Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.7 KB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
<b>2. Vai trò quản lý của n à nước trong nền kinh tế số ... 5 </b>
<b>3. Thuận lợi và thách thức trong quản lý n à nước về nền kinh tế số ... 6 </b>
a. Những thuận lợi cho phát triển và quản lý nền kinh tế số ở Việt Nam ... 6
b. Những thách thức vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế số ở Việt Nam ... 8
<b>4. Thực trạng quản lý t ương mại điện tử ... 10 </b>
<b>5. Thực tiễn quản lý n à nước trong nền kinh tế số ... 11 </b>
<b>6. Đề xuất giải pháp ... 14 </b>
<b>C. PHẦN TỔNG KẾT ... 16 </b>
<b>D. DANH MỤC THAM KHẢO ... 16 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>1. Lý do ọn đề tài: </b>
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được hình thành trên nền tảng của cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ ba. Có thể nói rằng, đây là sự kế thừa và phát triển tri thức của nhân loại; là sự hợp nhất của các loại công nghệ và đã làm mờ đi ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học với trung tâm là sự phát phát triển của trí tuệ nhân tạo, khoa học mang tính liên ngành phức hợp, sâu rộng với nền tảng đột phá của cơng nghệ số, đáp ứng địi hỏi của nền kinh tế tri thức, của xã hội tri thức. Cuộc cách mạng 4.0 đóng một vai trị quan trọng trong việc tạo ra nhiều cơ hội để tăng năng suất lao động
Trong thời kỳ Cách mạng 4.0, các phương thức hoạt động kinh tế các quốc gia trên thế giới đều có sự thay đổi mạnh mẽ, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Các trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp bắt đầu dựa trên ứng dụng công nghệ số. Để thích ứng với nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế số, Nhà nước cũng phải đổi mới mô hình và cách thức áp dụng cơng nghệ số trong quản lý kinh tế.
<b>2. Mụ đ p ạm vi ng iên ứu: </b>
Sau khi kết thúc học phần luật Hành chính, em muốn tìm hiểu nghiên cứu rõ hơn một cách có hệ thống về pháp luật, về vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế số hiện nay, về những khó khăn, thách thức và thực trạng từ đó đề xuất ra những giải pháp, bài học kinh nghiệm.
<b>3. P ương p áp ng iên ứu: </b>
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ thống, phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp,...
Phương pháp đặc trưng điều chỉnh là phương pháp mang tính mệnh lệnh: quyền lực – phục tùng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>1. K ái niệm về nền kin tế số: </b>
Hiện nay nền kinh tế thế giới đang thay đổi một cách sâu rộng, đặc biệt là sự tác động của đại dịch COVID - 19. Hoạt động kinh tế không chỉ đơn thuần là việc trao đổi hàng hoá giữa người với người mà dựa trên các cơng nghệ kỹ thuật số. Đó chính là nền kinh tế số.Có rất nhiều khái niệm khác nhau và chưa có khái niệm nào được chấp nhận chính thức về kinh tế số (hay kinh tế kỹ thuật số) nhưng theo cách hiểu phổ biến nhất mà phần lớn các quốc gia và tổ chức quốc tế thống nhất thì kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số và nền tảng số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số hiện diện trên tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thơng hàng hóa, giao thơng vận tải, logistic, tài chính ngân hàng....) mà cơng nghệ số được áp dụng.
Các công nghệ số đã được triển khai ở các khu vực khác nhau của nền kinh tế quốc gia trong nhiều thập kỷ, đặc biệt là trong các mạng truyền thơng, nhưng chính Internet và các liên kết hỗ trợ giao thức Internet đã tạo ra một nền tảng phổ biến để hình thành nền móng kinh tế số cho tất cả các lĩnh vực. Sự khác biệt giữa nền kinh tế Internet và nền kinh tế số dựa trên sự khác biệt về tác động của từng ngành. Nền kinh tế Internet “đề cập đến các hoạt động kinh tế, đầu vào, đầu ra và việc làm liên quan trực tiếp đến việc sử dụng Internet”. Ngược lại, nền kinh tế số dựa trên sự thúc đẩy liên kết giữa các mạng và khả năng tương tác của các nền tảng số trong mọi lĩnh vực của kinh tế - xã hội để cung cấp các dịch vụ.
