Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

giải pháp phát triểnkinh tế ở tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.72 MB, 27 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Chương 2. <b>THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY </b>

8 2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa 8

Chương 3. <b>GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở TỈNH THÁI BÌNH </b> 16 3.1. Tổ chức, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội địa phương 16 3.2. Tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất trong nhân dân 17 3.3. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển nghề và làng nghề, ưu tiên các xã nội

đồng, các vùng xa trung tâm kinh tế-xã hội, văn hóa, các vùng ven biển

21 3.4. Tích cực, chủ động đẩy mạnh liên doanh, liên kết 5 nhà: “Nhà

nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà ngân hàng” 22 3.5. Quan tâm chăm no đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân 25

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT </b>

BCH : Ban chấp hành CT : Chỉ thị CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH : Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ĐCS : Đảng Cộng sản

LHPN : Liên hiệp phụ nữ MTTQ : Mặt trận Tổ quốc NQ : Nghị quyết QLNN : Quản lý Nhà nước

UBND : Ủy ban nhân dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, chính trị là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là động lực để phát triển đất nước”. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với quốc gia dân tộc Việt Nam hiện nay nói chung và ở địa phương tỉnh Thái Bình nói riêng là phải tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và có những cơ chế, giải pháp thích hợp để nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, tránh bị tụt hậu xa về kinh tế hoặc rơi vào bẫy những nước có thu nhập trung bình thấp.

Thái Bình là một tỉnh đồng bằng khơng có núi, có nền nơng nghiệp trù phú. Tuy nhiên, về mặt địa lý tự nhiên cách xa trung tâm Hà Nội, khó khăn trong việc giao thương về kinh tế. Do đó, tốc độ phát triển kinh tế và thu nhập GDP so với các tỉnh lân cận như Hải Phòng, Nam Định, Hưng Yên … là thấp. Vì vậy, u cầu đặt ra phải có những cơ chế, chính sách và giải pháp thích hợp để tạo ra bước đột phát cho sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa ở tỉnh Thái Bình. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY”

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

2.1. Mục đích của đề tài

Nghiên cứu vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào việc xây dựng những giải pháp để phát triển kinh tế ở địa phương tỉnh Thái Bình hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ của đề tài

Về ặ m t lý luận: Làm rõ nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, rút ra ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn

Về mặt thực tiễn:

Làm rõ thực trạng kinh tế - xã hộ ởi địa phương tỉnh Thái Bình hiện nay

Đề xuất những giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa ở địa phương tỉnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Thái Bình hiện nay

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở địa phương Thái Bình trong những năm đổi mới vừa qua.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:

- Về nội dung nghiên cứu: Gồm hai phần lý luận và thực tiễn.

Về mặt lý luận: Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phát triển Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở địa phương Thái Bình trong những năm đổi mới vừa qua

Khơng gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Thái Bình Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2001 đến nay

<b>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu </b>

4.1. Cơ sở lý luận

Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận án, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm khách quan, quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn.

<b>5. Những đóng góp mới của đề tài </b>

5.1. Về lý luận: Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự phát triển và tác dụng của việc nghiên cứu

5.2. Về ự th c tiễn: Thực trạng kinh tế - xã hộ ởi tỉnh Thái Bình và đề xuất giải pháp góp phần xây dựng và phát triển kinh tế địa phương theo hướng bền vững.

<b>6. Kết cấu của đề i tà</b>

<b>Đề tài ghiên cứu gồm: 3 chương, 10 tiết </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận động nói chung; đó khơng phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.

Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.

Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi q trình biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan. Ăngghen cho rằng phát triển là: “Mối liên hệ nhân quả có sự vận động tiến lên từ thấp đến cao quan tất cả sự vận động chữ chi và những bước thụt lùi tạm thời…” [7, tr.429].

- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có q trình phát triển khơng hồn tồn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thối hóa ở mặt khác…Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.

<b>1.3. Ý nghĩa phương pháp </b>luận

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo Lênin: “Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động…trong sự biến đổi của nó”

Quan điểm phát triển địi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.

Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy địi hỏi chúng ta phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.

Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt q trình đó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trò nhân tố chủ quan của con nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng quy luật.

Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng -trong nhận thức và thưc tiễn. Khẳng định vai trị đó của phép biện chứng duy vật, Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Lênin cũng cho rằng: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ khơng phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY </b>

<b>2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá </b>

2.2.1. Điều kiện tự nhiên

Thái Bình là tỉnh đồng bằng châu thổ sơng Hồng khơng có núi; phía Bắc giáp Hải Phịng, phía Nam giáp Nam Định, phía Tây giáp Hưng Yên và Hải Dương, phía Đơng giáp Vịnh Bắc Bộ (biển Đơng) có hơn 54 km bờ biển; diện tích tự nhiên là 1.535 km<small>2</small>. Ngoài ra, tỉnh được bao bọc bởi các con sơng lớn là: sơng Hồng, sơng Hóa, sơng Luộc tạo ra đất đai màu mỡ, phì nhiêu rất thuận tiện cho việc phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ. Trước đây, tỉnh Thái Bình được ví như “một ốc đảo” ngăn cách bởi những con sông lớn và biển, nằm tách biệt với các tỉnh lân cận rất khó khăn cho người dân Thái Bình khi ra tỉnh ngồi và ngược lại người ngồi tỉnh vào Thái Bình. Cho nên, các tơn giáo do có lịch sử hình thành và phát triển muộn muốn vào tỉnh Thái Bình đã gặp rất nhiều khó khăn, cần phải nhờ đến các thế lực lớn đằng sau trợ giúp về cả vật chất và tinh thần.

Từ năm 2000 đến nay, sau khi dự án quốc lộ 10 và quốc lộ 39 được nâng cấp thì Thái Bình trở thành tỉnh có mạng lưới giao thông thủy bộ khá phát triển. Tuyến quốc lộ 10 đã nối Thái Bình với Nam Định - Ninh Bình, Hải Phòng - Quảng Ninh; tuyến qu c lộ 39 ốđã nối Thái Bình với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ; với Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; các con sông lớn bao quanh tỉnh đã tạo điều kiện cho giao thông đường sông phát triển; cảng Diêm Điền được đầu tư trở thành một trong những cảng lớn của quốc gia là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển ở Thái Bình hiện nay.

2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Từ điều kiện tự nhiên như trên đã chi phối đến đặc điểm kinh tế - xã hội và mật độ dân cư ở tỉnh Thái Bình, với đặc điểm là một tỉnh đồng bằng Bắc bộ bị ngăn cách bởi những con sông lớn và được phù sa châu thổ sông Hồng bồi đắp đã tạo ra nguồn tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nguyên đất đai mầu mỡ thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp trù phú. Vì vậy, Thái Bình trở thành một trong những tỉnh có nền nơng nghiệp lâu đời phát triển mạnh, gắn kết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn tạo ra sự ổn định, tập trung của cư dân địa phương. Chính việc ổn định về mặt kinh tế dựa trên cơ sở “tự cung, tự ấ c p” và bị ngăn cách bởi những con sông lớn như trên, đã làm cho khả năng giao lưu về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hố, tơn giáo của người dân Thái Bình diễn ra khơng thuận lợi.

Từ năm 2000 đến nay, sau khi có những dự án nâng cấp đường thuỷ bộ thì kinh tế tỉnh Thái Bình có những chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng (GDP) liên tục tăng lên qua các năm. Theo báo cáo Đại hội lần thứ XVIII năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm (2006-2010) đạt là 12,02%, GDP bình quân đầu người đạt 16,1 triệu đồng (850USD).

Dân số tỉnh Thái Bình hiện nay, khoảng 1.920.000 người với 285 xã, phường, thị trấn, trong đó có 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh Thái Bình bao gồm: (huyện Kiến Xương, huyện Tiền Hải, huyện Hưng Hà, huyện Quỳnh Phụ, huyện Thái Thuỵ, huyệnĐông Hưng, huyện Vũ Thư và thành phố Thái Bình). Dân số nông thôn là 1.720.000 người, chiếm 94,2%, dân số thành thị là 200.000 người, chiếm 5,8%; mật độ dân số 1.203 người/ km², bình quân nhân khẩu là 3,75 người/hộ, mật độ dân số 1.183 người/km<small>2</small>; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hiện nay là 1,02%. Số người trong độ tuổi lao động khoảng 1.621.000 người.

2.2.3. Văn hoá và con người Thái Bình

Từ điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, kinh tế - xã hội đã hình thành nên truyền thống, bản sắc văn hóa riêng của người dân Thái Bình:

* Truyền thống đồn kết vượt khó, cần cù lao động sản xuất của người dân Thái Bình Xuất phát từ hồn cảnh thực tế Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, thường xuyên phải chống chọi với thiên tai, địch họa như: bão biển, giặc ngoại xâm đánh chiếm... Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển người dân Thái Bình buộc phải gắn bó, đồn kết với

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhau thành một khối thống nhất, nhờ đó đã hình thành nên truyền thống đoàn kết, cần cù trong lao động sản xuất của người dân Thái Bình. Trong lao động sản xuất, thể hiện ở tinh thần khai hoang lấn biển, đắp đập ngăn sông trị thủy phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt vật chất của nhân dân. Chính vì vậy, diện tích đất canh tác ngày càng được mở ộ r ng, trong những năm “kháng chiến, kiến quốc”, Thái Bình là hậu phương lớn của cả nước, cung cấp nhân lực, vật lực góp phần thực hiện thắng lợi 2 cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; đồng thời là một trong những tỉnh đi đầu trong các phong trào: “Thóc vượt cân, quân vượt mức”; “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”; “Vì miền Nam ruột thịt, vì Vĩnh Trà kết nghĩa”... “Trung bình hàng năm địa phương Thái Bình cung cấp cho tiền tuyến 80.000 tấn lương thực, năm cao nhất 116.180 tấn (1972); thực phẩm giao nộp từ 5000-7000 tấn/năm” [6, tr. 765]. Địa phương Thái Bình là tỉnh đầu tiên của cả nước đạt 5 tấn/ha được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động viên, khen ngợi.

* Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm

Thực tiễn sản xuất nông nghiệp trải qua nhiều thế hệ, người dân tỉnh Thái Bình đã gắn chặt với văn minh nông nghiệp, với đất, nước, q hương, gia đình, làng xã. Do đó, tạo nên mối quan hệ gắn bó giữa nhà - làng - nước, hình thành nên truyền thống yêu nước sâu sắc của người dân Thái Bình. Vì v y, khi thậ ực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ xâm lược, đô hộ dân tộc Việt Nam đã xuất hiện nhiều phong trào cách mạng và tấm gương yêu nước tiêu biểu như: Phong trào“Thanh niên xung phong”; “Thi đua giết giặc, lập công”, “vững tay súng, đảm tay cày”, “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”. Trên biển, ngư dân Thái Bình xác định “Biển cả là chiến trường, thuyền lưới là vũ khí, ngư dân là chiến sĩ”... Tổng kết lịch sử sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tồn tỉnh Thái Bình có “34.403 con em nhân dân Thái Bình đã hy sinh, 32.000 người mang thương tật. Tại nghĩa trang Trường Sơn có 10.600 liệt sĩ n nghỉ, Thái Bình có 683 người. Tại nghĩa trang Đơng Hà (Quảng Trị). Thái Bình có tới 269 người nằm lại. Đánh giá sự cống hiến của Thái Bình, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

cho Đảng bộ và nhân dân Thái Bình, phong tặng 1817 danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 47 con em Thái Bình được tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang..” [6, tr. 766]. Qua nghiên cứu cho thấy, Thái Bình là một trong những tỉnh giàu truyền thống cách mạng, đoàn kết, anh hùng trong lao động sản xuất và trong chiến đấu. Thắng lợi của đường lối cách mạng Việt Nam có sự đóng góp to lớn về nhân lực, vật lực, trí lực của nhân dân Thái Bình như lời nhận xét của nhà nghiên cứu Vũ Khiêu nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của Lê Q Đơn: “Thái Bình Q hương của Lê Quý Đôn, mảnh đất thiêng liêng của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng, quê hương của cách mạng và khoa học, quê hương của những khó khăn hôm nay và thành tựu rực rỡ của ngày mai...quê hương của những con người bất diệt... nơi đã bùng lên bao nhiêu ngọn lửa của phong trào cách mạng, nơi đã giương cao ngọn cờ đầu của năng suất lúa, nơi đã cống hiến bao người con cho sự nghiệp chúng ta ngày nay” [6, tr. 772]

<b>2.2. Những thành tựu và hạn chế </b>

2.2.1. Những thành tựu

Từ năm 2001 đến nay, địa phương Thái Bình ổn định mơi trường chính trị, tạo đà cho việc phát triển kinh tế xã hội, văn hóa. Tính đến năm 2016 cho thấy, ổng - <b><small> </small></b>tsản phẩm trong tỉnh (GRNP) đạt 38.341 tỷ đồng (tăng 7,83% so năm 2013), là năm có mức tăng trưởng cao nhất trong 04 năm gần đây và cao hơn mức tăng trưởng chung của cả nước (5,8%). Tổng giá trị sản xuất ước tăng 8,82% . Cơ cấu kinh tế <small>[6]</small>chuyển dịch theo hướng tích cực.

Giá trị sản xuất cơng nghiệp (theo giá so sánh 2010) ước đạt 33.840 tỷ đồng, tăng 11,4% so với năm 2013 . Ðã có 126/144 dự án trong các KCN đi vào hoạt động <small>[7]</small>đem lại giá trị sản xuất là 12.566 tỷ đồng, tăng 11,3% so năm 2013.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 ước đạt 25.639 tỷ đồng, tăng 13.48% so 2013.

Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 (không kể ghi thu) ước đạt 12.115 tỷ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

đồng (bằng 155% dự toán, tăng 8,3% so với năm 2013). Trong đó thu nội địa 4.053,6 tỷ đồng (tăng 32,4% so với cùng kỳ).

Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2014 ước đạt 12.085 tỷ đồng (bằng 160% dự toán, tăng 6,8% so với năm 2013). Trong đó chi phát triển kinh tế đạt 5.022,6 tỷ đồng

Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.168 triệu USD, tăng 17% so với 2013.Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.190 triệu USD, tăng 27% so với 2013.

Toàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho 32.200 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,32%.

* Các khu Công nghi p c a T nh Thái Bìnhệ ủ ỉ

KCN Phúc Khánh 120ha KCN Nguy; ễn Đức C nh 64ha KCN Ti n Phong ả ; ề77ha, KCN Ti n H i 400ha KCN C u Nghìn 214ha KCN Gia L 85ha KCN Diêm ề ả ; ầ ; ễ ; Điền 100ha KCN Sơng Trà 250ha. Ngồi các khu Công nghi; ệp trên, tương lai sẽthành l p m t s Khu Công nghiậ ộ ố ệp: KCN An Hòa 400ha KCN Minh Hòa 390ha; ; KCN Đồng Tu 50ha KCN Thanh Nê 50ha; ; KCN Sơn Hải 450ha

* Xây dựng nơng thơn mới

Thái Bình là tỉnh điểm về xây dựng nơng thơn mới, Thái Bình đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tính đến hết năm 2016 Thái Bình đã có: 14 xã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới vượt 6 xã so với mục tiêu đề ra (trong - đó nhiều xã khơng phải là xã điểm được chọn đầu tư của huyện), 34 xã đạt từ 15 - 17 tiêu chí, 163 xã đạt 10 - 14 tiêu chí, 52 xã đạt dưới 10 tiêu chí.

* Về làng nghề truyền thống

Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái, đây là một làng nghề chạm khắc trên mặt kim loại. Cách đây hơn 300 năm nghệ nhân nghề chạm bạc tên là Nguyễn Kim Lâu theo thuyền dọc sông Trà Lý về lập nghiệp ở đây. Ông đã truyền nghề chạm bạc cho dân làng, trải qua nhiều thời kỳ đến nay nghề vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Sau khi ông mất, để tưởng

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

nhớ đến công lao của ông nhân dân ở đây đã lập đền thờ ông ở ngay làng gọi là Đền Đồng Xâm. Hàng năm lễ hội đền Đồng Xâm được tổ chức từ ngày 1 5/4 âm lịch với - nghi lễ rước, tế linh đình, các trị chơi dân gian được duy trì và mở rộng nên đã thu hút được nhiều du khách từ các tỉnh, thành về dự. Vào ngày hội các sản phẩm chạm bạc của làng được trưng bầy và bán hàng lưu niệm. nguồn Thaibinh.gov.vn

Làng Nguyễn là một tên gọi khác của xã Nguyên Xá huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. Nói tới Thái Bình là mọi người nghĩ ngay đến một món đặc sản đó là Bánh Cáy Làng Nguyễn. Cũng khơng biết nghề làm Bánh Cáy có từ bao giờ nhưng tương truyền ngày xửa ngày xưa (mình cũng không nhớ là vào đời vua nào nữa) hoàng tử con vua mắc bệnh biếng ăn, bao nhiêu là cao lương ngũ vị nhưng hoàng cũng chẳng chịu ăn và ngày một gầy đi. Hoàng thượng lo lắng đã ban chiếu trong cả nước mong tìm được một món ăn làm cho hồng tử thích nhất. Sau một thời gian chiếu ban, bao nhiêu là món ngon của lạ được dâng lên nhưng tất cả đều khơng được hồng tử để ý đến, tất cả triều đình đều lo cho sức khỏe của người. Một hơm, có một người ăn mặc rách rưới đến xin được yết kiến hồng thượng và nói rằng có thể làm một món mà sẽ làm cho hồng tử thích. Nhìn người đàn bà rách rưới, các quan ra mặt khinh bỉ nhưng nghe nói có thể làm được món mà hồng tử thích nên cũng để cho làm thử xem sao.Sau khi món ăn được dâng lên thì lạ thay hồng tử đã rất thích và ăn một cách ngon lành. Đức vua và bá quan văn võ đều lấy làm vui mừng, nhà vua quyết định ban thưởng cho người đàn bà đã làm ra thứ bánh đó. Nhưng khi nhà vua cho triệu tập thì người đó đã bỏ đi, nhà vua cho tìm tung tích nhưng chẳng được kết quả j chỉ biết rằng người đó làm nghề mị bán cáy. Để ghi nhớ công ơn của bà, nhà vua quyết định đặt tên cho món đó là món Bánh Cáy. Đó là sự tích mà mọi người được biết về món Bánh Cáy, chẳng biết thục hư ra sao nhưng Bánh Cáy ngày nay đã trở thành một đặc sản của Thái Bình và Làng Nguyễn đã trở thành cái nơi sản sinh ra món đặc sản đó.

</div>

×