử dụng những đặc
điểm cấu trúc cả phần dưới đất của thực vật. Dôdulin (1959), Xêbêbriacôp (1954,
1955, 1962, 1964) cũng đã đưa ra một số hệ thống dạng sống tương tự. Nhưng hệ
thống dạng sống hoàn mỹ hơn cả cho hoà thảo có lẽ là của Golubep (1957, 1962,
1968) [10].
Những công trình nghiên cứu về dạng sống thực vật thuộc thảo ở Việt Nam
cũng như ở Đông Dương hầu như chưa có. Doãn Ngọc Chất (1969) đã nghiên cứu
dạng sống của một số loài thuộc họ hoà thảo. Hoàng Chung (2004) dựa trên những
nguyên tắc phân loại của Golubep (1962, 1968), thống kê thành phần dạng sống cho
loại hình đồng cỏ Bắc Việt Nam đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân
loại nó được trình bày ở bảng 1.4 (trang 13) [10].
1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất
Nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã bắt đầu từ thế
kỷ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính chất thống kê
trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu về
năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho chăn nuôi đã được
nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên các kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nghiên
cứu phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng thái sống và chết,
sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành cùng với
phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó của các kiểu thực
bì khác nhau: Balôchina (1950), Gorskova (1954), Salưt (1950), Andreev,

Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958), Xưrokomskaia và
Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-Nova-Chiansianskaia (1966),
Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev (1975), Uchekhin ( 1977 ) …
Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác giả: Kalininna (1954); Xemennôva-
Chian-Sanskia (1966)
Bảng1.4: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam
(không tính các loài cây trồng).
Stt Kiểu dạng sống
% loài trong
tổng số loài
chung của
vùng Đông B
ắc
% loài trong
tổng số loài
chung của
vùng Tây Bắc

1

Cây g


8.8 6.2
2

Cây b
ụi

9.3 9.3

3 Cây bụi thân bò
2.3 3.1
4 Cây bụi nhỏ
10.6 9.3
5 Cây bụi nhỏ thân bò
0.9 2
6

Cây n
ửa bụi

4.6 4.2
7 Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái
4.2 4.2
8 Cây có chồi mọc từ rễ
0.9 1
9

Cây th
ảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn

0.9 0
10 Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm
14.4 14.7
11 Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò

2.3 4.2
12 Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm
15.7 12.4
13


Cây th
ảo mọc th
à
nh búi dày, s
ống lâu năm

4.2 7.3
14

Cây th
ảo sống lâu năm có thân rễ d
ài

4.2 5.2
15 Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò
5.1 7.3
16

Cây th
ảo một năm có rễ cái

6.5 5.2
17 Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò
0.4 0
18

Cây th
ảo một năm có


h
ệ rễ ch
ùm

4.2 2
Tổng số:



- Cây thuộc thảo, sống nhiều năm.
51.9 56.3
- Cây thuộc thảo, sống một năm.
11 7.2
- Cây có hệ rễ cái.
49.1 44.5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954);
Krưm (1960); Xemennop (1966); Kharitonốp (1967); Gawood (1968); IgonachenKo,
Kirillova và Ponhiatopskaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop
(1967) có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật chất hữu cơ, cũng
như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay hệ sinh thái.
Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của các thảm cỏ của
các tác giả như: Iwaki (1979); Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự (1964,
1966). Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu về năng suất của các quần xã cỏ
trong rừng thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về năng

suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất đã được
tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay đồng cỏ cắt).
Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), … chỉ nghiên cứu một số cây
có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu tính sản lượng cỏ trong một
số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển chăn nuôi đại gia súc của một số
vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ
của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong
công trình nghiên cứu của ông đã đề cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng,
phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng suất
trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm thực vật
(savan – đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm dần dần theo
trình tự sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan” [10].
1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt Nam:
Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá bằng thành phần hoá học có trong
giống cỏ đó. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây
trồng, điều kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác, giai đoạn sinh trưởng. Đây là một chỉ
tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức
ăn, trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.
- Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt, theo thành
phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà thảo, trong đồng cỏ tồn tại một số loài cây
bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng được gia súc ăn. Tuy
nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo thời gian và theo từng kiểu
thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm sinh thái, với các giai đoạn sinh
trưởng, với thành phần thực vật, với chiều cao thảm cỏ và thành phần hoá học của
nó cùng các hình thức tác động của con người vào thảm cỏ.

Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả thời kì sinh
dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum, Paspalum conjugatum
và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị chăn thả giảm dần theo thời
gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và phần trăm chất xơ
trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè,
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài trong đó
giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium triquetum, một
số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ yếu ở phần thân như:
Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của một số quần xã có nhiều cây
họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như Carex, Rhynchospora, một vài loài
khác năng suất rất thấp [10].
- Thành phần hoá học của thực vật:
Giá trị dinh dưỡng của các loài cây cỏ quan hệ mật thiết với thành phần hoá
học của nó và với hàm lượng của các chất chứa trong chúng, đó là những chất rất
cần thiết cho sự hoạt động bình thường của động vật, cũng như sự vắng mặt của các
chất có hại đến sức khoẻ của động vật.
Thành phần hoá học có trong các giống cỏ tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó
là: vật chất khô (VCK), Protein, đường, chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự
(2004) đã tiến hành nghiên cứu và theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học
của một số loài chính trong đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
1.5 (trang 16) [10].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô, Protein,
đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ tiêu Protein
được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.5: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính
Tt


Tên khoa học
Tên Việt
Nam
%

ớc
%
Đạm
TS
%
Prôtêin

%
đạm
amin

%
lipit

%
ch
ất


ĐVTA
1

Ischaemum indicum

C

ỏ lông

76.7

1.954

7.86

1.379

1

8.8

0.19

2 Arundinella nepalensis

Cỏ xương 77.4

1.976

9.94 1.744

0.3 7.9

0.18

3


Cymbopogon caesius

C
ỏ sả

70.4

2.306

9.61

1.686

1.9

9.3

0.25

4 Imperata cylindrica Cỏ Tranh 74 1.945

9.747 1.71 1.1 8.8

0.25

5 Setaria viridis Cỏ sâu róm

67.5

2.1


1.6 10.3

0.27

6 Chrysopogon aciculatus

Cỏ may 64.4

3.1

0.6 8.3

0.3
7 Digitaria longiflora Cỏ chỉ 73.6

3.4

0.5 7.4

0.21

8

Digitaria decumbens

Pangôla




2.295

8.88

1.558







9 Paspalum urvillei Mộc châu

2.6 10.48 1.839


0.1
10

Fimbristylis annua

H
ọ cói



0.979

4.288


0.747








Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong thời gian
đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ bắt đầu đâm bông
và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục theo những khoảng thời gian
liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có thể ở mức tương đối cao nhưng như
vậy năng suất bị giảm nhiều.
1.2.6. Những nghiên cứu về động thái đồng cỏ
Nghiên cứu về động thái của quần xã tự nhiên đã được tiến hành từ lâu, nhiều
nhà sinh thái học Đông Âu như Raunkier, Warning và Braun-Blanquet có chiều
hướng coi đồng cỏ là một quần hợp tĩnh; theo Davies (1948) những “nhà sinh thái
tĩnh” này đã coi các nhân tố khí hậu và thổ nhưỡng là cơ bản nhất, trên thực tế do ảnh
hưởng của nhiều nhân tố sinh thái nên đồng cỏ luôn ở trạng thái thay đổi [14]. Tuy
nhiên, trong quá trình nghiên cứu các tác giả chỉ đề cập đến từng phần riêng biệt.
Phần trên mặt đất có các tác giả như: Kalininna (1954), Xemennova-Chian-Sanskia
(1960), Xemennova- Chian Sanskia và Nhiconskaia (1960). Phần dưới mặt đất có các
tác giả: Baranopskaia (1954), Krưm (1960), Xemenop (1966), Kharitonop (1967),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Garwood (1968), Igonachenko, Kirillova và Ponhiatopskaia (1968), … [9].
Theo Larin I.V (1965) khi nghiên cứu động thái thảm thực vật đồng cỏ ở miền

tây Cazacstan đã đưa ra 2 nhóm yếu tố làm thảm thực vật thay đổi là: động thái
ngoài (do tác động bên ngoài gây nên mà chủ yếu là khí hậu và con người) và động
thái trong (do tác động bên trong gây nên chủ yếu là giữa cây cỏ với nhau) [24].
Vưxosski G.N (1908, 1909, 1915) và Pachoski I.K (1917, 1921) khi nghiên cứu
ảnh hưởng của sự chăn thả đến thảm thực vật đã đi đến kết luận: chăn thả gia súc là
một trong những yếu tố quan trọng làm thay đổi thảm thực vật trên diện tích lớn.
Những thí nghiệm của Romaxep P.I (1934) và Lyupcaya A.F (1935) trên đồng cỏ ở
Nga cho thấy chăn thả có ảnh hưởng trực tiếp đến đất, qua đất đến thảm thực vật [24].
Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc cắt cỏ đến thành phần loài thực vật,
Dmitriep (1948) cho thấy nếu nhiều năm cắt cỏ vào đúng thời gian ra hoa của cỏ sẽ
làm thay đổi lớn thành phần loài thực vật trong đồng cỏ [24].
Dựa vào thời gian, khi nghiên cứu tác giả Lavrenco F.M (1938, 1940) đề nghị
chia những biến đổi của thực vật đồng cỏ thành những thay đổi hàng năm và những
thay đổi lâu năm. Đối với đồng cỏ chăn thả, những thay đổi ngắn hạn là quan trọng
nhất [24]. Còn Sennhicop A.P (1941) đã phân chia động thái mùa của thảm thực vật
thành 7 giai đoạn phát triển, nối liền với các thời kỳ ra hoa kết quả của một số cây
nhất định.
Theo Hoàng Chung (1974), Uchekhin (1977) đã nghiên cứu biến động mùa của
các quần xã và phân chia ra các kiểu thực vật theo phân bố không gian và thời gian.
Tính chất quan trọng của các quần xã thực vật có quan hệ mật thiết với cấu trúc không
gian và thời gian là năng suất. Đồng thời với nó là vấn đề tích luỹ và biến động của các
thành phần trong sinh khối của thực vật thuộc thảo, đặc biệt là trong thảo nguyên đồng
cỏ nó có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu không chỉ thảm thực vật mà trong quá trình mùn
hoá, quá trình tích luỹ và phân huỷ các hợp chất hữu cơ [9].
Ngoài ra, đất đồng cỏ là một yếu tố quan trọng làm thay đổi thảm thực vật
trong đồng cỏ. Ở đồng cỏ trên đất đầm lầy hay đất than bùn, khi đốt cỏ vào cuối
mùa xuân, mùa hè và mùa thu thấy thảm cỏ cháy đến tận phần chất khoáng, do đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18

