Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 16 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TPHCM</b>
<i><b>Đề bài: Thông qua diễn biến Tổng khởi nghĩa, làm rõ vấn đề thời cơ</b></i>
<i>trong cách mạng tháng Tám năm 1945? Liên hệ với vấn đề thời cơ đểxây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay?</i>
Giáo viên hướng dẫn : Cô Nguyễn Thị Lan ChiênSinh viên : Nguyễn Trần Ngọc Long
Mã số sinh viên : 19510101098
<b>TPHCM, 9/4/2021</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>MỤC LỤC</b>
1.1.3/ Diến biến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền 41.2/ Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945 81.2.1/ Điều kiện để cách mạng Việt Nam nắm bắt thời cơ 8
Chương 2: TỪ BÀI HỌC NẮM BẮT THỜI CƠ ĐẾN XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>DẪN LUẬN</b>
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dântộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dântộc dân chủ nhân dân Việt Nam”. “Cách mạng Tháng Tám Việt Nam là một cuộccách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoátkhỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập tự do”.
<i>Và hơn hết, vào lúc 23 giờ ngày 13/8/1945, khi Ủy ban Khởi nghĩa toànquốc ban bố “ Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, đã</i>
giúp cách mạng đi đến thắng lợi nhanh chóng. Từ đó, ngày 2/9/1945, Chủ tịch HồChí Minh đọc bản Tun ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộnghòa.
Sau thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa đã cho ta nhiều bài học quý báu.Trong đó, bài học về nắm bắt thời cơ ngàn năm có một, đề ra được những quyếtđịnh chính xác và kịp thời là bài học quan trọng nhất mà đến nay nước ta vẫn đangáp dụng nó để đưa đất nước phát triển tiên tiến. Đặc biệt hiện nay nước ta đangđứng trước thách thức vừa chống đại dịch Covid – 19 vừa hồi phục và phát triểnnền kinh tế Việt Nam.
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>NỘI DUNGChương 1</b>
<b>TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN1.1/ Diễn biến tổng khởi nghĩa giành chính quyền:</b>
<i>1.1.1/ Tình hình thế giới:</i>
Giữa tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Sau khi phát xítĐức đầu hàng Liên Xơ và Đồng minh (9/5/1945) và sau đó Liên Xơ tun chiếnvới Nhật, đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹném hai quả bom nguyên tử xuống các thành phố Hirơsima (6/8/1945) và Nagazaki(9/8/1945). Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện ngày15/8/1945. Quân Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần. Chính quyền do Nhật dựnglên hoang mang cực độ. Thời cơ cách mạng xuất hiện.
<i>1.1.2/ Tình hình trong nước:</i>
Theo quyết định của Hội nghị Posdam (Pốtxđam, 7/1945), quân đội TrungHoa dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội của Liên hiệpAnh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải pháp quân đội Nhật. Pháp toan tính , với sự trợgiúp của Anh, sẽ trở lại xâm lược Việt Nam, trước mắt là phục hồi bộ máy cai trị cũở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trung Hoa dân quốc muốn có một chính quyền ngườiViệt Nam từ Trung Quốc kéo về ở miền Bắc.
Trong khi đó, những thế lực chống cách mạng ở trong nước cũng tìm cáchđối phó. Một số người trong Chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim quay sang tìmkiếm sự trợ giúp của một số cường quốc, với hy vọng giữ chế độ quân chủ.
Tại Hội nghị Ianta (2/1945), Tổng thống Mỹ Rooseveld hồn tồn “nhất trívới đề nghị chỉ để các thuộc địa dưới quyền ủy trị nếu “mẫu quốc” đồng ý”. Mùahè năm 1945, Mỹ cam kết với Charles De Gaulle rằng sẽ không cản trợ việc Phápphục hồi chủ quyền ở Đông Dương. Cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">dân Việt Nam sẽ bị xếp vào “hoạt động phiến loạn do cộng sản cầm đầu”. Trongtình hình ấy, “ ai biết dòng chảy của lịch sử sẽ đi về đâu, với tốc độ nào?”.
