Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Bài Tập Nhóm Dân Sự 1 1 - Cuối Tháng 3, Đầu Tháng 4_1975, Ta Đã Hội Tụ Đầy Đủ Các Yếu Tố Về Ý Chí Quyết.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.95 KB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC </b>

<small>MỞ ĐẦU...2</small>

NỘI<small> DUNG...3</small>

<small>1. Tóm tăt nội dung vụ việc...3</small>

<small>2. Những điểm chưa phù hợp trong bản án và giải thích...6</small>

<small>3. Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật...8</small>

<small>4. Những kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành qua việc phân tích vụ án...9</small>

<small>KẾT LUẬN...14</small>

<small>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong đời sống kinh tếxã hội cũng như trong pháp luật dân sự. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có tồnquyền định đoạt số phận thực tế hay số phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên,trong một số trường hợp, nhằm bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu vàlợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền địnhđoạt có thể bị hạn chế theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Cụ thể,trên thực tế, do vị trí tự nhiên hoặc do sự phân chia bất động sản trong quá trìnhchuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng có rất nhiều trường hợp bất động sảnbị vây bọc bởi các bất động sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chủ sở hữu bấtđộng sản, người có quyền sử dụng sẽ rất khó khăn trong việc khai thác, sử dụngbất động sản, thậm chí, khơng thể sử dụng các bất động sản bị vây bọc đó, nếukhơng có sự can thiệp của pháp luật. Trong các quyền đối với bất động sản liềnkề, quyền về lối đi qua là một quyền đặc biệt quan trọng. Mặc dù Bộ luật Dân sựnăm 2015 đã có quy định về quyền này của người sử dụng đất nhưng trên thực tếvẫn còn một số điểm quy định chưa rõ nên vấn đề tranh chấp lối đi chung giữacác chủ sở hữu bất động sản liền kề vẫn xảy ra rất phổ biến. Nhận thấy được vấn

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

đề trên, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề số 14: “ Hãy sưu tầm một bản ánsơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về lối đi qua bấtđộng sản liền kề mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quyđịnh của pháp luật, và giải quyết yêu cầu” để làm chủ đề bài tập nhóm, trả lờicâu hỏi cũng như thể hiện quan điểm của bản thân.

<b>NỘI DUNG</b>

<b>1. Tóm tăt nội dung vụ việc </b>

- <b>Nguyên đơn</b>: Cụ Nguyễn Thị T1 (Chết).

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn cụ Nguyễn ThịThơi:

1. Ơng Nguyễn Văn H1.2. Bà Nguyễn Thị C1.3. Bà Trần Thị L.4. Ông Trần Văn H2.

Người đại diện hợp pháp của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụngcủa nguyên đơn ông Nguyễn Văn H1, bà Trần Thị L, ông Trần Văn H2: BàNguyễn Thị C (Cùng cư trú tại: Ấp T, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.)Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị C1: ÔngPhan Hồng V và ông Bùi Ngọc H2 – Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn LVTthuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

- <b>Bị đơn</b>:1. Bà Thái Thị C2.2. Anh Lâm Vĩnh T2.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn Lâm Vĩnh T2: Bà Thái Thị C2 (Cùng cư trútại: Ấp T, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

1. Ông Nguyễn Văn H1.2. Bà Nguyễn Thị C1.3. Bà Trần Thị L.4. Ơng Trần Văn H2.5. Anh Nguyễn Hồng T3.6. Chị Nguyễn Thị Hồng D.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ơngNguyễn Văn H1, bà Trần Thị L, ông Trần Văn H2, anh Nguyễn Hoàng T3, chịNguyễn Thị Hồng D: Bà Nguyễn Thị C1 (Văn bản ủy quyền ngày 03/8/2018).Cùng cư trú tại: Ấp T, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

7. Anh Nguyễn Phước T4.8. Chị Nguyễn Thị Mỹ H3.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anhNguyễn Phước T4: Chị Nguyễn Thị Mỹ (Cùng cư trú tại: Ấp T, xã H, huyệnV, tỉnh Vĩnh Long.)

- Người kháng cáo: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyênđơn cụ Nguyễn Thị T1 là bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Thị L, ông Nguyễn VănH1, ông Trần Văn H2; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh NguyễnHoàng T3, chị Nguyễn Thị Hồng D.

