Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Các thể thơ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.8 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Các thể thơ Việt Nam phổ biến</b>

<b>I. Cách xác định thể thơ</b>

Để xác định thể thơ thuộc loại thơ nào, bạn cần xác định rõ cấu trúc, nhịp điệu vàphép tu từ được sử dụng trong bài thơ. Chẳng hạn như: thơ lục bát có cấu trúc 8 câu,mỗi câu có 6 chữ cái và nhịp điệu ABABABCC. Thơ chữ thập có cấu trúc 4 câu, mỗicâu có 4 chữ cái và nhịp điệu ABCB. Thơ tự do khơng có cấu trúc hoặc nhịp điệu cụthể.

Ngồi ra, bạn cũng có thể xác định và nhận biết các thể thơ qua phép tu từ. Chẳng hạnnhư: thơ cổ điển thường sử dụng các phép tu từ như chữ huyền, chữ nặng và chữ nhẹđể tạo ra hiệu ứng nghệ thuật. Thơ tự do thường sử dụng các phép tu từ tự do vàkhơng có quy tắc cụ thể.

Tóm lại, bạn muốn xác định bài thơ đó thuộc thể thơ nào thì cần phải xem xét cách bốtrí các câu thơ trong bài thơ đó. Những câu thơ được bố trí nhất định thì bạn có thể dễdàng nhận biết được bài thơ đó thuộc thể loại thơ nào.

Vì vậy, để xác định thể thơ của một bài thơ, ta cần phải quan sát cách bố trí các câuthơ trong bài thơ đó. Nếu các câu thơ được bố trí theo một cách nhất định, ta có thểxác định được thể thơ của bài thơ đó thuộc thể loại thơ nào.

<b>II. Các thể thơ thường gặp1. Thể thơ lục bát</b>

Là một trong những thể thơ lâu đời nhất của dân tộc. Thơ được đặc trưng bởi các cặpthơ gồm một câu thơ 6 chữ và một câu thơ 8 chữ, được sắp xếp nối tiếp và xen kẽ vớinhau. Thông thường câu lục sẽ mở đầu bài thơ và câu bát dùng để kết bài. Một bài thơlục bát không giới hạn số lượng câu. Thể lục bát xuất hiện nhiều nhất là ở các bàiđồng dao, ca dao hay trong lời mẹ ru.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Ví dụ:

<i>“Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau</i>

<i>Trải qua một cuộc bể dâu</i>

<i>Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”(Truyện Kiều – Nguyễn Du)</i>

<b>2. Thơ song thất lục bát</b>

Thơ song thất lục bát là thể thơ truyền thống do dân tộc Việt Nam sáng tạo nên. Ở thểthơ này, ta sẽ thấy cấu trúc gồm hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Ở thể thơnày cũng không giới hạn số lượng câu.

<b>Quy luật</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

● Câu 7 chữ ở trên: chữ thứ 3, 5 và 7 sẽ theo quy luật là T – B – T

● Câu 7 chữ ở dưới: ngược lại với quy luật ở trên, chữ thứ 3, 5 và 7 theo quy luật B – T – B

<b>Cách gieo vần</b>

Tiếng cuối của câu bảy chữ ở trên hiệp với tiếng thứ 5 của câu bảy chữ ở dưới. Tiếngcuối của câu bảy chữ ở dưới lại hiệp với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câulục lại hiệp với tiếng thứ 6 của câu bát. Cứ như vậy cho tới kết thúc bài thơ.

<i>(Chinh Phụ ngâm – Đặng Trần Cơn, Đồn Thị Điểm)</i>

Cách nhận biết thể thơ này là dựa vào số lượng chữ trong từng câu thơ của mỗi đoạnthơ. Cấu trúc mỗi đoạn thơ sẽ bao gồm hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát.Thể thơ này không giới hạn số lượng câu trong một bài thơ.

Cách gieo vần của thể thơ song thất lục bát như sau: Tiếng cuối của câu 7 chữ ở trênsẽ hiệp vần với tiếng thứ 5 của câu 7 chữ ở dưới. Tiếng cuối của câu 7 chữ ở dưới tiếptục hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câu lục hiệp vần với tiếng thứ6 của câu bát. Tương tự, tiếp tục gieo vần cho đến hết bài thơ.

