Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

đề tài tác động của chính sách thuế xanh đến hành vi tiêu dùng xanh của hộ gia đình theo thu nhập trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.28 KB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>1.Lý do chọn đề tài</b>

Mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam hướng tới là tăng trưởng bền vững,có hiệu quả, đi đơi với cơng bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Do vậy,chuyển đổi mơ hình tăng trưởng theo hướng xanh đã trở thành đường lối, quan điểmvà chính sách xuyên suốt của Nhà nước và thuế xanh đã, đang trở thành một trongnhững công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu đó. Thật vậy, sự ra đời của Luật thuếBVMT số 57/2010/QH12 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cách thức tiếp cận về sửdụng các công cụ kinh tế cho mục tiêu bảo vệ môi trường, với mục tiêu đánh thuế vàocác đối tượng gây ô nhiễm môi trường, góp phần thay đổi nhận thức của con người đốivới môi trường, huy động thêm nguồn lực cho ngân sách nhà nước để khôi phục môitrường sinh thái, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng đến mơitrường. Tuy nhiên, sự thiếu đồng bộ của chính sách thuế đã cản trở các doanh nghiệpvà chính người tiêu dùng hướng tới sản xuất và tiêu dùng xanh. Khi nói đến sự tiêu thụtúi ni lơng thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường, ở Việt Nam, trung bình mỗi hộ giađình sử dụng khoảng một kg túi nilon mỗi tháng và hơn 80% bị thải bỏ sau khi dùng

<i>một lần theo báo cáo của (Nguyễn Ngọc Hùng, 2021) thì ước tính số lượng túi nilon</i>

tiêu thụ là 26,9 triệu kg túi mỗi tháng, gấp hơn 92 lần kg túi bị thu thuế. Điều này chothấy, việc áp dụng thuế khơng có hiệu quả cao trong ngăn chặn tiêu dùng mặt hàngnày. Hơn nữa, mức thuế phí cịn q thấp, khơng tạo cơng bằng trong đóng góp tàichính cho công tác bảo vệ môi trường nên chưa khuyến khích các doanh nghiệp đầu tưnhiều vào việc xử lý nước thải nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Chi phí của cácdoanh nghiệp phát triển theo mơ hình xanh quá cao khiến sản phẩm của họ khi đượcđưa ra thị trường có tính cạnh tranh cịn thấp, khi người tiêu dùng chỉ quan tâm đến giácả mà không thực sự để ý quá trình sản xuất.

Trong thời đại cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, sự phát triển nhanh chóng củakinh tế đi đơi với sự cạn kiệt và suy thối mơi trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sứckhỏe và chất lượng cuộc sống của người dân (Nguyễn Thị Hải Bình, Phạm Thị ThuHồng, 2022). Để giải quyết vấn đề trên và cải thiện tình hình, các quốc gia đã triểnkhai chính sách thuế xanh (Ahmed & cộng sự, 2022), được đưa ra như một cơng cụchính sách để góp phần giảm thiểu phát thải ơ nhiễm (Lê Thị Kim Oanh, 2021). TạiViệt Nam, chính sách thuế xanh đã được triển khai có tác động tích cực đến hành vitiêu dùng xanh của người dân (Zheng & cộng sự, 2023), nhưng mức độ tác động còn

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

phụ thuộc vào một số yếu tố, như ý định mua sản phẩm xanh (Nguyễn Thị Minh Hòa& Hà Tuấn Anh, 2020), chủ nghĩa vật chất (Nguyễn Thị Tuyết Mai & cộng sự,2019), ... Xu hướng tìm hiểu về những chính sách này của người dân được dự báo sẽđược sự quan tâm trong thời gian tới. Liên quan đến chủ đề này, ở Việt Nam đã cónhiều nghiên cứu phân tích, tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức và hành vitiêu dùng xanh để đáp ứng nhu cầu của người dân (Deng & Huang, 2020; Nguyễn ThịMinh Hòa & Hà Tuấn Anh, 2020) ... Trong đó, thay đổi hành vi tiêu dùng là một yếutố cực kỳ quan trọng trong việc giảm phát thải nhà kính (Filipiak & Wyszkowska,2022), đặc biệt ở trong hộ gia đình (Zhou, 2022). Các nhóm cơng cụ kinh tế cũng đãđược áp dụng hiệu quả nhằm phát thải khí nhà kính ở một số nước phát triển và đangphát triển trên thế giới , nhằm đạt được sự cân bằng giữa các mục tiêu bảo vệ môitrường (Lê Ánh Ngọc & cộng sự, 2020).

