Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

tiểu luận môn kinh tế chính trị lý luận về hàng hóa của c mác và vận dụng lý luận này để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.81 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰCBỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ</b>

MÃ ĐỀ: 1

<b>TIỂU LUẬN MƠNKINH TẾ CHÍNH TRỊ</b>

<b>Tên đề tài 1. Lý luận về hàng hóa của C.Mác và vận dụng lý luận này để đưa ra các giải</b>

pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.

Họ và tên: ………...Mã sinh viên:... Lớp: ………

Hà Nội, 5/2022

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC TRANG</b>

<b>A. MỞ ĐẦU………..…1</b>

<b>B. NỘI DUNG………..…2</b>

<b>I. Cơ sở lý luận……….2</b>

1. Khái niệm hàng hóa..……….………2

2. Hai thuộc tính của hàng hóa………..……….…2

3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng………...4

giá trị hàng hóa<b>II. Vận dụng………...…6</b>

1. Đặc điểm hàng hóa ở VN hiện nay (gắn với đặc điểm nền KT nước ta)…………..6

2. Thực trạng hàng hóa ở VN hiện nay: ưu điểm, hạn chế (nhấn mạnh………8

tính cạnh tranh của hàng hóa)3. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa……… ….12

<b>C. KẾT LUẬN……….………15</b>

<b>D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……….16</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b> A. MỞ ĐẦU </b>

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của lịch sử lồi người, đưa lồi người thót khỏi tình trạng “mơng muội”, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con người thơng qia trao đổi. Tìm hiểu về hàng hóa, bên cạnh điều kiện ra đời, tồntại và đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa và các thuộc tính của nó, chúng ta cũng cầnquan tâm đến lượng giá trị của hàng hóa.

Từ góc độ lý luận của C.Mác về lượng giá trị của hàng hóa, ta có thể đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp trên thị trường. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường có điều tiết, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng tăng cao, đặc biệt là cạnh tranh về giá cả của hàng hóa.

Khi nước ta đã làm thành viên của WTO, bên cạnh những thuận lợi, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp khơng ít những khó khăn, thách thức địi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh để xác lập một thị trường vững chắc. Nắm bắt được lí luận của C.Mác về lượng giá trị của hàng hóa sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam tìm ra những giải pháp nhằm tăng chất lượng của hàng hóa và hạ giá thành của hàng hóa làm ra, nói cách khác làtăng năng lực cạnh tranh về giá của hàng hóa.

Để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề, em đã chọn đề tài: “Lý luận về hàng hóa của C.Mác và vận dụng lý luận này để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóaViệt Nam”. Trong quá trình nghiên cứu và làm bài, do kiến thức và khả năng cịn hạn hẹp, em khơng tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy (cơ) sẽ giúp đỡ em.

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b> B. NỘI DUNGI. Cơ sở lý luận</b>

<b>1. Khái niệm hàng hóa</b>

Hàng hố là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hố khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua bán.

Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hố cần phải có:

Tính hữu dụng đối với người dùng

Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động. Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

* Phân loại hàng hóa

Có rất nhiều tiêu thức để phân chia các loại hàng hố như: hàng hố thơng thường, hàng hố đặc biệt, hàng hố hữu hình, hàng hố vơ hình, hàng hố tư nhân, hàng hố cơng cộng…

- Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm….

- Dạng vơ hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ…

<b>2. Hai thuộc tính của hàng hóa</b>

Hàng hố có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc tính này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì khơng phải là hàng hoá.

2.1. Giá trị sử dụng của hàng hoá

Giá trị sử dụng của hàng hóa là gì? Giá trị sử dụng là cơng dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.

Nhu cầu trực tiếp như: ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại… Nhu cầu gián tiếp như: các tư liệu sản xuất…

Bất cứ hàng hố nào cũng có một hay một số cơng dụng nhất định. Chính cơng dụng (tính có ích) đó làm cho nó có giá trị sử dụng

* Ví dụ: Gạo để ăn, áo để mặc, nhà để ở, máy móc để sản xuất, phương tiện để đi lại… Giá trị sử dụng của mỗi hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên (vật lý, hố học…) của vật thể hàng hố đó quyết định nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, việc phát hiện ra và vận dụng từng thuộc tính tự nhiên có ích đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội. C.Mác viết: “giá trị sử dụng cấu thành cái nội dung vật chất của của cải, chẳng kể hình thái xã hội của của cải đó như thế nào”. Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hố, nó khơng phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá,mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi – mua bán.

Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó, khi chưa tiêu dùng thì giá trị sử dụngchỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng có khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực thì nó phải được tiêu dùng. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất. Đòi hỏi người sản xuất hàng hóa ln ln quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước ngày càng cạnh tranh quyết liệt.

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

2.2. Giá trị của hàng hoá

Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá trị trao đổi.Muốn hiểu giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau.

* Ví dụ: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc.