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời gian từ khi Nhật tuyên bốđàu hàng Đồng minh vào Đông Dương, vào khoảng nửa cuối tháng Tám năm 1945.Trong tình hình trên, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộcchay đua nước rút với quân Đồng minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thểchậm trễ, không chỉ để tranh thủ thời cơ, mà còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cáchmạng đến thành công.
Ngày 12/8/1945, <i>Ủy ban lâm thời khu giải phóng</i> hạ lệnh khởi nghĩa trongkhu. Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban
<i>Khởi nghĩa toàn quốc, 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố</i>
“Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
<i>1.1.3/ Diến biến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:</i>
Ngày 14 và 15/8/1945, <i>Hội nghị toàn quốc</i> của Đảng họp ở Tân Trào, dolãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, tập trung phân tích tìnhhình và dự đốn: “Qn Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le hồiphục lại địa vị cũ ở Đông Dương”. Hội nghị quyết định phát động tồn dân nổi dậytổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh
<i>vào Đông Dương. Khẩu hiệu lúc này là: Phản đối xâm lược! Hồn tồn độc lập!Chính quền nhân dân! Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tậptrung, thông nhất và kịp thời. Phương hướng hành động trong tổng khởi nghĩa: phải</i>
đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không để thành phố hay nông thôn; quânsự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàngtrước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đơ thị) trước khi quânĐồng minh vào, thành lập <i>ủy ban nhân dân</i> ở những nơi đã giành được quyền làmchủ… Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội vàđối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dânhọp tại Tân Trào. Về dự đại hội có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng pháichính trị, các đồn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo trong nước vàđại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa củaĐảng, thơng qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộcViệt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờquyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến, Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đemsức ta mà giải phóng cho ta… Chúng ta khơng thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên!Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dung cảm tiến lên!”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy ở cả thànhthị và nơng thơn, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy TrườngSơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.
Từ ngày 14 đến ngày 18/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa,nhưng do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng, căn cứ vàotình hình thực tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ động, lãnh đạo nhândân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải Dương, BắcGiang, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
Từ ngày 14/8/1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng qn lần lượt tiến cơng cácđồn binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Báiv.v… hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16/8/1945, mộtđơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóngthị xã Thái Nguyên. Từ ngàu 14 đến ngày 18/8, ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một sốtỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ởcấp xã và huyện.
Tại Hà Nội, ngày 17/8, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mít tinh ủng hộchính phủ Trần Trọng Kim. Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong cáctổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành biến cuộc mít tinh đó thành cuộc mít tinh
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">ủng hộ Việt Minh. Các đội viên tuyên truyền xung phong bất ngờ giương cao cờ đỏsao vàng, kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn quần chúng dự mít tinhnhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh. Lính bảo an, cảnh sát của chínhquyền Nhật có nhiệm vụ bảo vệ cuộc mít tinh cũng ngả theo Việt Minh. Cuộc míttinh biến thành một cuộc biểu tình tuần hành, có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu, rầm rộdiễn qua các phố đông người, tiến đến trước phủ toàn quyền cũ, nơi tư lệnh qnNhật đóng, rồi chia thành từng đồn, đi cổ động chương trình Việt Minh khắp cácphố.
Sau cuộc biểu dương lực lượng. Thành ủy Hà Nội nhận định đã có đủ điềukiện để phát động tổng khởi nghĩa.
Sáng ngày 19/8, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Quần chúng cáchmạng xuống đường tập hợp thành đội ngũ, rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hátthành phố trong tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ đỏ sao vàng để dự cuộc mít tinh lớndo Mặt trận Việt Minh tổ chức. Ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởinghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang. Quần chúngcách mạng chia thành nhiều đồn đi chiểm Phủ Khâm sai, Tịa Thị chính, Trại Bảoan ninh, Sở Cảnh sát và các công sở của chính quyền thân Nhật. Trước khí thế vàsức mạnh áp đảo của quần chúng, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội khơng dámchống cự. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ảnh hưởng nhanh chóng đến nhiềutỉnh và thành phố khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cả nước, làm cho chính quyềntay sai của Nhật ở nhiều nơi them hoảng hốt, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quátrình tổng khởi nghĩa.