Hiện nay, ở các nước phát triển đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến chínhsách thuế xanh nhằm phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc triển khai thuế xanh ở các

<i>nước đang phát triển còn hạn chế (Tchorzewska & cộng sự, 2022), trong đó có Việt</i>

Nam. Một trong những hạn chế là rất ít nghiên cứu tập trung vào vấn đề cụ thể và chưacung cấp được những bằng chứng thực nghiệm đầy đủ về tác động của thuế xanh đếnhành vi tiêu dùng theo nhóm các đối tượng.

Như vậy nghiên cứu này có sự khác biệt là tập trung xác định tác động của thuếxanh đến hành vi tiêu dùng xanh của nhóm đối tượng thu nhập trong hộ gia đình thơngqua các mơ hình và giả thuyết cụ thể. Chính vì vậy, chúng em chọn dự án nghiên cứu

<i><b>với đề tài “Tác động của chính sách thuế “xanh” đến hành vi tiêu dùng xanh củahộ gia đình theo thu nhập trên địa bàn Hà Nội” nhằm giúp hộ gia đình biết, hiểu rõ</b></i>

các yếu tố của thuế xanh, từ đó thay đổi hành vi tiêu dùng theo hướng xanh hơn, gópphần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

<b>2. Tổng quan tình hình nghiên cứu</b>

Thuế mơi trường hay cịn được gọi là thuế “xanh” được đề xuất dựa trên cơ sởlý luận là thuế này sẽ làm giảm được ô nhiễm gây ra bởi hoạt động sản xuất hoặc tiêudùng (Baumol W.J. và W.E. Oates, 1988).

Chính sách thuế “xanh” có tác động tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh. Khigiá của các sản phẩm/dịch vụ gây ơ nhiễm tăng lên do có thuế mơi trường, người tiêudùng sẽ có xu hướng lựa chọn các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với môi trường hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

(Nguyễn Thị Hải Bình & Phạm Thị Thu Hồng, 2022) và (Lê Thị Kim Oanh, 2021) đềusử dụng phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp để kiểm tra tác động của thuế môitrường đến hành vi tiêu dùng xanh tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuếmơi trường có tác động tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh, thể hiện ở việc người tiêudùng có xu hướng lựa chọn các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với môi trường hơn khigiá của các sản phẩm/dịch vụ gây ô nhiễm tăng lên. Tuy nhiên, trong khi (Nguyễn ThịHải Bình & Phạm Thị Thu Hồng, 2022) chỉ ra rằng sự thay đổi trong hành vi củangười tiêu dùng hướng đến các sản phẩm xanh là do ảnh hưởng bởi sự biến động củagiá cả khi có thuế xanh, phản ứng và đặc trưng của doanh nghiệp, nhận thức của ngườitiêu dùng trước chất lượng môi trường và cuộc sống thì (Lê Thị Kim Oanh, 2021) đisâu vào phân tích sự ảnh hưởng của chính sách thuế xanh theo hai hình thức: gián tiếpvà trực tiếp, từ đó chỉ ra những tác động nhất định của hai hình thức đến phản ứng củangười tiêu dùng và chọn ra phương án khả thi hơn là đánh thuế gián tiếp. Trong khi đó,(Lê Ánh Ngọc & cộng sự, 2020) chỉ tập trung tổng hợp kết quả nghiên cứu của các bàibáo khác về tác động của thuế môi trường đến hành vi tiêu dùng xanh. Nhóm tác giảnghiên cứu bằng phương pháp định tính và đã sử dụng mơ hình SWOT để phân tích sựảnh hưởng và mức độ tác động của các công cụ kinh tế này đến với hành vi tiêu dùngxanh của người tiêu dùng. Hơn hết, bài nghiên cứu không cung cấp thêm kết quảnghiên cứu mới.

