Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

tiểu luận môn đàn tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 27 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TIỂU LUẬN MÔN ĐÀN TRANH</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i><b>Chương 1: Nhạc cụ dân tộc Việt Nam</b></i>

<b>Phần 1: Đàn Tranh...trang 1Phần 2: Đàn Bầu...trang 8Phần 3: Đàn Tỳ Bà Việt Nam...trang 13</b>

<i><b>Chương 2: Thể loại âm nhạc truyền thống</b></i>

<b>Phần 1: Tuồng (Hát Bội)...trang 18Phần 2: Hát Xẩm...trang 20</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b>CHƯƠNG 1: NHẠC CỤ DÂN TỘC VIỆT NAM</b></i>

<b>Phần 1: Đàn Tranh 1.Nguồn gốc và xuất xứ </b>

Đàn tranh (chữ Nơm: 彈箏, tiếng Trung: 古箏; bính âm: Gǔzhēng, Hán Việt: cổtranh) - còn được gọi là đàn thập lục hay đàn có trụ chắn, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đơng, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy; ngoài ra họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn cịncó tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây (cổ tranhcủa Trung Quốc). Lịch sử của đàn tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc. Ngồi khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập và ngón đặc trưng nhất là vuốt trêncác dây và gảy dây,ngồi ra có cả dạng dùng vĩ kéo hay dùng que gõ. Đàn tranhlà nhạc khí dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát và được chơi trong nhiều thể loại âm nhạc như các dàn nhạc dân ca, kết hợp với những ca khúc của C-pop, nhạc Âu Mỹ,... Cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500 năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổtranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Có nhiều tài liệu khác nhau về cách cổ tranh xuất hiện. Cổ tranh Trung Quốc được phát minh bởi Mông Điềm, một vị tướng của triều đại Tần (221-206 trước Công nguyên), chịu ảnh hưởng lớn từ đàn sắt. Do đàn sắt tuy có 50 dây nhưng trọng lượng của nó vơ cùng nặng nên Mông Điềm mới nghĩ ra một loại nhạc cụ tương tự đàn sắt với kích thước nhỏ hơn đàn sắt, dễ di chuyển và khơng q khó khăn khi mang vác, ơng gọi thứ đàn đó là đàn tranh hay cổ tranh. Một số người tin rằng cổ tranh ban đầu được phát triển dưới dạng đàn tam giác bằng tre như được ghi lại trong thuyết văn giải tự, sau đó được thiết kế lại và làm từ những tấm gỗ cong lớn hơn và những con nhạn của đàn có thể di chuyển. Một truyền thuyết thứ ba nói rằng xuất hiện khi hai người song tấu với đàn cổ tranh loại 25 dây. Họ đã cải tiến nó thành 16, 17, 18 và 21 dây. Dây đã từng được làm bằng lụa, nhưng dây bằng lụa ngày nay chỉ có dịng đàn tranh của Triều Tiên mới sử dụng. Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây này chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

dây đàn đa vật liệu này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được. Tại Trung Quốc, có ít nhất nửa tá phong cách chơi cổ tranh theo trường phái khu vực riêng biệt; niên đại ít nhất là từ thời nhà Đường,tức là hơn 1.000 năm trước, có hai phong cách chơi đàn tranh riêng biệt: đàn tranh (弹筝, tức gảy đàn tranh với móng giả) và sưu tranh (搊筝 - chơi đàn tranh bằng đầu ngón tay).

Đàn cổ tranh được trưng bài tại một bảo tàng ở Trung Quốc Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang, trong đó huyện Bình Dương là cái nơi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây đàn được làm từ gân bò, trải qua công đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bị, tách sợi,phơi khơ nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa, thựctiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành công vàothời Quảng Đông kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm.

Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ đại. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, hội nghị chuyên đề Thanh Châu tỏa cầm do Nhạc viện Trung Quốc tổ chức đã được tổ chức tại Bắc Kinh, đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ ngành công nghiệp âm nhạc về một nhạc cụ đã biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

phát hiện và vẫn có một di sản kỹ năng sống động, làm cho lịch sử của các nhạc cụ dây Trung Quốc sớm hơn 1500 năm so với ở phương Tây. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép.Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền thống (传统) và cách tân (革新); có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được giấu trong hộp điều âm. Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng ở phía đôngQuảng Đông, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đơng Nam Á. Nó có một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của lịch sử, âmnhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị. Nhạc phẩm Hàn nha hí thủy (寒鸦戏水)được cho là kinh điển khi chơi với đàn tranh Triều Châu dây thép.

<b>2. Cấu tạo </b>

Đàn tranh gồm nhiều bộ phận

Hộp đàn: Hình hộp dài, chiều dài khoảng 110cm, đầu đàn hẹp khoảng 13cm vàcuối đàn rộng khoảng 20cm.

<b>Mặt đàn: Mặt đàn Tranh vồng lên tượng trưng cho vòm trời làm bằng gỗ xốp,</b>

nhẹ . Loại gỗ Tạ Thâm thường làm mặt Đàn Tranh là gỗ Ngô Đồng.

<b>Thành đàn: Làm bằng gỗ trắc, mun hoặc cẩm lai hoặc gỗ gụ.</b>

<b>Ðáy đàn: Dưới đáy đàn ở đầu rộng, phía tay phải người đánh đàn có một lỗ</b>

thốt âm hình bán nguyệt để lắp dây, ở giữa đàn có 1 lỗ hình chữ nhật để cầmđàn khi di chuyển và ở đầu hẹp có một lỗ tròn nhỏ để treo đàn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Cầu đàn: Ở đầu rộng, một cầu đàn bằng gỗ, hơi nhô lên và uốn cong theo mặt</b>

đàn có các lỗ nhỏ xếp hàng ngang có nạm hoặc cẩn kim loại để xỏ dây.

<b>Ngựa đàn: Trên mặt đàn có nhạn (ngựa đàn) tương ứng với số dây, các con</b>

nhạn để đỡ dây đàn và có thể di chuyển được để điều chỉnh độ cao thấp củadây. Để có độ bền và âm thanh tốt, các con nhạn thường làm bằng gỗ trắc hoặccẩm lai. Đầu các con nhạn ở vị trí đỡ các dây đàn thường được gắn thêm xươnghoặc đồng.

<b>Trục đàn: Ở đầu hẹp đàn Tranh có các trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên</b>

mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âmthanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gôc Cẩm Lai hoặcgỗ gụ.

Dây đàn: Dây đàn bằng thép hoặc inox với các loại cỡ dây khác nhau sao chophù hợp với tầm âm của cây đàn.

Đàn tranh thường phổ biến hai loại móng gảy đàn đó là móng guzheng vàmóng sắt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>Móng guzheng Móng sắt</b></i>

<b>3. Kĩ thuật chơi đànNgón dùng để gảy : </b>

Cách chơi truyền thống là dùng 2 ngón gẩy. Ngày ngay người chơi thườngdùng 3 ngón, một số trường hợp cá biệt dùng 4 – 5 ngón.

Cách dùng 3 ngón gẩy gồm ngón cái (ngón 1), trỏ (ngón 2) và giữa (ngón 3) làphổ biến nhất. Cách cách gẩy cơ bản gồm: Liền bậc, cách bậc, gẩy đi xuống vàđi lên liền bậc hoặc cách bậc. Thường dùng móng gẩy để gẩy nhưng riêng đànsắt thì khơng dùng mà gẩy bằng đầu bụng ngón tay.

<i><b>Kỹ thuật : </b></i>

<b>Ngón Á: Lối gảy phổ biến của đàn tranh, cũng như cổ tranh Trung Quốc. Kỹ</b>

thuật gảy ngón á là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc. Ngón Áhay vào ở phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh ở đầu hoặc cuối câunhạc.