a. Về bản chất:
Đây là các mơ hình tổ chức và phương thức hoạt động của nền kinh tế dựa trên ứng dụng công nghệ số. Lĩnh vực công nghệ kỹ thuật số phát triển đã mở đường cho sự đổi mới và phát triển trên toàn cầu. Việc áp dụng những tiến bộ công nghệ trong nhiều năm qua đã tác động vào các ngành kinh doanh cũng như mọi khía cạnh của cuộc sống. Công nghệ số thúc đẩy nhiều ngành kinh doanh cải tiến mơ hình phát triển, tạo ra nhiều ngành cơng nghiệp mới và xóa mờ đường biên giới địa lý.
b. Đặc trưng của kinh tế số:
Là có thể được tập hợp trong 3 q trình xử lý chính đan xen với nhau, bao gồm: xử lý vật liệu; xử lý năng lượng; xử lý thông tin. Trong đó, xử lý thơng tin đóng vai trị quan trọng nhất, và cũng là lĩnh vực dễ số hóa nhất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của công nghệ thông tin và Internet giúp kết nối hóa các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị tồn cầu.
<b>2. Vai trị quản lý ủa n à nướ trong nền kin tế số: </b>
Chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số là chủ đề trọng tâm, mục tiêu ưu tiên và động lực phát triển mạnh mẽ hàng đầu của Việt Nam trong nhiều thập kỷ tới. Đảng ta xác định: “Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và các địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách tồn diện từ chính phủ đến xã hội, doanh nghiệp để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số”. Với 3 trụ cột chính, đó là:
<i>Trụ cột thứ nhất, là hạ tầng và dịch vụ số bao gồm hạ tầng cứng và mạng lưới viễn </i>
thông làm nền tảng để tạo ra hạ tầng mềm là dịch vụ số giúp tối ưu các hoạt động của nền kinh tế.
<i>Trụ cột thứ hai, là tài nguyên số bao gồm hệ sinh thái dữ liệu và tri thức mở có ích </i>
cho việc dự đốn kịp thời và ra quyết định mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay các cơ sở dữ liệu quốc gia về nơng nghiệp, tài chính, dân cư, quản lý đất đai... chưa được thực hiện hoàn thiện. Dữ liệu các dịch vụ công trực tuyến hiện vẫn chưa liên thông ở các sở ngành, địa phương nên chưa phát huy được tính thống nhất và chia sẻ thơng tin, vì vậy người dân khi làm dịch vụ cơng thường phải khai báo thông tin nhiều lần cho mỗi dịch vụ.
<i>Trụ cột thứ ba, là chính sách chuyển đổi số, bao gồm các dịch vụ, chính sách chuyển </i>
đổi từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số, chính sách đào tạo nhân lực số chất lượng cao, chính sách đầu tư kinh doanh số, chính sách an tồn thơng tin, chủ quyền số và sở hữu trí tuệ.
Việc xây dựng Chính phủ điện tử phải gắn liền với vai trò của người đứng đầu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính, bảo đảm thực thi có hiệu quả trong cơng tác quản lý nhà nước. Việt Nam thành lập Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, trực tiếp chỉ đạo; các thành viên Ủy ban là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng các bộ liên quan trực tiếp tới các nhiệm vụ trong xây dựng Chính phủ điện tử, đồng thời có sự tham gia của đại diện khu vực tư nhân để phát huy hiệu quả hợp tác công-tư trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>3. T uận lợi và t á t ứ trong quản lý n à nướ về nền kin tế số: </b>
a. Những thuận lợi cho phát triển và quản lý nền kinh tế số ở Việt Nam:
Dù đi sau trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển kinh tế số với nhiều lợi thế cơ bản sau đây:
<i>Thứ nhất, Việt Nam luôn được đánh giá có mơi trường chính trị, xã hội ổn định, cùng </i>
với nền tảng vĩ mô được củng cố vững chắc. Chính phủ Việt Nam thể hiện rõ quyết tâm, định hướng và nỗ lực hành động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt
<i>Nam. Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 1-1-2019, của Chính phủ, về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 đã đề ra các nhiệm vụ </i>
thúc đẩy kinh tế số, như xây dựng giải pháp phát triển nhân lực quốc gia đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghệ 4.0; thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng Chiến lược quốc gia vềcách mạng công nghệ 4.0; phát triển bứt phá hạ tầng viễn thông, Internet băng rộng và mạng di động 5G; xây dựng Đề án chuyển đổi số quốc gia, từng bước tạo môi trường pháp lý để triển khai kế hoạch chuyển đổi số; thay đổi mơ hình quản trị, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, nơng nghiệp, du lịch, môi trường, đô thị thông minh... Trên thực tế, Chính phủ đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, hình thành cổng thông tin điện tử quốc gia, cải cách mạnh mẽ nền hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
<i>Thứ hai, nguồn nhân lực là một lợi thế quan trọng cho việc phát triển kinh tế số ở Việt </i>
Nam. Dân số gần 100 triệu người, đang trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”, được đào tạo tốt, có nền tảng tốn học và công nghệ thông tin tương đối tốt, lao động chăm chỉ người Việt Nam được xem là yêu thích và nhanh nhạy trong nắm bắt cơng nghệ cũng như thích ứng khá nhanh với cái mới, đây chính là một trong những chìa khóa quan trọng để thúc đẩy kinh tế số.