Bên cạnh đó, chính sách thuế “xanh” có thể thúc đẩy hành vi xanh thơng quaviệc tăng chi phí của các hoạt động gây hại cho môi trường, cung cấp ưu đãi tài chínhcho các hành vi xanh và nâng cao nhận thức của người dân về các vấn đề môi trường.Dựa trên dữ liệu thực tế (Zhigang Hong & Danshera Wetherington Cords, 2019) đãphân tích tác động của chính sách thuế Trung Quốc đối với hành vi xanh của ngườidân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chính sách thuế xanh có thể thúc đẩy hành vi xanhtheo một số cách. Thứ nhất, chính sách thuế xanh có thể làm tăng chi phí của các hoạtđộng gây hại cho mơi trường, chẳng hạn như sử dụng năng lượng hóa thạch hoặc xảthải ơ nhiễm. Điều này sẽ khuyến khích người dân chuyển sang các lựa chọn xanhhơn, chẳng hạn như sử dụng năng lượng tái tạo hoặc giảm thiểu chất thải. Thứ hai,chính sách thuế xanh có thể cung cấp các ưu đãi tài chính cho các hành vi xanh, chẳnghạn như giảm thuế hoặc trợ cấp cho việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ xanh. Điềunày sẽ khuyến khích người dân lựa chọn các giải pháp xanh hơn, ngay cả khi chúng có

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

giá cao hơn một chút so với các giải pháp không xanh. Thứ ba, chính sách thuế xanhcó thể nâng cao nhận thức của người dân về các vấn đề môi trường. Khi người dânphải trả nhiều tiền hơn cho các hoạt động gây hại cho môi trường hoặc nhận được cácưu đãi tài chính cho các hành vi xanh, họ sẽ có xu hướng quan tâm hơn đến các vấn đềmôi trường và lựa chọn các giải pháp xanh hơn. Các tác giả đã cung cấp bằng chứngthực nghiệm cho thấy chính sách thuế xanh có thể thúc đẩy hành vi xanh ở TrungQuốc. Cụ thể, nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tăng thuế đối với các sản phẩm gây hạicho môi trường, chẳng hạn như xăng dầu và ô tô, đã dẫn đến việc giảm tiêu thụ các sảnphẩm này. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc giảm thuế đối với các sản phẩmvà dịch vụ xanh, chẳng như xe điện và năng lượng tái tạo, đã dẫn đến việc tăng tiêuthụ các sản phẩm và dịch vụ này. Các khuyến nghị của nghiên cứu có thể được ápdụng để thúc đẩy hành vi xanh ở Trung Quốc và các quốc gia khác trên thế giới.(Nghiêm Thị Vân, 2019) sử dụng mơ hình ước lượng hàm cầu lý tưởng bậc 2 để phântích tác động của thuế bảo vệ môi trường và thuế xăng dầu đến tỷ trọng tiêu dùng củahộ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thuế bảo vệ môi trường và thuếxăng dầu có tác động giảm thiểu tiêu dùng của hộ gia đình ở Việt Nam. Cụ thể, thuếbảo vệ mơi trường có tác động giảm thiểu tiêu dùng các mặt hàng có hàm lượng tiêuthụ năng lượng cao, như điện, nước, xăng dầu, gas,... Còn thuế xăng dầu có tác độnggiảm thiểu tiêu dùng các mặt hàng có liên quan đến vận tải, như xăng dầu, ơ tô, xemáy,... Tác động giảm thiểu tiêu dùng của thuế bảo vệ môi trường và thuế xăng dầu làdo các loại thuế này làm tăng giá cả của các mặt hàng chịu thuế, từ đó khiến cho cáchộ gia đình phải cắt giảm chi tiêu cho các mặt hàng này. Qua đó, có thể nhận thấy kếtquả nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động giảm thiểu tiêu dùngcủa thuế bảo vệ môi trường và thuế xăng dầu ở Việt Nam. Bài nghiên cứu đã đem đếnmột cái nhìn sâu sắc về tác động của thuế bảo vệ môi trường và thuế xăng dầu đến tỷtrọng tiêu dùng của hộ gia đình ở Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các loại thuếnày có tác động giảm thiểu tiêu dùng của hộ gia đình, góp phần giảm thiểu tiêu dùngnăng lượng và bảo vệ môi trường ở Việt Nam.

