Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

tiểu luận văn học phật giáo nguyên thủy cách hiểu thực hành pháp qua kinh ví dụ con rắn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.85 KB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

<b> HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI HUẾ</b>

THẠC SĨ KHOÁ II (2021 - 2023) ------

<b>TIỂU LUẬN</b>

<b>VĂN HỌC PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦYĐề Tài:</b>

<b>CÁCH HIỂU & THỰC HÀNH PHÁP QUA KINH VÍ DỤ CON RẮN</b>

<b>GV hướng dẫn: ĐĐ.TS. THÍCH THIỀN HẢIHọc viên thực hiện: Lê Kim Chi</b>

<b>Lớp: THẠC SĨ PHẬT HỌC KII, Nghành Văn Học</b>

<b>Thừa Thiên Huế, 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Lời cảm ơn

Để hoàn thành đề tài tiểu luận này, chúng con đã nhận rất nhiều công tâm hướngdẫn và giảng dạy của Đại đức TS. Thích Thiền Hải. Trong thời gian qua chúng conđược tiếp cận và được Thầy chia sẻ những hiểu biết cũng như những tâm đắc củaThầy đối với bộ môn Văn Học Phật Giáo Nguyên thủy. Chúng con vơ cùng cảmkích đến trí tuệ thâm nhập kinh tạng của Thầy. Thầy đã giúp chúng con nắm bắtđược cốt tủy của môn học bằng những kiến thức sâu rộng, bằng cảm thụ chân thật,bằng ngôn từ rõ ràng, chính xác và logic. Thầy cũng đã giới thiệu cho chúng connhững bản kinh cơ bản thuộc năm bộ Nikaya cùng những pháp hành căn bản.Những dẫn giải và vận dụng thực tiễn, Thầy đã giúp chúng con nắm vững bài vàlàm bài tương đối thuận tiện. Qua đây chúng con xin chân thành tri ân bằng tất cảtấm lịng kính q đến Thầy - Đại đức TS. Thích Thiền Hải cùng những lời chúctốt đẹp nhất.

Học viên Lê Kim Chi

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>A. Dẫn nhập:</b>

Kinh Ví dụ con rắn (Alagaddūpama Sutta)là một trong số 50 bài kinh đi sâuvào pháp hành căn bản gọi là Căn bản Ngũ thập kinh được HT. Thích Minh Châuviệt dịch. Và cũng là bài kinh số 22 của Trung bộ kinh.

Duyên khởi Đức Phật thuyết kinh này cho chúng đệ tử của mình được tóm tắtrằng:

Nhân lời dạy của Đức Phật rằng: “Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, nãonhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.”<small>1</small> Nhưng có một Tỳ kheo có tên làArittha thì cho rằng: “Khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngạipháp, thật sự khơng có chướng ngại gì, có thể hưởng thụ.” Một số đơng Tỳ kheonghe thế nên muốn Tỳ kheo Arittha chớ có nói như vậy, chớ xuyên tạc lời Thế Tôndạy và từ bỏ ác tà kiến ấy đi, nhưng Tỳ kheo Arittha vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứngđầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy. Những Tỳ kheo khác về bạch với Đức Phật.Lúc này Đức Phật cho gọi Tỳ kheo Arittha đến cật vấn, nạn vấn lý do, đi đến quởtrách. Nhân đây Đức Phật thuyết kinh Ví dụ con rắn cho chúng đệ tử của mình.

Sáu yếu tố làm nên sự thành tựu của bài kinh này là: Ngài A nan nghe được vàtrùng tuyên lại bằng: “Như vầy tôi nghe …”. là một xác quyết rằng, đây là bài kinhdo chính Đức Phật tuyên thuyết. Tại một thời Ngài ở thành Xá vệ, tại Cấp Cô độcviên Kỳ đà Lâm, hội chúng Tỳ kheo lúc bấy giờ đặt cả niềm tin sâu sắc vào lời đọctụng của Tôn giả A nan bằng cả chánh kiến, chánh tín.

Đức Phật dạy: “Có phải chăng, ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướngđạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại? Ta đã thuyết các dụcvui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết cácdục được ví như khúc xương... Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt... đượcví như bó đuốc cỏ khơ... được ví như hố than hừng... được ví như cơn mộng... đượcví như vật dụng cho mượn... được ví như trái cây... được ví như lị thịt... được vínhư gậy nhọn... Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, nãonhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.”