<i>Thứ ba, Việt Nam đang có những nền tảng hạ tầng khá thuận lợi cho việc chuyển đổi </i>
và ứng dụng số. Việt Nam có mạng lưới hạ tầng mạng viễn thông, công nghệ thông tin và Internet phát triển nhanh chóng, bao phủ rộng khắp và hiện đại không thua kém các nước tiên tiến trên thế giới. Việt Nam có số dân dùng Internet, điện thoại thông minh cao và sử dụng mạng xã hội nằm trong top đầu các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
<i>Thứ tư, những năm gần đây các hình thức của kinh tế số ở Việt Nam phát triển đa </i>
dạng, nhanh chóng, hứa hẹn sự bùng nổ mạnh mẽ hơn trong những năm tới. Việt Nam là
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số khá nhanh trong khu vực. Xu hướng số hóa, chuyển đổi và ứng dụng cơng nghệ số ở Việt Nam đang diễn ra nhanh và rộng khắp trên nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại đến giao thông, ngân hàng, y tế, giáo dục, du lịch, giải trí, quảng cáo và các dạng ứng dụng trực tuyến... Trong đó, đáng chú ý là thương mại điện tử ở Việt Nam đang phát triển nhanh chóng cả về hình thức lẫn quy mô thị trường, trở thành một trong mười thị trường phát triển có tiềm năng nhất thế giới về tăng trưởng thương mại điện tử. Trong khi các thương hiệu thương mại điện tử nổi tiếng thế giới đang đổ bộ mạnh mẽ vào Việt Nam, như Amazon, Ebay, Alibaba, Shopee... thì các trang thương mại điện tử có nguồn gốc Việt Nam cũng đang nở rộ, một số trang, như Lazada Việt Nam, Tiki, Sendo, FPT Shop, Điện máy xanh, Thế giới di động, Adayroi, ... dần dần chiếm lĩnh thị phần trong nước và qua đó thúc đẩy thay đổi xu hướng và hành vi mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam.
<i>Thứ năm, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh </i>
nhất khu vực và thế giới. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục trong vòng hơn 30 năm qua và những năm gần đây luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7%/năm. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh và một nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, sự gia tăng thu nhập của người dân, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu và một thị trường nội địa gần 100 triệu dân là nền tảng và sức hút lớn thúc đẩy kinh tế số nói chung và thương mại điện tử nói riêng phát triển.
Để khơng bỏ lỡ cơ hội này, trước hết, Chính phủ phải tự đổi mới, chuyển đổi để trở thành một Chính phủ của thời đại 4.0, có đủ năng lực quản trị phát triển quốc gia trong thời đại số. Đồng thời, các cấp, các ngành và tồn xã hội cần có những thay đổi từ nhận thức đến hành động để phát huy được những thuận lợi do việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số mang lại và đáp ứng được những thách thức của thời đại kinh tế số. Với quyết tâm chính trị, thống nhất quan điểm “hành động nhanh, kết quả lớn, làm đâu chắc đấy”, “nghĩ lớn, nghĩ tổng thể nhưng bắt đầu từ những việc nhỏ nhất nhưng có hiệu quả lớn”, Chính phủ đã giao Văn phịng Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025, xác định rõ mục tiêu, vai trị, trách nhiệm, lộ trình cụ thể và thiết lập hệ thống chỉ số giám sát hiệu quả thực thi, tránh tình trạng làm hình thức mà không bảo đảm yêu cầu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">b. Những thách thức vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế số ở Việt Nam:
Bên cạnh khía cạnh tích cực đó, ở cấp độ quốc gia, những vấn đề kinh tế - xã hội lớn của tiến trình số hóa đời sống đang ngày càng trở nên rõ hơn, vượt ra khỏi khả năng giải quyết của khu vực tư và cần đến bàn tay hành động của nhà nước. Và thực chất, khơng riêng gì Việt Nam, những vấn đề này cũng đã xuất hiện ở các quốc gia khác và trở thành bài tốn chính sách chung ở cấp độ toàn cầu.