Cụ T1(bên nguyên đơn) có phần đất thuộc thửa 94, tờ bản đồ số 24 tọa lạc ấp T,xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long do cụ T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sửdụng đất. Phần đất này phải đi qua phần đất thửa 278, diện tích 100m2 do ơngLâm Vĩnh T2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mới ra được đườngcơng cộng. Hiện nay phía bà C2 (bên bị đơn) không cho cụ T1 (bên nguyênđơn) sử dụng lối đi này nữa.Nay cụ T1 yêu cầu bà Thái Thị C2 và anh Lâm VĩnhT2 mở lối đi chiều ngang là 2m, chiều dài một bên là 14,48m, một bên là

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

14,27m, diện tích là 28,7m, loại đất ONT do ông Lâm Vĩnh T5 đứng tên giấychứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 01/3/2017 cụ T1 chết, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng củacụ T1 gồm ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Thị L và ông TrầnVăn H2 giữ nguyên yêu cầu của cụ T1 và đồng ý trả giá trị đất cho bà C2, anhT2 theo quy định của Nhà nước.

Chồng bà Thái Thị C2 là ông Lâm Vĩnh T5 (chết năm 2013) có phần đất thửa278, giáp thửa 277, diện tích 59m2 do ơng Nguyễn Văn H1 đứng tên giấy chứngnhận quyền sử dụng đất. Khoảng cách giữa thửa 277 và thửa 278 là con hẻmcông cộng nhưng ông Nguyễn Văn H1 là con ruột của cụ T1 đã cất nhà trên phầnđất này. Ngày 25/3/2004, bà có mở lối đi chiều ngang 2m, chiều dài 15m làmđường cơng cộng và hiện nay chỉ có 3 hộ đang sử dụng là T4, H1,T1.Sau đó, bàC2 muốn cho th lối đi thì ơng H1 (H1 là người có quyền và nghĩa vụ liênquan) ngăn cản và yêu cầu mở rộng thành 3m mới đồng ý thuê nên bà C2 khôngcho sử dụng lối đi này nữa vì cịn lối đi khác là lối thốt hiểm của chợ xã H( tuynhiên, lối thoát hiểm ra phố chợ xã H là phần đất cơng cộng, lối thốt hiểm từthửa 94 của cụ T1 đến đường nhựa khu phố chợ (đoạn gần nhất), dài khoảng40m, rộng 2m (mặt cắt nhỏ nhất) hiện tại dưới phần lối thốt hiểm có hệ thốngcống thoát nước thải, đồng thời một số hộ dân có nhà ở tạm sử dụng làm sân ximăng có mái che. Do cơng năng của lối thốt hiểm dùng để sử dụng sự cố chokhu nhà ở phía trước, phía sau, cơ sở hạ tầng là hệ thống thốt nước phía dưới,hiện trạng các hộ dân sử dụng các công năng như để mái che, vật dụng, nếu tậndụng lối thốt hiểm phía sau nhà cụ T1 làm lối đi ra đường công cộng và đượcđầu tư hạ tầng đầy đủ thì chỉ có thể khai thác làm lối đi ra đường phố chợ bằngphương tiện cơ giới. Phần đất cơng cộng làm lối đi trước đây thì ông H1 con cụT1(bên nguyên đơn) được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất thửa 277, diện tích59m2 nhưng thực tế ơng H1 đang sử dụng 79,6m2 là cịn dư 20,6m2 nên nếu gia

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đình cụ T1(bên ngun đơn) khơng sử dụng lối đi thốt hiểm thì u cầu ơng H1trả lại lối đi cơng cộng.

Ơng Nguyễn Văn H1, ông Trần Văn H2, bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Thị L trìnhbày: Thống nhất ý kiến và u cầu của cụ T1 (bên ngun đơn), khơng có ý kiếngì thêm.

Chị Nguyễn Thị Mỹ H3, anh Nguyễn Phước T4 trình bày: Thống nhất ý kiến vàyêu cầu của cụ T1và đồng ý trả lại giá trị đất cho bà C2, anh T2.

Chị Nguyễn Thị Hồng D, anh Nguyễn Hồng T3 (là người sử dụng căn nhà ơngH) trình bày: Thống nhất ý kiến và yêu cầu của cụ T1, khơng có u cầu hay ýkiến gì khác.

<b>2. Những điểm chưa phù hợp trong bản án và giải thích</b>

Theo bản án dân sự sơ thẩm số 31/2018/DSST ngày 15 tháng 10 năm2018 củaTòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, tịa sơ thẩm đã quyết địnhbác tồn bộ yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị T1 (chết), người kế thừa quyềnvà nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn cụ Nguyễn Thị T1 là bà Nguyễn Thị C1, bàTrần Thị L, ông Nguyễn Văn H1, ông Trần Văn H2 yêu cầu bà Thái Thị C2 vàanh Lâm Vĩnh T2 phải mở lối đi có chiều ngang 2m, chiều dài một bên là14,48m, một bên là 14,27m, diện tích là 28,7m2 thuộc thửa 278, diện tích100m2, loại đất ONT tọa lạc ấp T, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long do ông LâmVĩnh T5 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bản án sơ thẩm đã căn cứvào Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 155, Điều157, Điều 158 của Bộ luật tố tụng dân sự để đưa ra quyết định mà chưa căn cứvào những quy định của Luật Đất đai 2013. Việc đưa ra quyết định của ở bản ánsơ thẩm thiếu đi tính thực tế, chưa có sự phân tích thấu đáo và chưa áp dụng hếtcác quy định pháp luật về những vấn đề liên quan. Cụ thể:

Trên thực tế đối với thửa đất 94 của cụ T1 thì để ra đường cơng cộng theo lối đido phía nguyên đơn yêu cầu đi qua thửa 278 do ông Lâm Vĩnh T5 đứng tên giấy

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

chứng nhận quyền sử dụng đất hiện do bà Thái Thị C2 và anh Lâm Vĩnh T2 quảnlý sử dụng có chiều ngang 2 m, chiều dài 12,02m, diện tích là 24m2. Cịn lối đitheo án sơ thẩm nhận định và theo chỉ định của bà C2 là bằng lối thoát hiểm raphố chợ xã H là phần đất cơng cộng, lối thốt hiểm từ thửa 94 của cụ T1 đếnđường nhựa khu phố chợ (đoạn gần nhất), dài khoảng 40m, rộng 2m (mặt cắtnhỏ nhất) hiện tại dưới phần lối thốt hiểm có hệ thống cống thốt nước thải,đồng thời một số hộ dân có nhà ở tạm sử dụng làm sân xi măng có mái che. Docơng năng của lối thốt hiểm dùng để sử dụng sự cố cho khu nhà ở phía trước,phía sau, cơ sở hạ tầng là hệ thống thoát nước phía dưới, hiện trạng các hộ dânsử dụng các cơng năng như để mái che, vật dụng, nếu tận dụng lối thốt hiểmphía sau nhà cụ T1 làm lối đi ra đường công cộng và được đầu tư hạ tầng đầy đủthì chỉ có thể khai thác làm lối đi ra đường phố chợ bằng phương tiện cơ giới.Căn cứ Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định lối đi được mở trên bấtđộng sản nào được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thểcủa địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra ít nhất chobất động sản mở lối đi thì việc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụngcủa cụ T1 yêu cầu dành lối đi qua thửa đất 278 của bà C2 và anh T2 là thuận tiệnvà hợp lý nhất. Xét trên thửa đất 278 mà phía nguyên đơn yêu cầu mở lối đi thìhiện nay bà C2 và anh T2 sử dụng một phần để cho 3 hộ ông H1, bà C1, chị H3làm lối đi ra đường công cộng, một phần bà C2 làm lối đi vào nhà của bà C2 vàphần còn lại là đất trống. Tại phiên tòa, chị H3, bà C1 và bà C2 đều thừa nhận lốiđi qua thửa 278 do ông T5 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử đất được hìnhthành từ trước năm 1990 đến nay. Nên việc mở lối đi trên phần đất này theo yêucầu của nguyên đơn ít gây thiệt hại cho bất động sản có mở lối đi. Cịn lối đi theobà C2 chỉ định qua thửa đất 277 của ơng H1 thì hiện trạng là nhà tường kiên cốdo ông H1 xây dựng nên không thể sử dụng làm lối đi ra đường công cộng. Mặtkhác, theo bản án sơ thẩm và tại phiên tòa bà C2 cũng thừa nhận phần đất chiết

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thửa 278-1 trên bà C2 đồng ý mở lối đi cho hộ anh Nguyễn Phước T4 và chịNguyễn Thị Mỹ H3 sử dụng lối đi để đi ra đường công cộng và lối đi này bà chocác hộ dân đi từ mấy chục năm nay. Vì vậy, những người kế thừa quyền và nghĩavụ tố tụng của nguyên đơn cụ Nguyễn Thị T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụliên quan anh Nguyễn Hoàng T3, chị Nguyễn Thị Hồng D kháng cáo yêu cầu bàC2, anh T2 mở lối đi chiều ngang 2 m, chiều dài ra đến đường cơng cộng là cócăn cứ nên được chấp nhận. Theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày04/4/2019 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long xác định lối đi từthửa 94 ra đường cơng cộng có chiều ngang 2m, chiều dài 12,02m, diện tích24m2.