Ngày 23/8, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế huy động quần chúng từcác huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân trongnội thành Huế xuống đường biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền và qnđội Nhật hồn tồn tê liệt. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không vấp phảisức kháng cự cao.
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An (tỉnh khởi nghĩa thí điểm của Xứ ủy)đã giành được chính quyền, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn vàcác tỉnh. Đêm 24/8, các lực lượng khởi nghĩa với gậy tầm vông, giáo mác, từ cáctỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25/8, hơn 1 triệu người biểu tìnhtuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa chiếm các cơng sở. Cuộc khởi nghĩa thành cơngnhanh chóng.
Những cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gịn và các đơ thị đập tan các cơquan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong cả nước.
Ngày 25/8/1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban Dântộc giải phóng về đến Hà Nội. Sáng ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh chủ trì và đốingoại trong tình hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần của Chính phủ lâmthời, chuẩn bị ra Tun ngơn Độc lập, và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chínhphủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức cơng bố quyền độclập và thiết lập chế độ dân chủ cộng hịa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những việc cầnlàm trước khi quân Trung Hoa dân quốc vào Đông Dương.
Trong cuộc họp ngày 27/8/1945, Ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thànhChính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủtịch. Danh sách Chính phủ lâm thời được chính thức cơng bố ngày 28/8/1945 tại HàNội. Một số thành viên là người của Mặt trận Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chínhphủ, trong đó có Tổng Bí thư Trường Chinh, để mời thêm nhân sĩ ngồi Việt Minhtham gia.
Ngày 30/8/1945, tại cuộc mít tinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn,thành phố Huế, Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâmthời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời hồn toàn ý thức được phải khẩntrương làm tất cả mọi việc có thể để xác lập vị thế người chủ đất nước của nhân dânViệt Nam trước khi những người mang danh “Đồng minh” kịp đặt chân đến và kịpthực thi những ý tưởng riêng của họ.
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Trong tình hình hết sức khẩn trương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng,Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên bốđộc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi công việc chuẩn bị được tiếnhành khẩn trương. Tại một căn phòng trên gác nhà số 48, phố Hàng Ngang, HàNội, Hồ Chí Minh đã thực hiện trách nhiệm lịch sử trọng đại, giữa bộ bề công việc,
<i>nhưng đã tập trung trí tuệ và tình cảm, soạn thảo bản Tun ngơn Độc lập. Ngày 31/8/1945, Hồ Chí Minh bổ sung một số điểm , hồn chỉnh bản Tunngơn độc lập.</i>
Ngày 2/9/1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình,Hà Nội. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí
<i>Minh đọc Tun ngơn độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới :</i>
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
<b>1.2/ Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945:</b>
<i>1.2.1/ Điều kiện để cách mạng Việt Nam nắm bắt thời cơ:</i>
Thứ nhất, về việc xác định thời cơ, lúc này tình thế đã hoàn toàn khác vớithời điểm ngày 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp. Lúc đó, trong Chỉ thị “NhậtPháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945), Đảng ta đã nhận định là“những điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi”, do giữa Pháp và Nhật “chưachia rẽ, hoang mang, do dự đến cực điểm”; sự giác ngộ và đồng lịng của nhân dâncần có thêm thời gian tun truyền, vận động; lực lượng chưa được chuẩn bị đủ vàsẵn sàng. Đến tháng 8/1945, tình thế đã thay đổi: Pháp chưa nắm lại được chínhquyền, Nhật thì hoang mang cực độ, chế độ quân chủ gần như sụp đổ, nhân dân đãvùng dậy (từ tự phát phá kho thóc của Nhật đến việc nổi dậy giành chính quyền ởcơ sở tại một số nơi), lực lượng đã được chuẩn bị cơ bản, không chỉ ở chiến khuViệt Bắc mà còn nhiều nơi khác…
Thứ hai, về chủ trương, từ tháng 3 đến tháng 8/1945, Đảng ta đã đề ra nhiềuchủ trương nhằm chuyển hướng đấu tranh cách mạng, củng cố lực lượng… Bằngnhiều hình thức, Trung ương Đảng đã chỉ đạo các Xứ ủy Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">đề ra các nhiệm vụ cụ thể trong phạm vi hoạt động của mình. Đặc biệt, ngày
<i>17/7/1945, Tổng Bí thư Trường Chinh đã có bài viết Để thống nhất Đảng bộ Namkỳ hãy kíp đi vào đường lối</i> đăng trên báo <i>Cờ giải phóng</i>, nêu rõ các sai lầm, khuyếtđiểm của Đảng bộ trong việc đề ra các chủ trương cách mạng. Bài viết nêu rõ:“Khẩu hiệu cách mạng, nhất là khẩu hiệu chiến lược, phải đặt một cách hết sứckhách quan, căn cứ vào sự phân tích khoa học tình hình trong nước và ngồi nước,căn cứ vào sự nhận định sáng suốt kẻ thù và các hạng đồng minh xa gần, và cốnhiên phải thích hợp với nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn”. Đây thực sự làmột định hướng lớn của Đảng đối với phong trào cách mạng cả nước chứ khôngriêng gì của Nam kỳ.