Một số tác phẩm văn học tiêu biểu có sử dụng thể thơ song thất lục bát là:

<i>“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i>Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.Ngàn dâu xanh ngắt một màu,Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”</i>

<i>(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Cơn, Đồn Thị Điểm)“Có hoa nào qua mùa khơng héo?</i>

<i>Có tiếng nào giàu đẹp hơn khơng?Mắt em là một dịng sơng</i>

<i>Thuyền anh bơi lội giữa dịng mắt em.”(Đôi mắt – Lưu Trọng Lư)</i>

<i>“Em nhớ mãi chiều thu lá đổMình bên nhau cạn tỏ nguồn cơnChạnh lịng anh vọng lời thươngXa xa vẳng tiếng nghe dường nỉ non.”</i>

<i>(Thuyền neo bến đậu – Hoàng Mai)</i>

<b>3. Thơ đường luật</b>

Thơ đường luật là một thể thơ cổ bắt nguồn từ Trung Quốc. Khi được du nhập vàoViệt Nam, ông cha ta đã có sự kế thừa những tinh hoa của thể thơ này và kết hợp vớinhững yếu tố thuần Việt.

<b>Quy luật</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Tính quy luật của thể thơ này vô cùng nghiêm ngặt và không thể bị phá vỡ. Số chữtrong một câu và số câu trong cả bài thơ sẽ quyết định quy luật của bài thơ:

- Thể thất ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu có 7 chữ)Ví dụ:

<i>“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủChịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng</i>

<i>Cơ em xóm núi xay ngơ tốiXay hết lị than đã rực hồng”</i>

<i>(Chiều tối – Hồ Chí Minh)</i>

- Thể thất ngơn bát cú đường luật (gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ): Cấu trúc là 2 câuđầu (mở đề và vào đề), câu 3 và 4 (câu thực), câu 5 và 6 (câu luận), câu 7 và 8 (câukết)

Ví dụ:

<i>“Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoaLom khom dưới núi, tiều vài chú</i>

<i>Lác đác bên sông, chợ mấy nhàNhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia giaDừng chân đứng lại, trời non nước</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Một mảnh tình riêng, ta với ta.”(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)</i>

- Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ)Ví dụ:

<i>Đoạt sóc Chương Dương độ,Cầm Hồ Hàm Tử quan.</i>

<i>Thái bình tu nỗ lực,Vạn cổ thử giang san.</i>

<i>(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)</i>

<b>4. Thể thơ bốn chữ</b>

Là thể thơ mà mỗi câu thơ gồm 4 chữ, trong bài không giới hạn số lượng câu.

Trong các loại thể thơ của nước ta, thể thơ bốn chữ có thể được xem là một trongnhững thể thơ đơn giản nhất. Quy luật sử dụng thể thơ này cũng tuân theo luật bằngtrắc như các thể thơ khác: Chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu thơ có sự luân phiên giữaT – B hoặc B – T.

<b>Quy luật</b>

Luật bằng – trắc trong thể thơ này là: chữ thứ 2 và chữ thứ 4 có sự luân phiên T – Bhoặc B – T

<b>Cách gieo vần</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Thể thơ bốn chữ có cách gieo vần khá linh hoạt, có thể hiệp vần chéo, vần bằng, vầnliền, vần chân, vần lưng…

Thể thơ bốn chữ có cách gieo vần rất linh hoạt. Tùy theo dụng ý, mục đích của mìnhmà người viết có thể gieo vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, hay vần lưng…Điều này sẽ tạo nên điểm nhấn về nhịp điệu trong từng câu thơ.

Một số tác phẩm văn học tiêu biểu có sử dụng thể thơ bốn chữ là:

<i>“Mùa xuân đi rồiNhiều hoa vắng mặt</i>

<i>Như chị hoa đàoRa đi trước nhất(Hoa cỏ – Tế Hanh)</i>

<i>“Em bước vào đâyGió hôm nay lạnh</i>

<i>Chị đốt than lên</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>Để em ngồi cạnh.”(Chị em – Lưu Trọng Lư)</i>

<i>“Chú bé loắt choắt,Cái xắc xinh xinh,Cái chân thoăn thoắt,Cái đầu nghênh nghênh,</i>

<i>Ca-lô đội lệch,Mồm huýt sáo vang,Như con chim chích,Nhảy trên đường vàng…”</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏi</i>

<i>Nghe gọi về tuổi thơ”(Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Củi một cành khô lạc mấy dòng(Tràng giang – Huy Cận)</i>

<b>8. Thể thơ tám chữ</b>

Thể thơ có các câu gồm 8 chữ, bài thơ khơng giới hạn về số lượng câu.