đất càng bốc hơi mạnh và càng bị mặn [24].
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về động thái đồng cỏ còn rất ít. Hoàng Chung
(1980) đã nghiên cứu biến động mùa của quần xã cỏ vùng Bắc Việt Nam. Công
trình nghiên cứu của ông được bắt đầu từ năm 1975 đã đề cập đến đầy đủ các chỉ
tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, phần trên mặt đất và phần dưới mặt đất và đưa ra
những kết luận, những qui luật của động thái đồng cỏ vùng Bắc Việt Nam [9].
1.2.7. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
Trong thực tế hiện nay đồng cỏ luôn luôn bị thay đổi do tác động thường
xuyên của con người, vì đồng cỏ đã và đang là đối tượng hoạt động kinh tế nông
nghiệp của loài người. Làm sáng tỏ nguồn gốc của đồng cỏ và những quy luật biến
đổi của nó do tác động của loài người, là điều kiện cần thiết làm cơ sở cho những
biện pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái hoá của
đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau. Ở Liên Bang
Nga đã tích luỹ khá nhiều tư liệu của đới thảo nguyên và bán sa mạc: G.I.Vusoxki
(1915) đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực bì thảo nguyên dưới tác động của
chăn thả. Patrôtxki (1917) nghiên cứu đới nam của thảo nguyên Stipa longifolia,
ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác nhau. Nó bao gồm cả giai đoạn chăn
thả hay không chăn thả được.
G.I.Popov (1931) khi nghiên cứu thảm thực vật trong đới phụ thảo nguyên
Stipa, thuộc thảo nguyên nam Varonhet cho thấy các giai đoạn thoái hoá của thảm
thực vật do chăn thả.
V.V. Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía Bắc) của
thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do chăn thả ở đây
như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì stipa sẽ mất đi và thành phần hệ thực vật trở
nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng cá thể không nhiều,
thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên là Bromus. Sau nữa còn
lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát triển mạnh ở tầng trên là cây
Bromus riparius, tầng thấp là Festuca đồng thời trong vùng đó biểu hiện hai tầng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
rất rõ ràng; Bromus - Poa; cuối cùng chỉ còn lại Festuca, những sự chèn ép sau
này của thảm Cỏ qua hàng loạt những trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn
phân bố rộng rãi của bào tử thực vật trên thảo nguyên” [10]. Cũng trong thời kỳ
này, Gordiagin, Taliep, Keller đã nói rất nhiều về khả năng hình thành của thảm
thực vật thảo nguyên đồng cỏ trên đất rừng bị chặt hạ hay đất trống.
B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái hoá của
thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn đầu là sự chặt
hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.
A.V.Abramtruk; P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái hoá của
các quần xã cỏ do tác động của con người ông đã đề ra bảng thang bậc riêng gồm có
3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ thoái hoá do con người
tạo ra (1 - ít; 2 - trung bình; 3 - nhiều).
Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dước tác động của yếu tố do con
người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho nền kinh tế
và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn đề này cho đến
nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P; Taiton N.M và pleming G (1968); Dương Hữu Thời
(1981); Hoàng Chung (1981, 1983)
Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh. Đặc biệt
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố chủ yếu ở vùng
núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 - 40
0
), nên vấn đề thoái hoá của đồng cỏ do
chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện nay của các nhà nghiên cứu đồng
cỏ Bắc Việt Nam.
Những nghiên cứu về sự thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam hiện
nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề cập trong cuốn “Đồng cỏ Bắc Việt Nam”
khi phân tích thành phần loài và các điều kiện sinh thái của đồng cỏ đã đề cập đến 2
nguyên nhân của sự thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam là do cường độ chăn thả và

điều kiện khí hậu.
Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng cỏ ở
vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả không có kế

×