Sở dĩ vải và thóc là hai hàng hóa mặc dù có giá trị sử dụng khác nhau nhưng lại có thể trao đổi với nhau được theo một tỉ lệ nhất định nào đó là vì giữa chúng có một cơ sở chung là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động (thời gian lao động và công sức lao động) do lao động được chứa đựng trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hố. Đây là khái niệm được khẳng định trong các giáo trình kinh tế chính trị. Nếu xét nó trên quan điểm của trường phái hiệu dụng biên thì vẫn đạt được lý lẽ hồn chỉnh. Theo đó, đối tượng chung của nhu cầu có trong các cá nhân khác nhau vẫn đảm bảo cơ sở cho trao đổi.

2.3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hố

Hai thuộc tính của hàng hố có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

* Thống nhất

Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hố. Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng khơng có giá trị (tức khơng do lao động tạo ra, khơng có kết tinh lao động) như khơng khí tự nhiên thì sẽ khơng phải là hàng hố. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng khơng có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng hoá.

* Đối lập

- Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hố khác nhau về chất (vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).

- Thứ hai, q trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian.

Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước. Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.

Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu khơng thực hiện giá trị sẽ khơng có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hố cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.

<b>3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa* Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng:</b>

Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyểt định.

3.1 Thước đo lượng giá trị của hàng hóa.

Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một giờ laođộng, một ngày lao động,… Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian lao độngquyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cả biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra. Vậy phải chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị?

C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy".

Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hồn cảnh xã hội nhất định.

Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thơng thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường.

3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

Do thời gian lao động xã hội cần thiết ln thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào những nhân tố:

- Thứ nhất, năng suất lao động.

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phấm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết đế sản xuất

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

ra một đơn vị sản phẩm. Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi khơng phải theo giá trịcá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội củahàng hóa chính là năng suất lao động xã hội.

Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao dộng xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.

Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của người laođộng, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên. Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hóa. Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩmđược tạo ra cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì khơng đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.

- Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động.

Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản đơn vàlao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chun mơn lành nghề mới có thể tiến hành được. Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một vấn đề đặt ra là: phải chăng trong cùng một đơn vị thời gian lao động, thì bất cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau?

C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động giản đơn, có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, khơng phải trải qua đào tạo, khơng cần có sự phát triển đặc biệt, cũng có thể làm được. Còn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là laođộng phức tạp địi hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề. Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.

C.Mác viết: "Lao động phức tạp... chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân lên...”. Như vậy, lượng giá trị của hànghóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

<b>II. Vận dụng</b>

<b>1. Đặc điểm hàng hóa ở VN hiện nay (gắn với đặc điểm nền KT nước ta)</b>

Xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta gắn liền với các đặc điểm sau:

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế hàng hóa kém pháttriển, mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa phát triển từ thấp đến cao. Do nền kinh tế nước ta có cơ cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội thấp kém. Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khơng có khả năng cạnh tranh.

Hầu như khơng có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm cỡ.

Thu nhập của người làm công ăn lương và nông dân thấp kém, sức mua hàng hóa của xã hội và dân cư thấp nên nhu cầu tăng chậm, dung lượng thị trường trong nước còn hạn chế.

Các biểu hiện trên một mặt phản ánh trình độ thấp kém về dung lượng cầu hàng hóa và khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.

Mặt khác nó cũng tạo ra áp lực buộc chúng ta phải vượt qua thực trạng đó và đưa nền kinh tế phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.

Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần: Tiếp cận đặc điểm này của nền kinh tế hàng hóa theo các khía cạnh sau:

Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa.

Thực trạng kinh tế hàng hóa ở nước ta kém phát triển là do nhiều nhân tố, nhưng nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nơn nóng xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế.

Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt, có khả năng đưa ra nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém.

Nền kinh tế hàng hóa chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng nền kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng.

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Đặc điểm này gắn liền với hai khía cạnh sau:

+ Nó đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào cũng đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp.

+ Các chủ thể kinh tế đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật.

Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các nước trên thế giới:

Sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới.

Nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu “mở” ra đời bắt nguồn từ quy luật phân bố và phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước. Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu “mở”, thích ứng với chiến lược thị trường “hướng ngoại”.

Phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước:

- Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước:

Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước với bản chất vốn có của nó, lạinắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu nên trở thành nhân tố kinh tế bảo đảm cho kinh tế hàng hóa của các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tính hiện thực của vai trị định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác.- Vai trò quản lý nhà nước, nhân tố đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế hàng hóa:

Sự phát triển kinh tế hàng hóa bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao của nó, mặt khác nó khơng tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như: phá sản, khủng hoảng, tàn phá mơi trường… Những khuyết tật này cần phải có sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.

Nền kinh tế hàng hóa giữa các nhà nước, ngồi sự khác nhau về trình độ phát triển và sự phân phối lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp dân cư do kinh tế đem lại nhằm mục đích gì? Có lợi cho ai? Cịn có sự khác nhau khơng kém phần quan trọng là ở trình độ quản lý theo cơ chế thị trường của nhà nước.

8

</div>

×