Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn: KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN BẮC MÊ TỈNH HÀ GIANG doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.89 KB, 91 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






HOÀNG THỊ HỒNG NGÂN





KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN BẮC MÊ
TỈNH HÀ GIANG





LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ










Thái Nguyên – 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







HOÀNG THỊ HỒNG NGÂN







KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI MÔNG Ở HUYỆN BẮC MÊ

TỈNH HÀ GIANG



Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số : 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: TS. Hà Thị Thu Thủy






Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên








Lêi cam ®oan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực chưa công bố trong các công trình nghiên cứu nào
khác.





























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên









Lêi c¶m ¬n


Tôi xin bày tổ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Hà Thị Thu Thuỷ đã tận
tình hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm - Đại
học Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa lịch sử và các thầy cô giáo, cán bộ
khoa lịch sử đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin cảm ơn UBND huyện Bắc Mê, Phòng Văn hoá thông tin
huyện, UBND các xã (Yên Cường, Thượng Tân, Minh Sơn…), các già làng,
trưởng bản đã giúp đỡ tôi trong quá trình đi thực tế ở địa phương.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ động viên của bạn bè đồng
nghiệp trong suốt quá trình làm luận văn.






Tác giả luận văn



Hoàng Thị Hồng Ngân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bắc Mê là một huyện miền núi nghèo thuộc tỉnh Hà Giang có đông dân
tộc Mông. Đây là một tộc ngƣời có nền văn hoá phong phú, đa dạng và đặc
sắc bởi kho tàng tri thức dân gian. Trong đó có hệ thống tri thức về sản xuất
nông nghiệp. Hệ thống kiến thức này đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi thế hệ
ngƣời Mông, giúp họ chống đỡ sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng núi cao để
tồn tại và trở thành dân tộc có số dân đông nhất ở Hà Giang nói chung và ở Bắc
Mê nói riêng.
Sinh sống chủ yếu trên vùng núi đá, cả cuộc đời đƣợc núi đá bao bọc,“sống
trên đá, chết nằm trong đá”, nên ngƣời Mông Bắc Mê có những hiểu biết sâu
sắc về tự nhiên. Trong sản xuất nông nghiệp, từ cách chọn đất canh tác, giống
cây trồng, vật nuôi đến chăm sóc, thu hoạch đều phù hợp với điều kiện tự nhiên
nơi đây. Sự tồn tại của họ cùng với những ruộng lúa nƣơng ngô trên đỉnh núi đã
ghi nhận những nỗ lực và những sáng tạo to lớn của cả cộng đồng trong việc hòa
nhập với thiên nhiên.
Trải qua quá trình lao động sản xuất lâu dài, ngƣời Mông Bắc Mê đã tích
lũy đƣợc những kinh nghiệm dân gian quý báu. Vì vậy, việc nghiên cứu và

bảo tồn nó rất cần thiết và hữu ích cho các nhà khoa học trong việc nhận thức
đúng đắn hơn về những nguyên tắc, thói quen trong sản xuất để kết hợp với
kiến thức khoa học một cách có hiệu quả.
Từ những nhận thức trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài ''Kiến thức bản địa
trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang"
với mong muốn tìm hiểu về văn hóa Mông ở quê hƣơng mình và bƣớc đầu tìm
ra những ƣu điểm cũng nhƣ hạn chế trong sản xuất nông nghiệp để giúp ngƣời
Mông nơi đây vƣơn lên xóa đói giảm nghèo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về ngƣời Mông cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu, trong quá trình làm luận văn tác giả đã tiếp cận các công trình sau:
Công trình Lịch sử người Mèo do F.Savina viết năm 1924 (Trƣơng Thị
Thọ và Đỗ Trọng Quang dịch), đã cho thấy những nét cơ bản về đời sống
kinh tế, văn hóa của ngƣời Mông trong quá trình sinh sống và chống lại các
thế lực bành trƣớng Trung Hoa trong lịch sử.
Công trình ''Các dân tộc ít người ở Việt Nam", xuất bản năm 1978, của
Viện Dân tộc học đã trình bày khái quát về văn hóa các dân tộc ít ngƣời trong
đó dân tộc Mông ở Hà Giang đƣợc đề cập tới nhƣ một điển hình cho dân tộc
Mông nói chung trên cả nƣớc .
Công trình ''Dân tộc Mông ở Việt Nam" của tác giả Cƣ Hoa Vần - Hoàng
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 1994, đã cho thấy một cách tổng thể về dân
tộc Mông ở Việt Nam từ nguồn gốc lịch sử cho tới tên gọi, đời sống kinh tế, vật
chất, sinh hoạt tinh thần, quan hệ xã hội.
Văn hóa ngƣời Mông ở địa bàn tác giả nghiên cứu đã đƣợc đề cập khá đầy
đủ chi tiết trong các công trình ''Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang",
Hùng Đình Quý, Nxb Sở văn hóa - Thông tin Hà Giang, năm 1994; ''Văn hóa