<b>Á lên: Kỹ thuật lướt qua hàng dây. Kỹ thuật này vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón 3</b>

từ 1 âm thấp lên những âm cao.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Á xuống: Đây là lối gảy cổ truyền, gảy liền những âm liền bậc, từ 1 âm cao</b>

xuống những âm thấp. Có nghĩa dùng ngón cái tay phải lướt nhanh và đều quacác hàng dây, từ cao xuống thấp.

<b>Á vòng: là kỹ thuật được kết hợp từ Á lên và Á xuống. Kỹ thuật này thường</b>

dùng để mở đầu hoặc kết thúc một câu nhạc. Một số trường hợp, Á vịng đượcdùng để tả cảnh gió thổi, mưa rơi, sóng nước hoặc dùng ngón Á vịng liên tiếpvới nhiều âm.

Ngón vê dùng ngón tay phải ngón 2 hoặc kết hợp ngón 1 – 2 – 3, 1 – 3, 1- 2.Gảy trên dây liên tục, những ngón khác phải khum trịn lại. Cổ tay cần kết hợpvới ngón tay đánh xuống và hất lên đều đặn. Cần lưu ý, móng gảy khơng nênđặt q xuống xuống gây khi về đề móng gảy. Bởi sẽ tạo ra tiếng đàn khôngđều đặn và êm ái.

Song thanh: Tức 2 nốt cùng phát một lúc. Kỹ thuật song thanh truyền thống chỉdùng quãng 8. Hiện nay, các nhạc sĩ còn kết hợp dùng những quãng khác.

<b>Kỹ thuật bàn tay trái : </b>

<i><b>Tư thế:</b></i>

Đầu 3 ngón tay giữa đặt lên trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, còn ngóntay hơi khum. Hai hoặc 3 ngón tay gồm trỏ, giữa và đeo nhẫn chụm lại. Ngóntay cái và ngón út tách rời, dáng của bàn tay vươn về phía trước.

Mỗi khi rung, nhấn, bàn tay sẽ được nâng lên mềm mại và ba ngón chụm lại sẽcùng di chuyển từ dây này sang dây khác.

<i><b>Kỹ thuật:</b></i>

<b>Ngón rung: Sử dụng 1, 2 hoặc 3 ngón tay trái rung nhẹ lên sợi dây đàn mà tay</b>

phải mới gảy.

<b>Ngón nhấn: Dùng để đánh thêm được các âm khác. Chẳng hạn như 1/2 âm,</b>

1/3 âm, 1/4 âm mà hệ thống của dây đàn tranh khơng có.

Sử dụng 3 đầu ngón tay trái nhấn xuống nhẹ 1/2 cung, nặng hơn nếu là 1 cung.Cách nhấn nặng hay nhẹ phụ thuộc vào yêu cầu của bài. Người nghệ nhân phảidùng tai nghe để cảm âm rồi điều chỉnh tay nhấn.

<b>Ngón nhấn luyến: Dùng những ngón nhấn để luyến 2 – 3 âm có độ cao khác</b>

nhau. Âm thanh khi sử dụng kỹ thuật này nghe mềm mại, mượt mà và uyểnchuyển gần với thanh điệu của tiếng nói. Ngón nhấn luyến có hai loại, gồm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

-Nhấn luyến lên: Gảy vào 1 dây để vang lên. Tay trái nhấn dần lên dây đó đểâm thanh được cao hơn hoặc tiếp tục nhấn để cao hơn nữa.

-Nhấn luyến xuống: Kỹ thuật này cần phải mượn nốt. Chẳng hạn như nếu bạnmuốn có âm Fa luyến xuống âm Rê thì cần phải mượn dây Rê nhấn mạnh trướcrồi mới gảy. Âm Fa ngân lên, ngón tay trái nới dần để âm Rê của dây đó vangtheo luyến tiếng cùng với âm Fa.

Để đánh âm nhấn luyến xuống hay lên thì chỉ cần gảy một lần. Độ ngân của cácâm nhấn luyến được ghi như những nốt nhạc bình thường.