Vậy đối như các Phật tử, chúng ta nên hiểu dục như thế nào? và vì sao thọ dụclại vui ít, khổ nhiều, não nhiều và nguy hiểm càng nhiều hơn? Dục có thể tránhđược sao?

<small>1 HT. Thích Minh Châu, Trung Bộ Kinh – Tập 1, tr.247</small>

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Trước khi gia nhập vào tăng đồn, ơng làm nghề huấn luyện chim ưng. Lẽ dĩnhiên ông là người biết rất rõ về sự lợi hại của loài chim này. Chúng là một loàichim được dùng để săn mồi. Kỹ năng bay lượn và săn mồi chớp nhoáng của loàichim này đã khiến chúng trở thành một loài sát thủ trên khơng. Rắn là một trong sốcon mồi khối khẩu của lồi chim này. Nói đến kỹ năng bắt rắn với kỹ năng huấnluyện chim ưng chúng ta có ngay sự liên tưởng trong mối liên hệ kinh Ví dụ conrắn. Nếu sư tử là chúa sơn lâm, cá mập là sát thủ của biển khơi thì lồi chim ưngbiểu tượng của chúa tể bầu trời với sức mạnh của mình tương ưng với nọc độc củalồi rắn. Chỉ có sức mạnh của chim ưng mới khắc chế được nọc độc của lồi rắn.Nên hình ảnh bắt rắn được Đức Phật ví như người Tỳ kheo khắc chế được dục.

Tỳ kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến nhưsau: “Theo như ta hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp đượcThế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự khơng có chướng ngại gì.”

Thế Tơn đã quở trách Tỳ kheo Arittha rằng: “Này kẻ ngu si kia, không nhữngƠng xun tạc Ta, vì Ơng đã tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại Ông và tạo nênnhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâudài cho Ông.”

Dục ở đây được hiểu là ngũ dục, gồm: Tài danh sắc thực thùy. Nghĩa là conngười ta, ai cũng cần thọ dục, chính vì cần thọ dục nên dễ bị dục lơi kéo đến thamvà chìm đắm trong các dục: Tiền bạc, của cải, vật chất; danh thơm tiếng tốt, quyềncao chức trọng; sắc đẹp; ăn uống; ngủ nghỉ. Bản thân ngũ dục không chướng ngại,chướng ngại là do con người thọ dục quá độ. Thọ dục vừa đủ để cho một cơ thể tồntại, để cho tâm trí thanh tịnh, có lợi cho việc cầu pháp, tu pháp và hành pháp. Tránhxa hai thái độ cực đoan của thọ dục.

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>I.2. Ý nghĩa của 10 ảnh dụ của lời dạy</b>

“Có phải chăng, ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Vànhững ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại? Ta đã thuyết các dục vui ít, khổnhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục được vínhư khúc xương... Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt... được ví như bóđuốc cỏ khơ... được ví như hố than hừng... được ví như cơn mộng... được ví như vậtdụng cho mượn... được ví như trái cây... được ví như lị thịt... được ví như gậynhọn... Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, vàdo vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.”

Đức Phật đã dùng nhiều pháp môn thuyết về chướng đạo pháp, chướng đạopháp được hiểu khi thọ dụng các dục, là các ham muốn, là những dục lạc khi cáccăn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân mở ra thì các trần sắc, thanh, hương, vị, xúc lọt vàolàm nhiễu loạn và thất lạc thiện căn, sa vào nẻo ác. Loại ngũ dục cám dỗ con ngườiđó là tài, sắc, danh, thực, thùy. Năm loại dục này được Đức Phật ví như khúcxương, ví như miếng thịt, ví như bó đuốc cỏ khơ, ví như hố than hừng, ví như cơnmộng, ví như vật dụng cho mượn, ví như trái cây, ví như lị thịt, ví như gậy nhọn, vínhư đầu rắn.

Dục như khúc xương khơng cịn thịt, người thọ dụng dục vọng thì giống nhưcon chó đói, cố tìm kiếm chút thịt từ khúc xương, nhưng càng tìm kiếm, thì càngkhơng thể thỏa mãn cái đói với khúc xương. Mà ngược lại, càng gặm xương càngđói xương, càng mong đợi miếng thịt cịn sót lại từ khúc xương, càng cố mà gặm,thậm chí con chó bị chảy máu ở miệng, liếm ln máu từ miệng mình mà cứ lầmtưởng máu từ khúc xương và cứ thế mà gặm cho đến khi suy kiệt.