<i>Một là, Việt Nam đi sau trong xu hướng kinh tế số, nhận thức, kiến thức của nhiều </i>
cán bộ, doanh nghiệp và người dân về kinh tế số, thời cơ và thách thức của nó đối với sự phát triển của đất nước còn chưa đồng đều ở các cấp, các ngành dẫn tới nhu cầu, kế hoạch và hành động nắm bắt xu thế kinh tế số còn chưa kịp thời, nhanh nhạy, sự chuyển đổi số ở một số cấp, ngành, địa phương và các doanh nghiệp còn hạn chế.Nhận thức về kinh tế số, nhu cầu và hành động theo xu thế kinh tế số còn chậm chạp, chưa đồng đều, thống nhất từ trên xuống dưới, từ chính quyền đến doanh nghiệp và người dân là một hạn chế góp phần làm chậm xu hướng số hóa nền kinh tế Việt Nam.
<i>Hai là, môi trường pháp lý và thể chế cho phát triển kinh tế số ở nước ta còn yếu, </i>
chưa chặt chẽ, đồng bộ, minh bạch và mang tính kiến tạo. Sự chuyển đổi nhanh của các mơ hình kinh doanh trong nền kinh tế số đã dẫn tới một số quy định pháp luật không theo kịp. Thời gian qua, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ, kinh tế số cùng các phương thức kinh doanh và các ý tưởng sáng tạo mới xuất hiện và chưa có tiền lệ trước đây làm cho các cơ quan quản lý nhà nước tỏ ra khá lúng túng trong quản lý các hoạt động kinh tế số. Ngồi ra, nếu chính sách quản lý quá chặt thì với đặc thù có thể kinh doanh xuyên biên giới, các doanh nghiệp nước ngồi, vốn khơng bị quản lý bởi chính sách của Việt Nam và với tiềm năng tài chính của mình có thể tạo ra sự cạnh tranh khơng bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước.
<i>Ba là, thách thức về an ninh mạng, bảo mật, an tồn thơng tin ở nước ta. Kinh tế số </i>
dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, Internet chứa đựng nguy cơ lớn về bảo mật, an tồn thơng tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các chủ thể kinh tế số. Việt Nam là một trong những quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất và cũng dễ bị tổn thương nhất khi bị tấn cơng mạng,việc rị rỉ dữ liệu, mua bán và khai thác dữ liệu cá nhân cũng diễn ra phổ biến, trong đó các vụ việc nổi cộm liên quan đến cả những doanh nghiệp lớn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Trong một thế giới ngày càng kết nối, khi kỹ thuật số trở nên phổ biến, việc ngăn chặn và giải quyết vấn đề tấn công qua mạng ngày càng trở nên cấp bách vì nó khơng chỉ là vấn đề an ninh, an tồn kinh tế, bảo mật thơng tin cá nhân, doanh nghiệp mà còn là vấn đề an ninh quốc gia.
<i>Bốn là, vấn đề tin giả, thơng tin khơng chính xác và các phát ngơn cực đoan trên môi </i>
trường mạng xã hội. Ở Việt Nam, không chỉ Đảng, Nhà nước, không chỉ lãnh đạo bị tấn công bởi tin giả, thông tin gọi là “xấu, độc”, mỗi người dân, cộng đồng cũng đang hứng chịu các vấn đề tương tự. Nhưng cân bằng như thế nào giữa phát triển kinh tế (mạng xã hội là một nền tảng cho kinh doanh) và nhu cầu bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân, và chia sẻ thông tin của người dùng; cân bằng thế nào giữa kiểm sốt “phát ngơn cực đoan” và quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của người dân là bài tốn khơng hề dễ giải và hiện chưa có câu trả lời.
<i>Năm là, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số. Việt Nam </i>
đang có sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông. Giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển vũ bão của kinh tế số, kinh tế sáng tạo của cách mạng công nghệ 4.0 trên thế giới hiện nay. Vấn đề này nếu không được quan tâm đầu tư thích đáng trong thời gian tới thì sẽ là một điểm nghẽn lớn cho phát triển kinh tế số ở nước ta.