Ngón nhún: Nhấn liên tục trên 1 dây nào đó để âm thanh cao lên khơng quá 1cung liền bậc. Kỹ thuật ngón nhún sẽ tạo thành các làn sống có dao động lớnhơn ở ngón rung giúp âm thanh được mềm mại, tình cảm sâu lắng hơn.Ngón vỗ: Dùng 2 – 3 đầu ngón tay trỏ, giữa và áp út vỗ lên một dây nào đó bêntrái nhạn đàn vừa được gảy. Sau đó nhấc ngay các ngón tay lên để âm thanhcao lên đột ngột từ 1/2 cung – 1 cung. Có 2 loại vỗ, gồm:

- Vỗ đồng thời : Cùng lúc tay phải gảy dây, tay trái vỗ để nghe được 2 âm. Âmphụ do ngón ta trái vỗ sẽ cao hơn 1/2 – 1 cung luyến nhanh ngay xuống âmchính

-Vỗ sau: Tay phải gảy dây đàn xong, tay trái mới vỗ lên dây. Như vậy sẽ tạo ra3 âm luyến, âm luyến 1 do tay phải gảy lên dây. Âm luyến 2 do ngón vỗ tạonên và cao hơn âm luyến 1 từ 1/2 – 1 cung, âm luyến thứ 3 do ngón tay vỗxong rồi nhấc lên ngay, dây đàn trở lại trạng thái cũ. Âm thanh còn lại sẽ vanglên dựa trên độ căng của dây đó lúc ban đầu.

Ngón vuốt: Tay phải gảy đàn sau đó dùng 2 – 3 ngón tay trái vuốt lên dây đànđó từ nhạn ra đến trục dây hoặc người lại. Cách đánh này sẽ làm tăng sức căngcủa 1 dây liên tục và đều đặn. Âm thanh của đàn tranh khi đánh theo kỹ thuậtnày sẽ được nâng lên từ 1/2 – 1 cung.

Ngón gảy tay trái: Ngón tay trái có thể gảy dây trong phạm vi phía bên tay phảicủa nhạn đàn để thay đổi màu sắc, âm thanh. Tay trái khơng đeo móng gảy nênkhi gảy âm thanh sẽ êm và không vang bằng âm tay phải gảy. Để tạo chồng âmcó thể gảy bằng cả hai tay. Tuy nhiên, tay trái gảy âm rãi trong khi tay phảidùng ngón vê hoặc đang nghỉ.

Ngón bịt chính là ngón vừa dùng ngón tay phải gảy dây, vừa dùng đầu ngón taytrái đặt nhẹ lên trên dây đàn hoặc chặn tay trái lên trên đầu nhạn đàn khi gảy 1nốt. Nếu gảy cả 1 đoạn nhạc với âm bịt thì người gảy dùng cạnh bàn tay phảichặn nhẹ lên đầu đàn, sử dụng tay trái gảy thay cho tay phải. Khi gảy ngón bịtthì âm thanh mờ đục, khơng vang. Điều này sẽ gây được ấn tượng tương phảnsắc nét với đoạn nhạc đánh bình thường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>4. Đàn tranh được sử dụng trong các loại hình âm nhạc:</b></i>

Đàn tranh là nhạc khí dùng để độc tấu, hịa tấuđệm cho hát và được dùng trong nhiều thể loại âm nhạc như các dàn nhạc dân ca, kết hợp với những ca khúc củaC-pop, nhạc Âu Mỹ,...

<i><b>Phần 2: Đàn Bầu</b></i>

<i><b>1. Nguồn gốc và xuất xứ:</b></i>

Đàn bầu (chữ Nôm: 彈匏) hay độc huyền cầm (giản thể: 独弦琴; phồn thể: 獨弦琴; bính âm: dúxiánqín) nghĩa là đàn một dây), là một loại nhạc cụ truyền thống của người Việt, thanh âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân trevà đàn hộp gỗ.

Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam. Các nhạc sĩ Việt Nam đã biên soạn và chuyển soạn một số tác phẩm dạng concerto để nghệ sĩ sử dụng đàn bầu trình tấu cùng với dàn nhạc giao hưởng thính phịng như Vì Miền Nam, Ru con, Tình ca... Đàn bầu khơng chỉ được người Việt Namưa thích mà cịn được nhiều khán-thính giả trên thế giới hâm mộ.[1] Đàn bầu được du nhập tới Trung Quốc bởi tộc người Kinh di cư từ vùng Đồ Sơn, Hải Phòng sang vùng đất Tam đảo (trước đây thuộc Việt Nam, sau Công ước Pháp – Thanh 1887 vùng này thuộc Trung Quốc) từ khoảng 500 năm trước.

<i><b>2. Cấu tạo:+ Phân loại:</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Đàn thân tre thường dùng cho người hát xẩm hoặc những nơi khó khăn, khơng có điều kiện chế tác tỉ mỉ, chi tiết. Thân đàn làm bằng một

đoạn tre hoặc bương dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn là chỗ đã được lóc đi một phần cật thích hợp trên đoạn tre hoặc bương. Loại này ít phổ biến.

Đàn hộp gỗ là loại đàn cải tiến, có tính năng ưu việt hơn, thường do các nghệ sĩchuyên nghiệp sử dụng. Đàn hộp gỗ có nhiều hình dáng, kích thước khác nhau, thường làm bằng loại gỗ nhẹ, xốp như gỗ ngô đồng... Loại đàn bằng

gỗ vông được dùng phổ biến nhất.

<i><b>+ Cấu tạo:</b></i>

Đàn bầu gồm các bộ phận căn bản sau:

– Thân đàn: Ðàn Bầu hình hộp dài, đầu đàn hơi cao và thuôn hẹp hơn cuối đàn. Mặt đàn bằng gỗ hơi phồng lên, chung quanh thành đàn làm bằng gỗ cứng. Ðáy kín nhưng có kht lỗ vng ở cuối đàn, dùng để mắc dây và thoát âm.

Thân đàn bầu Khảm trai ( Trung tâm Âm nhạc truyền thống Thăng Long )– Vịi đàn (cần đàn): Phía đầu đàn có một cọc tre cắm từ mặt đàn xuống đáy gọi là vòi đàn. Ðầu vòi đàn nhỏ dần và uốn cong trịn về phía trái ngồi đầu đàn. Có người vót sừng trâu làm vịi đàn. Trước khi cắm vịi đàn vào mặt đàn, người ta cho nó xun ngang qua bầu cộng hưởng.

– Bầu cộng hưởng: Là một vỏ cứng của quả bầu, có nơi thay bằng gáo dừa và ngày nay bầu cộng hưởng được làm bằng gỗ. Một sợi dây có độ đàn hồi tốt căng từ đầu của hộp đàn kéo dài tới cần (vòi) đàn chỗ cắm qua vỏ bầu cộng hưởng. Từ nơi mắc dây đến vịi đàn tạo góc 30o. Như vậy là đầu dây mắc chéo xuống chứ không song song với thân đàn như một số nhạc cụ, đặc biệt đàn chỉ duy nhất một dây và khơng có các phím. Ðàn Bầu điện có gắn thêm một bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

phận cảm âm điện tử, nối liền với bộ phận khuyếch đại của máy tăng âm và loa.

– Dây đàn: Dây kim khí mắc từ trục lên dây, chui qua một lỗ nhỏ ở cuối mặt đàn, kéo chếch lên buộc vào vòi đàn, chỗ miệng loe của bầu cộng hưởng.– Bộ phận lên dây: Một trục gỗ xuyên ngang hai bên thành đàn (ở phía cuối thân đàn) gắn một bộ phận lên dây bằng kim loại để mắc dây và lên dây. Bộ phận lên dây được cải tiến để dây không bị chùng xuống.