dân tộc Mông Hà Giang" của tác giả Trƣờng Lƣu và Hùng Đình, Sở văn hóa -
Thông tin - Thể thao Hà Giang xuất bản năm 1996. Hai công trình này đã
trình bày khá rõ nét đời sống văn hóa của ngƣời Mông trên địa bàn Hà Giang.
Khóa luận tốt nghiệp: ''Công cụ lao động truyền thống trong tập quán
canh tác của người Mông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang'' của Trần Thạch
Hằng - sinh viên khoa lịch sử trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên, năm
(2005) đã cung cấp những tƣ liệu thực tế về tập quán canh tác cũng nhƣ việc
sử dụng công cụ nói riêng của ngƣời Mông ở huyện Mèo Vạc. Mặc dù công
trình trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu loại hình công cụ đối với việc hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3
thành tập quán canh tác, nhƣng luận văn giúp cho tác giả trong việc tìm thấy
những nét tƣơng đồng trong tập quán canh tác của đồng bào Mông ở huyện
Bắc Mê nói riêng và ở Hà Giang nói chung.
Công trình “Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền
thống và hiện tại” (2005) do Vƣơng Duy Quang viết đƣợc Nxb Văn hoá
Thông tin và Viện Văn hoá xuất bản đã giới thiệu khái quát lịch sử di cƣ, địa
vực cƣ trú và tộc danh của ngƣời Mông ở Việt Nam. Tác giả cuốn sách cũng
đã đề cập những nét chung về đời sống kinh tế và đời sống xã hội của ngƣời
Mông nói chung.
Công trình “Miêu tộc giản chí hợp biên”(quyển thượng)(2007), Trần
Hữu Tiệp dịch, đã cung cấp cho tác giả nhƣng cứ liệu quan trọng về nguồn
gốc lịch sử, địa bàn cƣ trú, đời sống kinh tế, văn hoá chính trị của ngƣời
Mông trong lịch sử trƣớc khi di cƣ vào Việt Nam.
Công trình ''Các dân tộc ở Hà Giang'' do Ủy ban nhân dân tỉnh Hà
Giang xuất bản tại Nxb Thế giới, năm 2008, đã phác thảo những nét khái
quát về đời sống vật chất, nhƣ tinh thần của ngƣời Mông ở địa phƣơng Hà
Gianng trong tính đa dạng của nhiều dân tộc khác.

Công trình“Một số tài liệu sưu tầm về người HMông ở Việt Nam” do
Phạm Quang Linh, Hoàng Phƣơng Mai thực hiện đƣợc Viện Dân tộc học xuất
bản năm 2008, đã cơ bản giới thiệu những kinh nghiệm sử dụng đất nông
nghiệp của ngƣời Hmông và hiện trạng sử dụng đất nƣơng rẫy của nhóm
Hmông trắng ở làng Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn
La. Là nguồn tƣ liệu quý giá giúp tác giả có cái nhìn tƣơng quan so sánh với
những kiến thức bản địa của ngƣời Mông ở Bắc Mê.
Các công trình trên đây đã cung cấp cho tác giả những hiếu biết cơ bản
về ngƣời Mông và nền văn hóa của họ. Đồng thời gợi mở cho tác giả việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4
nghiên cứu về những kiến thức bản địa của ngƣời Mông ở một địa phƣơng cụ
thể là huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang.
3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Đối tƣợng
Sống trên vùng núi cao, cƣ trú và canh tác chủ yếu trên núi đá, đòi hỏi
ngƣời Mông phải có một hệ thống kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp.
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống này trong sản xuất nông nghiệp của
ngƣời Mông ở Bắc Mê.
3.2 Mục đích
Bắc Mê là một huyện miền núi nghèo, có nhiều dân tộc anh em sinh sống.
Trong đó ngƣời Mông chiếm một thành phần đông đảo trong tổng số dân cƣ ở
đây. Việc nghiên cứu những kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp không
những bảo tồn nền văn hóa đặc sắc của đồng bào Mông mà còn giúp cho nhà
khoa học hợp tác với đồng bào ở đây trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, vƣơn lên xóa đói giảm nghèo.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và về ngƣời Mông ở Bắc Mê

- Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm về kiến thức bản địa và vai trò của
kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp, đề tài làm rõ hệ thống kiến thức
bản địa về cách chọn đất trồng, giống cây, vật nuôi, lịch nông vụ, cách lựa
chọn công cụ thích hợp, thu hoạch, bảo quản và sản xuất hàng hóa của ngƣời
Mông ở Bắc Mê.
- Tìm hiểu những yếu tố nội sinh và ngoại sinh làm biến đổi kiến thức
bản địa và đánh giá tính tích cực của những kinh nghiệm dân gian trong sản
xuất của ngƣời Mông ở Hà Giang. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo
tồn và phát huy tính tích cực của kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp
của ngƣời Mông ở Bắc Mê.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Ở huyện Bắc Mê ngƣời Mông chủ yếu cƣ trú tại các xã
Phiêng Luông,Thƣợng Tân, Minh Sơn, Yên Cƣờng. Đề tài tập trung nghiên
cứu ở địa bàn các xã này, đặc biệt chú ý tới các thôn bản có tỷ lệ ngƣời Mông
lớn hơn so với các dân tộc khác ở địa bàn.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu tính bản địa trong sản xuất nông nghiệp
của ngƣời Mông ở huyện Bắc Mê trong truyền thống và hiện tại.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Tài liệu thành văn: Các công trình nghiên cứu về lịch sử, lịch sử Đảng
bộ, văn hóa tộc ngƣời của tỉnh Hà Giang nói chung và Bắc Mê nói riêng.
- Tài liệu điền dã dân tộc học: Thông qua việc đi vào điều tra xã hội học,
quan sát, phỏng vấn đồng bào ngƣời Mông sinh sống nhƣ ở các thôn bản
thuộc các xã Yên Cƣờng, Thƣợng Tân, Minh Sơn, Phiêng Luông để thu thập
các tài liệu chân thực giúp ích cho quá trình hoàn thành luận văn.
Dựa vào nguồn tài liệu trên tác giả sử dụng phƣơng pháp:
- Phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic nhằm tìm hiểu hoàn cảnh

nảy sinh kinh nghiệm, những diễn biến và phát triển kinh nghiệm trong sản
xuất trên cơ sở đó loại trừ những kinh nghiệm mang tính chất gia đình để tìm
ra những kinh nghiệm chung trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Mông
sinh sống trong địa bàn huyện Bắc Mê.
- Phƣơng pháp điền dã dân tộc học: Phƣơng pháp này thực hiện các công
việc nhƣ quan sát, phỏng vấn, ghi chép, chụp ảnh, khai thác các nguồn tƣ liệu
thống kê lập phiếu điều tra giúp cho tác giả có số liệu chân thực nhất phục
vụ cho đề tài.
Ngoài các phƣơng pháp trên tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp nhƣ phân
tích, so sánh, tổng hợp.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6
5. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu về kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp
từ trong truyền thống và hiện tại, đề tài tìm hiểu những nét đặc trƣng trong
sản xuất nông nghiệp của ngƣời Mông ở Bắc Mê.
Đề tài thực hiện thành công có thể giúp ích cho việc cộng tác giữa các
cán bộ khuyến nông và các nhà khoa học trong việc ứng dụng công nghệ mới
vào sản xuất nông nghiệp của ngƣời Mông ở huyện Bắc Mê.
6. Cấu trúc của đề tài
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận đƣợc xây dựng thành 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Khái quát về huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang
Chƣơng 2: Kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời
Mông ở huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang trong truyền thống
Chƣơng 3: Những biến đổi của kiến thức bản địa trong sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Mông ở Bắc Mê tỉnh Hà Giang hiện nay


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BẮC MÊ TỈNH HÀ GIANG
1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Năm 1891, tỉnh Hà Giang đƣợc thành lập, huyện Bắc Mê ngày nay là
vùng đất thuộc 2 trong số 5 tổng của Châu Vị Xuyên với tên gọi là Tổng Yên
Phú và Tổng Yên Định. Trƣớc năm 1945, Tổng Yên Phú có các xã Yên Phú,
Phú Nam, Lạc Nông, Đƣờng Âm, Thanh Lƣơng, Tổng Yên Định có các xã
Yên Định, Tùng Bá, Minh Tân, Thuận Hòa.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tiểu khu Bắc Mê đƣợc thành
lập thuộc huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang. Năm 1984, huyện Bắc Mê (thuộc tỉnh
Hà Tuyên) đƣợc thành lập bao gồm 13 xã: Yên Phú,Yên Cƣờng,Yên Định, Yên
Phong, Đƣờng Âm, Đƣờng Hồng, Phú Nam, Minh Ngọc, Minh Sơn, Giáp
Trung, Lạc Nông,Thƣợng Tân, Phiêng Luông.
Là huyện vùng sâu thuộc phía đông tỉnh Hà Giang, nằm trên toạ độ địa lý
20
0
3