<i>Sáu là, vấn đề kinh tế, trong đó tập trung vào quản lý, đặc biệt là vấn đề thu thuế thế </i>
nào với các hoạt động thương mại và cung cấp dịch vụ xuyên biên giới. Internet là không biên giới, lãnh thổ và địa lý trở thành tương đối khi ngồi ở đâu doanh nghiệp cũng có thể làm việc, kinh doanh. Cản trở lưu thông thông tin và dữ liệu là cắt đường huyết mạch của kinh tế số.
<i>Bảy là, vấn đề riêng của Việt Nam: hệ thống xử lý tranh chấp cho các hoạt động kinh </i>
doanh, thương mại, dân sự trên môi trường số. Hệ thống tư pháp vốn là điểm yếu cố hữu của Việt Nam và càng là vấn đề khi bước vào kỷ nguyên số. Bởi tốc độ và mức độ ảnh hưởng của tranh chấp nếu trong đời thực là 1 thì trên mơi trường số sẽ lũy thừa lên n lần. Khơng có một hệ thống tư pháp tốt để giải quyết tranh chấp, để bảo vệ cơng dân số thì coi chừng doanh nghiệp sẽ di cư sang một quốc gia có hệ thống tư pháp tốt hơn. Ngoài ra, một số tồn tại được chỉ ra như nền tảng kỹ thuật chia sẻ dữ liệu triển khai chậm, đặc
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">biệt cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư dậm chân tại chỗ; dịch vụ công trực tuyến thiết kế rời rạc, chưa lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, dẫn đến số lượng hồ sơ trực tuyến rất thấp, thậm chí một số dịch vụ không phát sinh hồ sơ. Dịch vụ lẫn lộn giữa giấy tờ và trực tuyến, gây phiền hà cho người dân và công chức thực hiện. Nguồn nhân lực cơng nghệ thơng tin mỏng và có xu hướng dịch chuyển sang khu vực tư. Bảo mật thấp, có tình trạng cát cứ, khơng sẵn sàng chia sẻ, liên thơng giữ liệu, chưa có trách nhiệm giải trình của người đứng đầu...
<b>4. T ự trạng quản lý t ương mại điện tử: </b>
Việc mua bán online trên các sàn thương mại điện tử hoặc mạng xã hội như Facebook, Zalo đang ngày càng trở nên phổ biến và đã bị một số tổ chức, đối tượng lợi dụng để kinh doanh hàng lậu, hàng không rõ nguồn gốc, hàng giả, thậm chí cả hàng cấm. Trong quản lý lĩnh vực thương mại điện tử vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc trong các quy định pháp luật liên quan. Vì vậy, cần nghiên cứu để có cơng cụ quản lý phù hợp bản chất hoạt động của từng loại hình, giúp làm trong sạch môi trường kinh doanh, tránh thất thu thuế cho Nhà nước, cũng như giữ được niềm tin của người tiêu dùng dành cho thương mại điện tử.
Trong vài năm trở lại đây, chúng ta đã chứng kiến sự bùng nổ và có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô của hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Tuy nhiên, "sân chơi" lớn này đang bị các đối tượng lợi dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của người tiêu dùng, thiệt hại cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính. Nguyên nhân bởi, thị trường này hiện đang tồn tại nhiều bất cập trong cơng tác quản lý các loại hình thương mại điện tử khác nhau. Ở đây, thương mại điện tử trên các mạng xã hội có cách thức hoạt động thường phức tạp hơn do khơng có đơn vị trung gian đứng ra quản lý người bán, đồng kiểm sốt hàng hóa đăng bán nên phần lớn các mặt hàng này thường là nhập lậu, giả mạo các thương hiệu nổi tiếng, khơng có hóa đơn chứng từ.
Có thể thấy, do tính chất đặc thù của thương mại điện tử khi người mua và người bán không gặp mặt và chỉ liên lạc trên môi trường mạng, nên hàng giả, hàng kém chất lượng đã xuất hiện ngày càng nhiều trên các gian hàng trực tuyến. Ðể bán được nhiều hàng, các đối tượng thường dùng những hình thức phổ biến như livestream trên Facebook với giá sản phẩm rất rẻ, kèm theo lời mời chào hấp dẫn để thu hút người mua hàng. Các đối tượng còn lập nhiều tài khoản bán hàng trên các mạng xã hội Facebook, Zalo hay sàn
</div>