Thứ ba, về lực lượng, đây là sự chuẩn bị rất dài hơi, nổi bật nhất từ khi lãnhtụ Hồ Chí Minh về nước hoạt động. Tháng 5/1941, chỉ hơn 3 tháng sau khi vềnước, Người thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp các lực lượng tham gia giànhđộc lập. Từ năm 1941, Người đã viết nhiều tác phẩm về quân sự, như về cách đánhdu kích, về binh pháp Tơn Tử, kinh nghiệm chiến tranh của các nước… Người mởnhiều lớp huấn luyện quân sự cho cán bộ, xây dựng căn cứ địa... Ngày 22/12/1944,Người giao đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giảiphóng quân, đơn vị vũ trang chính thức đầu tiên của cách mạng, nhưng nhiệm vụchính khơng chỉ có hoạt động vũ trang mà cịn có hoạt động tuyên truyền. Ngườicũng tranh thủ các đơn vị của Mỹ trong lực lượng Đồng minh để giúp đỡ vũ khí vàtham gia huấn luyện quân sự, đây chính là lực lượng nòng cốt để hành quân về HàNội để cùng nhân dân giành chính quyền. Dĩ nhiên, trong q trình đó, lực lượngtối quan trọng vẫn là các tầng lớp nhân dân đã được giác ngộ, vận động và tập hợptrong nhiều tổ chức, dưới nhiều hình thức.
Thứ tư, về các chỉ đạo cụ thể, tháng 8/1945, Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọikhởi nghĩa, ban hành mệnh lệnh khởi nghĩa, công bố Quân lệnh số 1 của Ủy banKhởi nghĩa… Tiếp đó, Người cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc củaĐảng (ngày 14 và 15/8/1945) và tổ chức Đại hội Quốc dân ở Tân Trào (ngày
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">16/8/1945). Đại hội đã nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng vàTổng bộ Việt Minh. Đại hội quyết định toàn dân đoàn kết đứng lên vũ trang khởinghĩa giành chính quyền; thơng qua 10 chính sách lớn của Việt Minh; bầu Ủy banDân tộc giải phóng (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch;thống nhất quy định Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc ca của nước Việt Nam mới…
<i>1.2.2/ Ý nghĩa:</i>
Nhờ chủ động, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho phong trào cách mạng ngay từnhững ngày đầu thành lập Đảng; hiểu biết sâu sắc về thời cơ cách mạng; dự báochính xác, nắm bắt kịp thời và chớp thời cơ mau lẹ, tuy mới 15 tuổi và chỉ với hơn5 nghìn đảng viên, trong vẻn vẹn chưa đầy 20 ngày của Mùa thu lịch sử năm 1945,Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi,giành chính quyền, tuyên bố thành lập nước, thành lập Chính phủ lâm thời… mở rakỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc cho quốc gia dân tộc. Bài học và tấm gươngmẫu mực về tận dụng thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945 không ngừngđược phát huy, phát triển trong các thời kỳ chiến đấu và chiến thắng vẻ vang củatoàn quân, toàn dân ta, lập nên Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm 1954 vàchiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 mang tầm cao thời đại…
10
</div>