4
’’
– 22
0
5

5
’’
độ vĩ Bắc, 105

0
0

0
’’
– 105
0
3

0
’’
độ kinh đông độ cao trung
bình so với mặt biển là 1400m, huyện Bắc Mê có giới hạn địa lý là phía Bắc
giáp với huyện Yên Minh, phía Đông giáp với huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao
Bằng), phía Tây giáp huyện Vị Xuyên, phía Nam giáp huyện Na Hang (Tỉnh
Tuyên Quang) [19].
Diện tích tự nhiên của huyện là 844,3 km
2
, chiếm 10,57 % diện tích toàn
tỉnh, Bắc Mê là một trong những huyện miền núi vùng sâu vùng xa của tỉnh
Hà Giang có địa hình rất phức tạp, hiểm yếu; nhiều núi cao vực sâu, rừng già,
những dải đồi nối tiếp nhau, xen kẽ những cánh đồng lúa nƣớc, soi, bãi hẹp
chạy dọc hai bờ sông suối. Đặc biệt phía Nam của huyện có nhiều núi cao từ
1400 đến 1600 mét, có đỉnh cao tới 1.775 mét. Về cấu tạo địa chất có thể chia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8
thành hai dạng địa hình: vùng núi đất và vùng núi đá. Vùng núi cao gồm các
xã Minh Sơn, Giáp Trung, Yên Phong, Yên Phú, Yên Cƣờng, Phiêng Luông,

Phú Nam, Đƣờng Âm, Đƣờng Hồng. Phần lớn diện tích đất ở địa hình này
đều có độ dốc trên 25
0
, đá mẹ lộ thiên tạo thành cụm và chủ yếu là đá Granít.
Vùng núi thấp gồm các xã Yên Định, Minh Ngọc, Lạc Nông, các đá mẹ mẫu
chất ở địa hình này có đá biến chất, đá vôi, đá cát.
Thời tiết trong năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, mùa mƣa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa mƣa thời
tiết nóng ẩm, lƣợng mƣa lớn, chiếm 80% lƣợng mƣa cả năm, trong đó lƣợng
mƣa lớn nhất ở các tháng 6,7,8 (bình quân trên 300mm/s), lƣợng mƣa trung
bình 1616mm. Mùa khô: lƣợng mƣa ít thƣờng dƣớ i 50mm/tháng, lƣợng bốc
hơi lớn nên thƣờng gây khô hạn, thiếu nƣớc cho sản xuất và sinh hoạt. Nhiệt
độ trung bình hàng năm là 22,3
0
, nhiệt độ trung bình hàng tháng cao nhất là
32,4
0
, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 12,6
0
C, sự chênh lệch nhiệt độ
giữa tháng cao nhất và thấp nhất là 19,8
0
C
Huyện Bắc Mê có nguồn tài nguyên đất khá phong phú và đa dạng về
nhóm, các loại đất phân bố trên nhiều loại địa hình khác nhau tạo ra những
tiểu vùng sinh thái nông lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc
biệt là cây trồng lâu năm với vùng đồi núi. Nhóm đất phù sa phân bố chủ yếu
ở ven vùng sông Gâm và ven sông suối, nên chất lƣọng phù sa tốt, giàu chất
dinh dƣỡng. Thành phần cơ giới tƣơng đối mịn, tỉ lệ sét (Clay), limom (Silt)
cao (riêng đất phù sa đƣợc bồi bồi và đất phù sa không bồi thành phần cơ giới