Thuế “xanh” có thể giảm chi phí sản xuất khi buộc nhà sản xuất giảm tiêu thụnăng lượng đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng. (Zheng & cộng sự, 2023) sửdụng phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp để kiểm tra tác động của thuế mơi trườngđến đổi mới xanh ở Trung Quốc. Nhóm tác giả đã chỉ ra rằng nhóm doanh nghiệp có

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

thể bị tác động mạnh nhất bởi Thuế R&D gồm: (1) nhóm ngành cơng nghiệp sản xuất,(2) nhóm ngành cơng nghệ cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuế mơi trường có tácđộng tích cực đến đổi mới xanh, thể hiện ở việc doanh nghiệp có xu hướng đầu tư vàonghiên cứu và phát triển (R&D) để phát triển các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với môitrường hơn. Tuy nhiên, nhóm tác giả cũng chỉ dừng ở đối tượng là các doanh nghiệp,còn đối với cấp độ ở người tiêu dùng cũng chưa chỉ ra được thuế “xanh” có mức độảnh hưởng như thế nào. (Nihal Ahmed & cộng sự, 2022) đã cung cấp bằng chứng thựcnghiệm về tác động tích cực của thuế xanh đến việc giảm tiêu thụ năng lượng và bảovệ môi trường ở các nước Bắc Âu. Các tác giả đã sử dụng dữ liệu panel của 4 nướcBắc Âu từ năm 1994 đến năm 2020 để nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa thuếxanh, cường độ năng lượng và tiêu thụ năng lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thuếxanh có tác động tích cực đến việc giảm cường độ năng lượng và tiêu thụ năng lượngở các nước Bắc Âu. Cụ thể, thuế xanh có thể giúp giảm chi phí năng lượng, thúc đẩyđổi mới công nghệ và nâng cao nhận thức về bảo vệ mơi trường, từ đó dẫn đến giảmtiêu thụ năng lượng. Bài nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp Dumitrescu-Hurlin đểkiểm tra tính nhân quả giữa các biến. Kết quả cho thấy, thuế xanh có tác động nhânquả đến cường độ năng lượng và tiêu thụ năng lượng ở các nước Bắc Âu. Trên cơ sởkết quả nghiên cứu, các tác giả khuyến nghị các chính phủ nên tiếp tục áp dụng thuếxanh để giảm tiêu thụ năng lượng và bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó, các chính sách khác về mơi trường như chứng nhận sản phẩmxanh, hệ thống quản lý về dán nhãn sản phẩm, cũng giúp giảm tổng thiệt hại về môitrường, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về tính xanh của sản phẩm và phúc lợixã hội cho chính họ (Chen & Hu, 2020; Walter & Chang, 2020).