Dục như miếng thịt được một con diều hâu cắp lấy và bay lên hư không.Những con diều hâu khác liền vây lấy nó và tấn cơng bằng mỏ nhọn và vuốt sắc,mãi đến khi nó nhả miếng thịt ra. Hễ con nào bng bỏ miếng thịt thì được bình anvà con nào cắp lấy miếng thịt thì bị các con diều hâu khác vây xé.<small>2</small>

Dục như bó đuốc cỏ khơ, người thọ dục giống như người cầm bó đuốc cỏ khơđi ngược gió, càng đi nhanh, bó đuốc càng cháy rực, nếu như khơng mau chóng vứtbỏ bó lửa đó thì tất sẽ bị lửa từ bó đuốc liếm cháy tay, cháy cả thân mình và nguyhiểm đến tính mạng.

Dục như hố than hừng, người thọ dụng dục giống người bị bệnh cùi thân thểlở loét hơ mình trên hố than hừng cháy, ban đầu người bệnh cảm thấy rất dễ chịu,

<small>2Kinh Tiểu bộ, tập 6, Chuyện tiền thân Đức Phật, Chuyện thử thách giới đức, số 330.</small>

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đả ngứa và thỏa thích, nhưng về sau thì vết thương bị đỏ tấy do bỏng, rồi càng đaunhức hơn, càng lở loét và khó có thể lành được.

Dục như cơn mộng, người thọ dụng dục như một người chìm sâu trong giấcmộng dài, họ thấy nhà cửa lâu đài và mọi lạc thú đoanh vây và an vui hưởng thụtạm thời trong cảnh ấy. Đột nhiên khi tỉnh mộng, người ấy sẽ bị cảm giác bànghoàng, luyến tiếc, khổ đau cũng đoanh vây như vậy. Cuộc đời cũng như giấc mộngdài và việc nếm trải dục cũng chỉ như một giấc mơ đi qua.

Dục như vật dụng cho mượn, người thọ dụng dục như người sở hữu tài sảnđược người khác cho mượn, nhưng lịng lại ln phơi phới hân hoan. Đến lúc bị địilại tài sản thì người ấy lại khổ đau như chính mình bị mất tài sản vậy.

Dục như trái cây, người thọ dụng dục như người thèm khát quả ngọt, cố leo,cố hái, cố nhặt. Leo, hái, nhặt không được, họ đốn cây để thỏa cái thích của mìnhmà đâu biết rằng hành động của mình khơng những làm tổn hại đến cây mà còn tổnhại đến bản thân và nhiều người khác.

Dục như lò thịt, người thọ dụng dục như con vật ni đưọc đưa đến gần lị mổ.Nơi đó nó được thưởng một bữa ăn no nê trước khi kết liễu cuộc đời làm động vậtcủa mình. Chúng đâu có biết mình sắp chết và biến thành thức ăn cho con người.Cũng vậy, con người có thể quên đi tất cả khi chỉ nhận được một chút gì gọi làngon của cuộc đời, như sắc đẹp, như danh vọng, tiền của, lời tiếng khen nịnh,miếng ăn ngon, giấc ngủ chây lười. Một ngày hưởng thọ dục như vậy là một ngàymình tự bước dần đến lị mổ, dần đến nơi kết liễu cuộc đời lúc nào mình cũngkhơng hề hay biết. Sống theo dục một ngày đồng nghĩa chúng ta chết một chút. Vuiít, khổ nhiều, não nhiều, và sự nguy hiểm càng nhiều hơn.

Dục như gậy nhọn, người thọ dụng dục như người cầm cây gậy có đầu nhọnđể chống đi đường, nhưng nếu bất cẩn thì chính gậy nhọn đó sẽ đâm vào chân củachính người cầm gậy.

Dục như đầu rắn, người thọ dụng dục như người trúng nọc độc từ đầu rắn,mặc dù đầu rắn đã bị đứt rời khỏi thân nhưng nọc rắn lại chạy đi khắp cơ thể.