<b>3. Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật.</b>

Áp dụng điểm l khoản 4 Điều 95, khoản 1 Điều 166, Điều 171 và khoản 1 Điều203 của Luật đất đai năm 2013; Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015:

<small>-Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyểnnhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;</small>

<small>-Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền vớiđất.</small>

<small>-1. Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối đi; cấp, thoát nước;tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; đường dây tải điện, thông tin liên lạc và cácnhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý trên thửa đất liền kề.</small>

<small>--2. Việc xác lập quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề thực hiện theo quy định củapháp luật dân sự và phải thực hiện đăng ký theo quy định tại Điều 95 của Luật này.-. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy</small>

<small>định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tịa án nhân dângiải quyết;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ Nguyễn Thị T1 có những ngườikế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Thị L, ôngNguyễn Văn H1, ông Trần Văn H2; 1. Buộc bà Thái Thị C2 và anh Lâm Vĩnh T2dành cho người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn cụ NguyễnThị T1 là bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Thị L, ông Nguyễn Văn H1, ông Trần VănH2 một lối đi trên phần đất thuộc tách thửa 278, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp T,xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long do ông Lâm Vĩnh T5 đứng tên trong giấy chứngnhận quyền sử dụng đất. Lối đi có chiều ngang 2m, chiều dài 12,02m, diện tích24m2, chu vi lối đi gồm các mốc giới: 1, 2,3,4 5, 6, 1 theo Trích đo bản đồ địachính khu đất ngày 04/4/2019 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.

<b>4. Những kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành qua việc phân tích vụ án</b>

Qua vụ việc trên cho thấy có những vụ tranh chấp về quyền đối với BĐS liền kềphát sinh bản chất không phải là các tranh chấp liên quan đến tài sản mà liênquan tới quan hệ hàng xóm láng giềng giữa các bên. Do phát sinh mâu thuẫntrong quan hệ láng giềng nên các bên khó có thể đồng thuận trong việc đưa ramột phương án giải quyết thỏa đáng.

Về vụ việc trên, cùng nội dung vụ việc nhưng hai cấp Tòa án có hai kết quả khácnhau.

Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về quyền đối với bấtđộng sản liền kề đồng thời từ thực tiễn giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của ngườidân về việc thực hiện quyền này, và cụ thể là thông qua vụ việc mà nhóm em đãphân tích ở trên, thì chúng em nhận thấy, mặc dù BLDS năm 2015 đã xây dựngchế định quyền đối với bất động sản liền kề theo nguyên tắc vật quyền rõ ràng,đã khắc phục những hạn chế của BLDS năm 2005 trong việc thực hiện quy định

<b>này. Tuy nhiên BLDS năm 2015 vẫn còn một số bất cập cụ thể và chúng em</b>,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật hiện hành về vấn đề nàynhư sau:</b>

<b>Thứ nhất, cần quy định rõ thế nào là “lối đi thuận tiện, hợp lý” và “lối đikhông đủ”.</b>

<b>Về lối đi thuận tiện, hợp lý, pháp luật hiện hành chỉ quy định: Tại khoản 1 Điều</b>

254 BLDS 2015 quy định việc mở lối đi sao cho thuận tiện và hợp lý nhất nhưnglại khơng có quy định hướng dẫn cụ thể lối đi như thế nào thì được coi là thuậntiện và hợp lý? Vị trí, giới hạn, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏathuận bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên. Tuynhiên, chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền và chủ sở hữu bất động sản chịuhưởng quyền suy cho cùng là hai chủ thể khác nhau nên ý chí cũng khác nhau,có thể bên thứ nhất cho rằng giới hạn này là hợp lý nhưng bên thứ hai lại chorằng không hợp lý nên khó đạt được sự thỏa thuận, dẫn đến tranh chấp phát sinh,bởi vì luật khơng quy định tiêu chuẩn cụ thể về mức tối thiểu và mức tối đa củadiện tích lối đi sao cho đảm bảo nhu cầu sử dụng của bên có bất động sản hưởngquyền và khơng gây phiền hà, bất lợi cho bên có bất động sản chịu hưởng quyền.Vậy pháp luật chưa quy định rõ lối đi thuận tiện, hợp lý chỉ là lối đi lại thôngthường phục vụ cho sinh hoạt cá nhân hay lối đi dành cho mục đích kinh doanhthương mại? BLDS năm 2015 chưa quy định rõ về vấn đề này nên lối đi thuậntiện, hợp lý chỉ được hiểu là lối đi sử dụng cho việc đi lại, sinh hoạt hàng ngày.

<b>Thêm nữa, pháp luật cần quy định rõ thế nào là lối đi không đủ (trong</b>

trường hợp đã có lối đi nhưng lối đi này nhỏ khơng đủ cho việc khai thác sửdụng BĐS bị vây bọc). Về lối đi không đủ, pháp luật hiện hành cần phải quyđịnh rõ lối đi không đủ đối với khu vực thành thị và lối đi không đủ đối với khuvực nơng thơn, trên cơ sở đó xác định lối đi thế nào là khơng đủ và có các căn cứthống nhất để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về đất đai. Cũng tại Khoản 1Điều 254 BLDS 2015 quy định trong trường hợp chủ sở hữu bất động sản bị vây

</div>

×