Ngoài ra, các bài nghiên cứu đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố khác nhau ảnhhưởng đến hành vi tiêu dùng xanh, ngoài thuế “xanh”. Các yếu tố này bao gồm: Nhậnthức của người tiêu dùng về môi trường: Người tiêu dùng có nhận thức cao về mơitrường sẽ có xu hướng lựa chọn các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với mơi trường hơn.Sự sẵn có của các sản phẩm/dịch vụ xanh: Người tiêu dùng sẽ không thể lựa chọn cácsản phẩm/dịch vụ xanh nếu các sản phẩm/dịch vụ này không có sẵn trên thị trường.Giá cả của các sản phẩm/dịch vụ xanh: Giá cả của các sản phẩm/dịch vụ xanh thườngcao hơn so với các sản phẩm/dịch vụ thông thường. Điều này có thể khiến người tiêudùng khó lựa chọn các sản phẩm/dịch vụ xanh hơn. Thu nhập của người tiêu dùng:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Người tiêu dùng có thu nhập cao sẽ có xu hướng lựa chọn các sản phẩm/dịch vụ xanhhơn. Kiểu sống của người tiêu dùng: Người tiêu dùng có lối sống xanh sẽ có xu hướnglựa chọn các sản phẩm/dịch vụ xanh hơn. Nhận thức của người tiêu dùng và nhận thứcvề chi phí cũng là những yếu tố quan trọng trong hành vi tiêu dùng xanh. (Shen &Wang, 2022) nhận thấy rằng chi phí mà người tiêu dùng cảm nhận là một trở ngạiđáng kể đối với tiêu dùng xanh. Mặt khác, (Xie và cộng sự, 2022) nhận thấy rằng nhậnthức về môi trường ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với tiêu dùng xanh, chuẩn mựcchủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi, dẫn đến tăng ý định và hành vi tiêu dùngxanh thực tế. Hiệu quả của luật và ưu đãi thuế xanh có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tốvăn hóa. (Wang & Li, 2022) đã khám phá tác động của các chính sách can thiệp hànhvi “mềm” và chính sách khuyến khích kinh tế “mềm” đối với hành vi mua sản phẩmxanh của công chúng ở Trung Quốc. Họ phát hiện ra rằng các yếu tố như cảm xúcxanh, chuẩn mực xã hội và cường độ trợ cấp có thể ảnh hưởng đến hành vi mua hàngxanh của người tiêu dùng. (Nguyễn Thị Minh Hòa & Hà Tuấn Anh, 2020) đã sử dụnglý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vitiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại tỉnh Trà Vinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ýđịnh mua sản phẩm xanh có tác động tích cực tới hành vi mua sản phẩm xanh củangười tiêu dùng. Hai nhân tố gồm: thái độ đối với việc mua hàng xanh và kiểm sốthành vi cảm nhận cũng có tác động tích cực tới hành vi mua hàng xanh. Những tácđộng này đóng vai trị trung gian tồn phần thơng qua ý định mua sản phẩm xanh.Nghiên cứu Kết quả nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động củaý định mua sản phẩm xanh, thái độ đối với việc mua hàng xanh và kiểm soát hành vicảm nhận đến hành vi mua sản phẩm xanh của người tiêu dùng tại tỉnh Trà Vinh.

Hơn nữa, ảnh hưởng của luật thuế xanh đối với hành vi xanh có thể được điềuhịa hoặc điều tiết bởi các yếu t khỏc. (Paỗo & cng s, 2019) nhn thy rng thái độủng hộ xã hội nói chung có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị tiêu dùng xanh, từ đó ảnhhưởng tích cực đến hành vi mua sắm xanh. Tuy nhiên, ảnh hưởng của quảng cáo xanhđến hành vi mua sắm xanh được cho là còn yếu. Trong bối cảnh Trung Quốc, (Hong &Cords, 2020) đã phân tích cụ thể ảnh hưởng của chính sách thuế Trung Quốc đến hànhvi xanh. Họ nhận thấy rằng chính sách thuế có thể có tác động đáng kể đến hành vixanh, nhưng hiệu quả của chính sách này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau nhưviệc thực thi và nhận thức của cơng chúng. Tóm lại, luật thuế xanh có thể thúc đẩy

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hành vi xanh bằng cách cung cấp các khuyến khích kinh tế, tác động đến thái độ vànhận thức của người tiêu dùng cũng như định hình các chuẩn mực văn hóa. Tuy nhiên,hiệu quả của các luật này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm sự chú trọngđến môi trường của các nhà lập pháp, cơ chế khuyến khích, nhận thức của người tiêudùng, yếu tố văn hóa và bối cảnh cụ thể của đất nước. Hiểu được những yếu tố này làrất quan trọng để thiết kế các chính sách thuế xanh hiệu quả có thể thúc đẩy hành vibền vững.