– Que gảy đàn: Là một cái que nhỏ, ngắn và nhỏ hơn chiếc đũa, đầu vót nhọn hoặc hơi tròn tùy yêu cầu biểu diễn. Que đàn trước đây làm bằng tre, nay làm bằng cây Giang (họ tre mây). Nếu que gảy cứng quá hay bị vấp, còn mềm quá thì dễ gãy. Que gảy ngắn: tiếng mềm mại, trữ tình khi tremolo ở một bậc cao hay trên cùng một phím thì tiếng đàn nét rõ hơn. Que gảy dài: tiếng thô nhưng khỏe và chắc, đầy đặn. Ngày xưa hay dùng que dài khoảng 10cm, ngày nay vớinhiều kỹ thuật diễn tấu nhanh nên người ta hay dùng que ngắn chừng 4-4.5cm.– Bộ phận khuyếch đại: Bầu cộng hưởng sau này của Ðàn Bầu được thay thế bằng gỗ chứ không bằng ống bương và vỏ quả bầu khô như trước. Một bộ phậncảm âm điện tử được đặt trong đàn, gần chỗ mắc bộ phận lên dây, từ bộ phận cảm âm này sau đó được nối liền vào bộ phận khuyếch đại âm thanh điện tử (máy tăng âm và loa) để phát ra tiếng Ðàn Bầu.

Ngồi đàn bầu tre, ta cịn được thấy đàn bầu bằng gỗ, được chạm khắc rất tinh tế và điêu luyện.

<i><b>3. Các kĩ thuật diễn tấu:</b></i>

Thông thường nhất là đàn bầu đặt trên một cái bàn nhỏ (thường là hộp đàn có lắp 4 chân rời, trên mặt giá có 2 chỗ chặn để khi kéo đẩy cần đàn, đàn không bịdi chuyển theo. Khi ngồi khoanh chân trên chiếu để đàn thì đầu gối chân mặt phải tì vào cạnh mặt đàn nhằm giữ cho cây đàn khỏi bị xê dịch. Ngày nay, các nghệ sĩ thường dùng tư thế đứng hoặc ngồi trên ghế để diễn tấu. Khi dó, đàn được đặt trên giá gỗ có các chốt định vị có độ cao tương ứng với vị trí ngồi của nghệ sĩ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>Sử dụng tay trái trên cần đàn và dây đàn </b>

Ngón rung: Khi khảy dây, các ngón tay trái rung nhẹ cần đàn, âm thanh sẽ phát ra tự như làn sóng thì ta có ngón rung. Ngón rung rất quan trọng vì khơng những nó làm cho tiếng đàn mềm mại mà nó cịn thể hiện phong cách của bản nhạc. Với các bài buồn, hoặc bài vui, ta phải rung theo những âm đã được quy định.

Ngón vỗ: Vỗ ngón cái, vỗ ngón trỏ tạo ra âm thanh hãm và thăng giáng liên tục, ngắt quãng do dao động âm tắt nhanh. Theo nghệ sĩ nhân dân Thanh Tâm thì ngón vỗ thường diễn tả tình cảm đau khổ, uất ức, nghẹn ngào.

Ngón vuốt: miết ngón tay vào cần đàn để tạo độ trượt qua các thang âm và dừng lại ở thang âm quy định trong bản nhạc.

Ngón luyến: kéo thẳng cần tăng hoặc giảm tới âm quy định

Ngón tạo tiếng chng: Nhấn cườm tay vào dây đàn để hãm bớt âm chính và tạo ra âm bội trên âm chính có sẵn. v.v.

<i><b>4.Đàn Bầu được sử dụng trong các loại hình âm nhạc:</b></i>

Đàn bầu là nhạc cụ không thể thiếu trong dàn nhạc cổ truyền dân tộc: nhị, thậplục, tam thập lục, đàn tranh, sáo trúc với những hình thức diễn tấu như: hịa tấu đồng thời đàn bầu cũng có thể hịa tấu với các nhạc cụ hiện đại một cách nhuầnnhuyễn.

<i><b>*Sự phát triển của Đàn Bầu trong đời sống âm nhạc dân tộc:</b></i>

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×