Đây là mười hình ảnh Đức Phật ví đối với người thọ dục, sống động, cụ thể vàthiết thực trong cái nhìn về sự vui ít, khổ nhiều, não nhiều và nguy hiểm ngày càngnhiều hơn. Thế Tôn dạy: “Những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại?” nhưmột lời cảnh báo, chúng ta chỉ cần tin và thực hiện. Ngài không hề phủ nhận thọdục của người thế gian, bởi đó là nhu cầu để tồn tại sự sống của con người. Nhưngkhi thọ dục chúng ta cần phải biết, vui rất ít mà khổ thì nhiều, não nhiều, do vậynguy hiểm càng nhiều hơn.

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>II. Người Phật tử nên học pháp như thế nào</b>

Do con người cần phải sống và cần phải thọ dụng các dục để duy trì sự sống.Nhưng cách thọ dục và chừng mực thọ dục tùy thuộc vào mục đích thọ dục. Trongmột phạm vi nào đó được gọi là đủ cũng đều tùy thuộc vào nhận thức của người thọdụng. Phạm vi đó có thể chia cho hai hạng người, hoặc xuất gia hoặc tại gia. Phạmvi đó cũng có thể hiểu theo hai loại, hoặc thiện dục hoặc tà dục.

Từ loài người cho đến chư Thiên đều từ thọ dục mà có nghiệp tái sanh. Thọdục đối với người có đức tin nơi Tam bảo, có chánh kiến về nghiệp, lắng nghechánh pháp từ thiện tri thức, thọ trì giới cấm, được gọi là thiện dục. Dục trong hànhthiện, ham thích hành trì tụng kinh niệm Phật, tham thiền nhập định và hoằngdương chánh pháp … đều thuộc thiện dục, vui nhiều, khổ ít, não càng ít và nguyhiểm càng ít hơn.

Trong kinh Di Giáo, đức Phật dạy rằng: “Tỳ kheo các ơng! Đã có thể an trụtrong giới rồi, phải kiềm chế ngũ căn, chẳng để bng lung theo ngũ dục. Thí nhưngười chăn trâu, cầm roi nhìn nó, chẳng cho chúng vào lúa mạ của người khác.Nếu thả lỏng ngũ căn, chẳng những chạy theo ngũ dục không bờ mé, không thểkiềm chế được, mà còn gây hại rất nặng, cũng như ngựa chứng, chẳng dùng dâycương chế ngự thì chính nó sẽ đưa người ta vào hầm hố.”

Ở bài kinh Ví dụ con rắn việc Đức Phật dạy đối với hàng Tỳ Kheo nghĩa làchư vị xuất gia, thọ trì giới cấm, ngõ hầu hồn thiện bổn nguyện “trú pháp vươnggia, trì như lai tạng”. Còn đối như Phật tử tại gia thì thọ trì các dục đồng với thọ trìcấm giới. Giới có khinh có trọng, thì dục cũng có trọng có khinh. Kiềm chế ngũcăn, khơng để bng lung theo ngũ dục khi xây dựng được ý nghĩ tiết dục và tritúc.

Nhắc lại lời Thế Tôn quở trách Tỳ kheo Arittha: “Này kẻ ngu si kia, khơngnhững Ơng xun tạc Ta, vì Ơng đã tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại Ông vàtạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đaukhổ lâu dài cho Ông.” Lời quở trách của đức Thế Tơn cũng chính là một sự hệ lụykhi nắm giữ sai pháp. Tuy Đức Phật vốn từ bi nhưng không thể không mở lời quởtrách, bởi đó là sai phạm gây tổn đức, đưa dến bất hạnh và khổ đau lâu dài chochính Tỳ kheo Arittha. Ngược lại, cẩn trọng lắng nghe, cẩn trọng tư duy, cẩn trọnghành xử thì nghiệp ác khơng tự đến. Thọ dụng dục theo quan điểm của Đức Phật,cần phải đặt ra cho mình một mục đích hợp lý, hướng thượng để tránh đi sự trỗidậy của lòng tham, lòng si ở trong mỗi chính mình.

Khi được chư vị Tỳ kheo có mặt nhắc nhở: “Bạch Thế Tơn, Tỳ kheo Arittha,xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do,thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy.” thì

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Tỳ kheo Arittha vẫn khăng khăng: “Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, pháp Thế Tônthuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp,thật sự không có chướng ngại gì.” Và họ khơng thể làm gì hơn nên: “Bạch ThếTơn, vì chúng con khơng thể làm cho Tỳ kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyệnchim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tơn ý nghĩa này.”