Thuế môi trường là một công cụ hiệu quả để thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh vàđổi mới xanh. Tuy nhiên, thuế mơi trường cũng có thể có tác động phân phối tiêu cựcđối với hộ gia đình có thu nhập thấp. (Ohlendorf & cộng sự, 2020) đã tổng hợp cácnghiên cứu về tác động phân phối của chính sách giá carbon, đề cập đến cách màchính sách đó ảnh hưởng đến các nhóm thu nhập khác nhau trong xã hội. Nghiên cứuchỉ ra rằng thuế carbon có tác động bất lợi đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp vàtrung bình. Nhưng nếu thuế carbon được sử dụng để tài trợ cho các chương trình trợcấp cho các hộ gia đình có thu nhập thấp, thì tác động phân phối của thuế carbon cóthể được giảm thiểu. (Zhou, 2022) đã tổng hợp các nghiên cứu về tác động phân phốicủa chính sách giá carbon đối với các hộ gia đình. Kết quả tổng quan cho thấy, chínhsách giá carbon nói chung là có tác động phân phối ngược chiều ở các nước phát triển.Tuy nhiên, có một số ngoại lệ, chẳng hạn như các quốc gia có hệ thống phúc lợi xã hộimạnh mẽ. Đối với các nước đang phát triển, khơng có kết quả thống nhất nào đượcđưa ra. Tuy nhiên, các kết quả có thể được tổng qt thành các mơ hình có thể dự đoánđược dựa trên cơ cấu kinh tế của các quốc gia và thiết kế của chính sách giá carbon.Bài nghiên cứu chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến tác động phân phối của giá carbon đốivới hộ gia đình: (1) Mức thu nhập: Hộ gia đình có thu nhập thấp thường có tỷ lệ chitiêu cho năng lượng cao hơn, do đó họ sẽ chịu tác động lớn hơn của giá carbon. (2) Vịtrí địa lý: Hộ gia đình sống ở các khu vực có khí hậu lạnh thường phải sử dụng nhiềunăng lượng hơn để sưởi ấm, do đó họ cũng sẽ chịu tác động lớn hơn của giá carbon.(3) Kiểu mẫu tiêu dùng: Hộ gia đình có lối sống tiêu thụ nhiều năng lượng, chẳng hạnnhư lái xe nhiều hoặc sử dụng nhiều điện, sẽ chịu tác động lớn hơn của giá carbon.Nhìn chung, kết quả tổng quan của bài báo này cho thấy rằng chính sách giá carbon cóthể có tác động phân phối ngược chiều đối với các hộ gia đình. Tuy nhiên, tác độngnày có thể được giảm thiểu thơng qua việc sử dụng các biện pháp phân phối phù hợp,

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

chẳng hạn như trợ cấp cho người nghèo hoặc giảm thuế cho các sản phẩm và dịch vụthiết yếu.

Bên cạnh đó, (Nguyễn Thị Tuyết Mai & cộng sự, 2019) đã sử dụng lý thuyếthành vi có kế hoạch mở rộng (TPB) để phân tích tác động của chủ nghĩa vật chất đến ýđịnh mua sản phẩm xanh của người tiêu dùng thành thị ở Việt Nam. Kết quả nghiêncứu cho thấy, thành tố "thành cơng" có mối quan hệ ngược chiều với ý định mua xanh,trong khi đó, thành tố "hạnh phúc" có mối quan hệ thuận chiều với ý định mua. Điềunày có thể giải thích là người tiêu dùng có xu hướng mua sản phẩm xanh hơn khi họcoi trọng giá trị của sự hạnh phúc và có nhận thức rằng việc mua sản phẩm xanh có thểmang lại cho họ cảm giác hạnh phúc. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy cả ba tiền tốtrong mô hình TPB, gồm thái độ đối với mua sản phẩm xanh, chuẩn chủ quan và nhậnthức khả năng kiểm soát hành vi đều có tác động thuận chiều đến ý định mua. Điềunày có thể giải thích là người tiêu dùng có nhiều khả năng mua sản phẩm xanh hơn khihọ có thái độ tích cực đối với việc mua sản phẩm xanh, cho rằng việc mua sản phẩmxanh là điều quan trọng và tin rằng họ có thể kiểm soát được việc mua sản phẩm xanh.Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người tiêu dùng có xu hướng mua sản phẩm xanh hơn khihọ coi trọng giá trị của sự hạnh phúc và có nhận thức rằng việc mua sản phẩm xanh cóthể mang lại cho họ cảm giác hạnh phúc. Các khuyến nghị của nghiên cứu có thể đượcáp dụng để thúc đẩy ý định mua sản phẩm xanh của người tiêu dùng thành thị ở ViệtNam.