Quy luật bằng trắc: Tiếng cuối và tiếng thứ 3 có vần trắc thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6là vần bằng và ngược lại.

Cách gieo vần: vần ơm, vần chéo và vần tiếpVí dụ:

<i>Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà</i>

<i>Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất taĐuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ</i>

<i>(Nguyễn Khoa Điềm – Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)</i>

<b>9. Thể thơ tự do</b>

Là thể thơ hiện đại, thể hiện được sự cái tôi và sự phá cách, sáng tạo của người thi sĩ.Trong một bài thơ tự do, số chữ trong câu, số câu trong một khổ và số lượng khổ thơcủa toàn bài đều không bị giới hạn. Các quy luật về hiệp vần, bằng trắc cũng vô cùnglinh hoạt, tùy theo cảm xúc và chủ ý của người viết.

Ví dụ:

<i>“Dữ dội và dịu êm</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>Ồn ào và lặng lẽSơng khơng hiểu nổi mình</i>

<i>Sóng tìm ra tận bể”(Sóng – Xuân Quỳnh)</i>

<b>10. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật</b>

Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật là một thể thơ ra đời vào thế kỉ XII vào thời nhàĐường ở Trung Quốc, sau đó du nhập vào Việt Nam. Trong thể thơ này, mỗi bài thơ sẽ có 4 câu, mỗi câu lại có 7 chữ. Về quy luật sử dụng, thứ tự của bốn câu thơ trong bài phải tuân theo kết cấu: Khai, thừa, chuyển, hợp. Trong thể thơ này, tiếng thứ 2 củacâu thứ nhất sẽ quy định luật cho cả bài thơ. Ví dụ: Nếu tiếng thứ 2 ở câu thứ nhất có thanh bằng thì luật của cả bài sẽ là luật B.

Cách để nhận biết thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật đó là dựa vào số lượng chữ trong một câu thơ và số lượng câu trong bài, kết hợp với quan sát quy luật sử dụng củacả bài thơ.

Đây là một trong những thể thơ Đường luật có cách gieo vần được quy định rõ ràng vàchi tiết. Thể thơ này có thể chỉ dùng một vần duy nhất (độc vận) cho toàn bài, hoặc kếthợp nhiều vần (liên vận). Đan xen là các thanh bằng – trắc. Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật về luật niêm và vần như sau:

Về niêm: Các câu theo hàng dọc phải niêm với nhau (giống nhau về thanh)

Về gieo vần: Các câu 1, 2, 4 hoặc câu 2 và 4 trong bài sẽ hiệp vần với nhau ở chữ cuốiMột số tác phẩm văn học tiêu biểu có sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật là:

<i>“Nam quốc sơn hà Nam Đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thư</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”(Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt)“Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu</i>

<i>Đơi mình cách trở bởi vì đâuCanh tàn khắc lụn hồn tê táiĐối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu.”</i>

<i>(Hoàng Thứ Lang)</i>

<i><b>11. Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật</b></i>

Thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ mà mỗi bài có 8 câu, mỗi câu chỉ có 7 chữ. Thể thơ này xuất hiện rất sớm tại Trung Quốc, đến thời nhà Đường thì mới được đặt tên gọi và quy định cụ thể. Đây cũng là thể thơ được sử dụng để tuyển chọn nhân tài dưới các triều đại phong kiến.

Về quy luật sử dụng, thể thơ này tuân theo quy luật bằng – trắc như sau: “Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh” và xen kẽ nhau. Nghĩa là nếu tiếng thứ 2 là thanh bằng thì tiếng thứ 4 là thanh trắc, tiếng thứ 6 thanh bằng, và ở câu thơ tiếp theo thì ngược lại. Cấu trúc của một bài thơ là: Đề, Thực, Luận, Kết.

Cách nhận biết thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật là dựa vào số lượng chữ trong câu,số lượng câu trong một bài và cách sắp xếp các thanh bằng – trắc theo quy luật như trên.

Về cách gieo vần, thất ngôn bát cú Đường luật được quy định chặt chẽ về niêm và vần. Các tiếng ở cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8 sẽ hiệp vần bằng với nhau.

Một số tác phẩm văn học tiêu biểu có sử dụng thể thơ thất ngơn bát cú Đường luật là:

<i>“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>Lom khom dưới núi tiều vài chú,Lác đác bên sông rợ mấy nhà.Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,</i>

<i>Thương nhà, mỏi miệng cái da da.Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,</i>

<i>Một mảnh tình riêng, ta với ta.”(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)</i>

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×