Ngồi việc hiểu pháp sai lạc, Tỳ kheo Arittha còn chấp chặt pháp sai lạc đó,cho rằng dục khơng phải là pháp chướng ngại và có thể hưởng thụ. Sự chấp chặtmà có sai lạc, đã sai lạc cộng thêm chấp chặt, ngay tại đây đã bị tổn đức, đưa đếnbất hạnh và khổ đau cho bản thân. Trong kinh Kim Cang để phá kiến chấp chặt,Đức Phật đã dạy: “Thượng pháp ưng xả, hà huống phi pháp”, để khi pháp cần phảixả, là phải xả ngay. Bằng tinh thần ứng dụng pháp như thế mới có lối đi lên đếnthượng pháp.

<b>II.1. Học pháp cần khéo thọ trì</b>

Pháp cần bàng bạc ở đây là những lời dạy của đức Thế Tôn dưới dạng Kinh vàLuật. Trong kinh Ví dụ con rắn, bằng hình ảnh bắt rắn, Đức Phật phân ra hai hạngngười học pháp:

Hạng người học pháp sai mục đích: Đối với 12 phần giáo, sau khi học xong,họ không tư duy nghĩa lý và thực hành các pháp ấy. Các pháp ấy khơng được trí tuệqn sát, nên khơng trở nên rõ ràng, như thật. Hạng người học pháp này chỉ vì mụcđích chỉ trích người khác, chỉ vì khối khẩu hý luận, biện luận nên họ không đạtđến được mục đích mà sự học pháp đưa đến, mà ngược lại, họ bị đưa đến bất hạnhvà khổ đau lâu dài. Ví như một người bắt rắn ở lưng hay ở đuôi, thời liền bị con rắnấy quay đầu mà cắn ở tay, cánh tay hay ở cơ thể. Người ấy do nhân duyên này màđau khổ và bất hạnh lâu dài.

Hạng người học pháp với mục đích chân chánh: Đối với 12 phần giáo, sau khihọc xong, họ tư duy nghĩa lý và thực hành các pháp ấy. Các pháp ấy được trí tuệquán sát, nên trở nên rõ ràng, như thật. Hạng người học pháp này khơng vì mục

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

đích chỉ trích người khác, khơng vì khoái khẩu hý luận, biện luận nên họ đạt đếnđược mục đích mà sự học pháp đưa đến. Những pháp ấy được khéo nắm giữ nênđưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Ví như một người bắt rắn, khéo nắm giữ cổrắn, thì dầu cho con rắn có uốn thân xung quanh tay, cánh tay hay ở cơ thể, thờiliền bị con rắn ấy quay đầu mà cắn ở tay hay ở cơ thể. Người ấy do nhân duyên nàymà không phải đau khổ và bất hạnh lâu dài.

Vậy như chúng ta học pháp cần phải khéo học, khéo nắm bắt nghĩa lý, khéo tưduy và khéo tu tập thì an lạc và hạnh phúc sẽ theo sau. Khéo ở đây, là khéo của mộtngười học pháp và hành pháp chứ không phải khéo léo khôn ngoan và toan tínhthiệt hơn.

<b> II.2. Học pháp như một phương tiện</b>

Trong kinh này, Đức Phật đưa ra một hình ảnh chiếc bè làm ví dụ với nộidung: “Này các Tỳ kheo, ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến mộtvùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và khơngkinh hãi, nhưng khơng có thuyền để vượt qua hay khơng có cầu bắc qua từ bờ nàyđến bờ kia. Người đó tự suy nghĩ: ‘Đây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểmvà hãi hùng, bờ bên kia an ổn và khơng kinh hãi, nhưng khơng có thuyền để vượtqua hay khơng có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây,nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân,có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn’. Chư Tỳ kheo, rồi người đó thâu gópcỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng taychân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, người đó suynghĩ: ‘Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng taychân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trênđầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn’. Chư Tỳ kheo, các ông nghĩthế nào? Chư Tỳ kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng với sở dụng củachiếc bè chăng?”