Nghiên cứu về tác động của thuế xanh và ảnh hưởng của doanh nghiệp đếnhành vi/nhận thức của người tiêu dùng thông qua chính sách thuế xanh được đề cập tạinhiều nghiên cứu (Chen & cộng sự, 2022; Huang & cộng sự, 2020; Liu & cộng sự,2022; Osório & Zhang, 2022; Zhang & cộng sự, 2021; Doğan & cộng sự, 2022; Shang& cộng sự, 2022; Tchorzewska & cộng sự, 2022). Nhìn chung các nghiên cứu cơ bảnphân tích ảnh hưởng của thuế xanh đến hành vi của người tiêu dùng trên một hoặc mộtsố góc độ nhất định, ví dụ từ hành vi của doanh nghiệp, từ xã hội, từ môi trường hoặctừ kinh tế.

Tiêu dùng xanh cũng ngày càng được chú trọng tại Việt Nam, các chính sáchnhư ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn; miễn, giảm thuế và phí bảo vệ môi trường cho cáccơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm thân thiện với mơi trường đã khuyến khích cácdoanh nghiệp và tạo ra lợi ích kép cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, các nghiên cứu cụ thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

về ảnh hưởng của thuế xanh đối với hành vi của người tiêu dùng chưa có nhiều tại ViệtNam. Các nghiên cứu chủ yếu đánh giá ảnh hưởng của nhận thức và thái độ với môitrường đến tiêu dùng xanh của người Việt Nam (Hoang & Nguyen, 2012) hoặc nghiêncứu của Tong & Duong (2020) thực hiện đánh giá tác động của thuế bảo vệ môitrường đến việc sử dụng túi ni lông tại Việt Nam nhưng kết luận lại cho thấy thuế bảovệ mơi trường khơng có tác động làm thay đổi thói quen sử dụng túi ni lông mà nhậnthức là yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng túi ni lông của người tiêu dùng. Bên cạnhđó, để chính sách thuế xanh hoạt động có hiệu quả phải phụ thuộc vào rất nhiều nhântố trong đó có thu nhập. Đây là một nhân tố quan trong có thể tác động đến ý định tiêudùng xanh của các các nhân và hộ gia đình. Tuy nhiên, việc phân tích tác động củathuế xanh đối với các hộ gia đình theo thu nhập vẫn chưa được khai thác nhiều trongcác nghiên cứu trên. Điều này khiến cho vấn đề thiết kế và ban hành chính sách thuếxanh gặp nhiều khó khăn vì cịn thiếu các căn cứ thực tiễn có tính thuyết phục.

Do đó, bài nghiên cứu kế thừa các câu hỏi khảo sát được hình thành từ cácnghiên cứu nước ngồi đã được cơng bố để xây dựng mơ hình và giả thuyết nghiêncứu ảnh hưởng của thuế xanh đến hành vi tiêu dùng xanh ở đối tượng hộ gia đình theothu nhập tại Hà Nội. Kết quả nghiên cứu góp phần củng cố về mặt lý thuyết đối vớicác kênh tác động của thuế xanh đến hành vi tiêu dùng và một số gợi ý khi xây dựngchính sách thuế xanh tại Việt Nam.

<b>3.Mục tiêu nghiên cứu</b>

 Mục tiêu tổng quát:

Tác động của thuế xanh đến hành vi tiêu dùng xanh của hộ gia đình theo thunhập trên địa bàn Hà Nội là một chủ đề nghiên cứu quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn vàkhoa học. Nghiên cứu này sẽ góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng vàthực thi chính sách thuế xanh nhằm khuyến khích tiêu dùng xanh, góp phần bảo vệmơi trường và phát triển bền vững.

</div>

×