Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Nội dung cơ bản của nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.41 KB, 3 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Nội dung cơ bản của nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hịa bình</b>

Ngun tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hịa bình cũng được chính thức thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế trong Hiến chương Liên hợp quốc.

Theo khoản 3, Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc, “Tất cả các Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng các biện pháp hịa bình, theo cách khơng làm nguy hại đến hịa bình và an ninh quốc tế, và cơng lý”

Theo Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc, cũng đã xây dựng hệ thống các biện pháp hịa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.

Thế nào là ” tranh chấp quốc tế”? luật quốc tế chưa có một định nghĩa chính xác về tranh chấp quốc tế được thừa nhận rộng rãi, nhưng đa số các tác giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của quan hệ quốc tế.

– Ngun tắc hịa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến chương liên hợp quốc và được khẳng định rõ ràng trong Tuyên bố năm 1970, trong đó chỉ rõ “mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế của mình với các quốc gia khác bằng phươngpháp hịa bình để khơng dẫn đến đe dọa hịa bình, an ninh quốc tế và cơng bằng”.

* Các biện pháp hịa bình giải quyết tranh chấp: Điều 33 Hiến chương liên hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hịa bình mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn, đó là các con đường : “… đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa Như vậy, hòa bình giải quyết các tranh”bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình” chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia – thành viên của cộng đồng quốc tế.

Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi tranh chấp đều được giải quyết trên cơ sở luật quốc tế và nguyên tắc công bằng. Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng với nhau.

Sự hình thành và phát triển của ngun tắc hồ bình giải quyết các tranh chấp quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tác này.

Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn, phát sinh từ các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó thường là hồn cảnh cụ thể mà trong đó các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm cụ thể trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau và có những yêu cầu, hay địi hỏi cụ thể khơng thể thống nhất được. Vì vậy, sự trái ngược nhau về quan điểm và quyền lợi đã đưa đến việc không thoả thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, từ đó làm nảy sinh xung đột, mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp là sự va chạm xung đột về quyền lợi giữa các quốc gia hoặc nhóm các quốc gia; sự khác biệt về đường lối chính trị, kinh tế giữa các quốc gia hoặc nhóm các quốc gia và cả sự khác biệt về cách nhìn nhận, giải quyết các vấn đề pháp lý quốc tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Trước Chiến tranh thế giới thứ II, luật quốc tế đã ghi nhận một số biện pháp giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế nhưng giải quyết hồ bình tranh chấp quốc tế thời kỳ đó chưa trở thành nguyên tắc của luật quốc tế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Hiến chương Liên hợp quốc (khoản 3 Điều 2) đã ghi nhận hồ bình giải quyết tranh chấp quốc tế là nguyên tắc bắt buộc chung đối với tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế, theo đó, tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc phải có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hồ bình. Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định cụ thể các biện pháp hồ bình mà các thành viên Liên hợp quốc với tư cách là bên tham gia vào tranh chấp quốc tế cần lựa chọn để giải quyết. Theo Điều 33 Hiến chương thì “các bên tham gia tranh chấp quốc tế trước tiên phải cố gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như: đàm phán, điều tra, trung gian, hoà giải, trọng tài, tồ án, thơng qua các cơ quan hay tổ chức quốc tế khu vực hoặc bằng những biện pháp hoà bình khác do các bên lựa chọn Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp hồ bình nói trên để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. Thực tiễn cho thấy phương pháp đàm phán là phương pháp thườngxuyên được các quốc gia hay sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đổng.

Đàm phán trực tiếp là biện pháp tốt nhất để giải quyết nhanh chóng tranh chấp quốc tế, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên, dễ đi đến thoả thuận nhượng bộ lẫn nhau.

<b>Ngoại lệ của nguyên tắc</b>

<b>Đây là một nguyên tắc không tồn tại bất kỳ ngoại lệ nào.</b>

<b>- Hội đồng bảo an Liên hợp quốc ln phải tơn trọng biện pháp giải quyết hịa bình mà các bên lựa chọn. Trong trường hợp các bên tự lựa chọn mà vẫn không giải quyết triệt để </b>

vấn đề, hội đồng bảo an có quyền kiến nghị các bên áp dụng các biện pháp khác nhằm nhanh chóng chấm dứt những mối đe dọa.

<b>Ví dụ thực tế</b>

<b>Ví dụ: Tranh chấp Biên giới Biển Đơng Giữa Trung Quốc và Việt Nam đã cam kết giải </b>

quyết tranh chấp biển Đơng bằng các biện pháp hồ bình, khơng sử dụng vũ lực. Họ thực hiện đàm phán và thỏa thuận với nhau trong nỗ lực tìm ra giải pháp công bằng, thúc đẩy hợptác kinh tế, và tuân thủ quy định quốc tế để bảo đảm hịa bình và ổn định trong khu vực.Nếucác biện pháp trên không đạt được giải pháp, các bên có trách nhiệm tìm kiếm những biện pháp hồ bình khác, có thể bao gồm thúc đẩy hợp tác kinh tế và xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực chung của phát triển khu vực Biển Đơng

<b>Ví dụ: Các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đều có lợi ích và yêu sách về các vùng biển và các đảo trên Biển Đơng.</b>

Các quốc gia này có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại và gây nguy hiểm cho việc gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới. Điều này có nghĩa là các quốc gia khơng nên thực hiện các hành động gây căng thẳng, như xây dựng căn cứ quân sự trái phép trên các đảo nhân tạo hoặc tăng cường quân sự quá mức.Thay vào đó, các quốc gia trong tranh chấp cần hành động phù hợp với mục đích và nguyên tắc của Liên HợpQuốc. Điều này có thể bao gồm việc tham giavào các cuộc đàm phán và thỏa thuận với các quốc gia khác để giải quyết tranh chấp một cách hịa bình và theo luật pháp quốc tế. Các quốc gia cũng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ và trung đoàn từ cộng đồng quốc tế, như Liên Hợp

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Quốc, để giải quyết tranh chấp một cách công bằng và bảo vệ quyền lợi của mình mà khơng gây nguy hiểm cho an ninh tồn cầu

<b>Ví dụ: 19/10/1993, tại Hà Nội diễn ra lễ ký kết thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộnghòa nhân dân Trung Hoa. Thỏa thuận này ghi nhận rằng, hai nước phải “Thơng qua </b>

thương lượng giảiquyết hịa bình các vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước trên cơ sở 5 nguntắc: tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫnnhau, không can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi vàtồn tại hịa bình”.

</div>

×