Chiếc bè, khó khăn lắm mới có được. Từ ý tưởng vượt qua con nước rộng,hình ảnh chiếc bè được khởi lên, được hình thành và được dùng để qua con nướcrộng. Chiếc bè trong lúc này là cần thiết bởi người đi đường cần thiết phải vượt connước rộng. Khơng có chiếc bè có thể khơng thể đi tiếp con đường cịn lại. Lúc nàychiếc bè lợi ích rất nhiều, quý rất nhiều và cũng có thể người đi đường biết ơn rấtnhiều đối với chiếc bè. Cũng vậy, Pháp mà chúng ta đang học và đang thực hànhđều là những lời dạy từ kim khẩu của một bậc Chánh giác đã trải qua bao nhiêungày đêm nghiên tầm. Người thừa tự Pháp cần thấu rõ ý nghĩa của Pháp, biết dùngPháp, biết trân trọng Pháp ngõ hầu cởi bỏ những trói buộc, trừ bỏ mọi phiền não, đểsống an nhiên tự tại. Đích cuối cùng là tự giải thốt mình ra khỏi những vướng bận,những ràng buộc, những hệ lụy chứ đâu phải lấy Pháp để tự trói buộc mình. Hình

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

ảnh “Khi qua bờ bên kia rồi, người đó suy nghĩ: ‘Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta,nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách antoàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nàota muốn” phần nào giúp cho mình nghĩ lại chiếc bè mình đã mang vác bấy lâu nay.

Đức Phật dạy: “Chư Tỳ kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụngcủa chiếc bè? Ở đây, chư Tỳ kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thểsuy nghĩ: ‘Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng taychân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lêntrên bờ đất khơ, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn’. Chư Tỳ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỳ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. ChưTỳ-kheo, các ơng cần hiểu ví dụ cái bè Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là... phi pháp”.

Hiểu đúng sở dụng và dùng đúng sở dụng khơng chỉ để nói sng, mà để thựchành. Nếu khơng hạ thủ cơng phu tu tập, khơng có trí tuệ trong sáng, việc hiểuđúng sở dụng là rất khó có thể! Chứ nói gì đến dùng đúng sở dụng. Ví như vị lươngy cho thuốc đúng bệnh nhưng người bệnh khơng chịu uống thì bệnh đâu dễ lànhđược.

Tập khí chấp trước nơi thân làm người là lầm chấp cơ bản, dựa vào đó chấpthọ, chấp tưởng, chấp hành, chấp thức lớn dần lên và nở to ra. Vì chấp nên mới chothân, thọ, tưởng, hành, thức là thật thân, thật thọ, thật tưởng, thật hành và thật thứccủa ta nên nắm ta cứ việc nắm và giữ. Bao nhiêu phiền lao nhiệt não từ đó đoanhvây. Ngược lại, khơng nắm giữ Pháp và chấp thủ ngũ uẩn thì thân tâm thoát ly khỏinhững lo âu và phiền não khơng thể có mặt. Đức Phật dạy khơng thể xem ngũ uẩnlà: “Là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi”. Cần phải quán sát tất cả sắc pháp, thọ,tưởng, hành, thức là “Không phải của tôi, không phải là tôi, không phải tự ngã củatôi”. Làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè, cũng như sở dụng của giáo phápmà đức Thế Tôn đã dạy, chúng ta cần trước hết là tránh xa ngũ dục, ly dục và ly tấtcả các bất thiện pháp. Trưởng dưỡng trí tuệ bằng cách quán bất tịnh ở thân, quánkhổ vì thọ, qn vơ thường của tâm, và qn vơ ngã của pháp. Nương nơi giới cấmđã thọ để sống trong chánh niệm, phòng hộ ngũ căn để sống tỉnh giác, lâu dần giácngộ giải thốt sẽ thường hằng có mặt, an lạc hạnh phúc chân thật ở trong tầm tay.

<b>C. Kết luận:</b>

Cuộc sống của mỗi chúng ta vốn dĩ luôn hướng về cái chân, thiện, mỹ. Hạnhphúc của mỗi chúng ta khi nhận chân được giá trị của chân lý mà trong đó chúng tađang sống. Những lời dạy của đức Thế Tơn là chân lý, nó ln có mặt giữa cuộcđời này, chỉ bởi chúng ta không phát hiện ra nó. Đức Phật khác với chúng ta là đã

8

</div>

×