nhẹ hơn, thƣờng cát pha, thịt nhẹ). Phản ứng đất ít chua; Hàm lƣợng cation
kiềm đạt mức trung bình, độ no Bazơ nhỏ hơn 50%; Chất hữu cơ và đạm khá;
Lân ở mức trung bình và nghèo; Kaki tổng số khá, song Kali trao đổi thấp.
Nhìn chung đất thích hợp với sinh trƣởng và phát triển của cây lúa cao và ổn
định. Với nhóm đất này ta có thể tận dụng hết diện tích đất bằng cách tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
trung đầu thâm canh trên đất phù sa, kết hợp với các biện pháp thuỷ lợi, phân
bón chế độ mùa vụ, giống cây trồng để đạt hiệu quả cao. Tăng cƣờng bón lân
trên các đất phù sa glây, phù sa có tầng loang lổ kết hợp với bón vôi để cải tạo
độ chua của đất. Các vùng đất phù sa ven sông cần đƣợc đƣa vào sử dụng
trồng hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Đối với đất phù sa ngòi suối có
địa hình khá bằng, khai thác nguồn nƣớc suối sẵn có để trồng các cây lƣơng
thực ngắn ngày nhƣ lúa, ngô và các loại đậu, đỗ.
Nhóm đất xám có diện tích 73.277,0 ha, chiếm 86,73% tổng diện tích tự
nhiên, với loại đất chính trên đá Ganite. Phân bố ở các xã trong huyện, tầng
đất thƣờng mỏng, nhiều đá lẫn, kết vón; phản ứng đất chua; nghèo chất hữu
cơ, đạm và các chất dinh dƣỡng khác. Trong loại đất này, diện tích đất có độ
dốc dƣới 5
0
, có khả năng phát triển nông nghiệp và cây công nghiệp chiếm
khoảng 26% nên cần khai thác đa vào sản xuất nông nghiệp.
Nhóm đất vàng có diện tích 486 ha, chiếm 0,55% diện tích tự nhiên, gồm
các loại: đất có màu vàng chủ đạo, tầng dày thay đổi theo mức độ địa hình,
chủ yếu là đất có tầng dày, độ dốc lớn, địa hình đồi núi cao, chia cắt mạnh.
Phân bố chủ yếu ở các xã Phiêng Luông, Yên Phong và Yên Phú, đất có
thành phần cơ giới nặng, phản ứng của đất ít chua hoặc chua, hàm lƣợng mùn
và đạm tổng hợp từ khá đến giàu, lân tổng số giàu, lân dễ tiêu thấp.

Nhóm đất tầng dày có diện tích 237 ha chiếm 0,28 % tổng diện tích tự
nhiên, phân bố ở hai xã Đƣờng Âm và Yên Phong, nhóm đất này là sản phẩm
của sói mòn đất, tầng đất mỏng dƣới 30cm; thành phần cơ giới của đất biến
động từ nhẹ đến trung bình, đất có phản ứng chua, hàm lƣợng mùn và đạm
tổng số từ nghèo đến trung bình, lân nghèo, Kali nghèo, đây là nhóm đất xấu
cần đƣợc phục hồi bằng cách trồng rừng và tạo thảm thực vật che phủ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10
Nguồn tài nguyên nƣớc ở Bắc Mê bao gồm sông Gâm chảy từ Cao Bằng
đổ về Na Hang (Tuyên Quang). Đoạn chảy qua Bắc Mê dài 45km, có nhiều
thác ghềnh, nƣớ c chảy xiết, tầu thuyền không thể đi laị đƣợc. Hệ thống các
con suối lớn, nhỏ đều phân bổ trên địa bàn huyện, trong đó có các con suối
lớn nhƣ suối Minh Ngọc (suối Bản Chì), suối Ngòi Ma từ Tùng Bá đổ dồn về
sông Gâm, tạo nên nguồn nƣớc tƣớ i tiêu dồi dào cho sản xuất nông nghiệp và
thuỷ điện nhỏ. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, các huyện vùng núi cao
mực nƣớc ngầm rất sâu, trữ lƣợng thấp, khó khăn cho việc khai thác và đƣa
nguồn nƣớc này vào sinh hoạt và sản xuất. Mặc dầu không phải là một hụyện
có thế mạnh về nguồn nƣớc mặt nhƣng lại có nhiều loại thuỷ sản có giá trị.
Trên lƣu vực sông Gâm, có cá Dầm Xanh, Anh Vũ loại cá chỉ có ở lƣu vực
sông có nhiều ghềnh đá. Trong lịch sử loại cá này đã từng là đặc sản cúng tiến
cung đình.
Huyện Bắc Mê là một trong những huyện có nhiều tiềm năng lớn về đất
rừng. Số liệu thống kê của huyện cho biết tổng diện tích đất rừng là 46.300,33
ha, chiếm 55,24 % so với diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích rừng trồng
sản xuất là 224,06 ha, chiếm 0,48% diện tích đất rừng. Diện tích đất rừng phân
bố không đều rừng tập trung còn lại ở các xã vùng cao nhƣ xã Thƣợng Tân,
Phiêng Luông, Minh Sơn, Yên Cƣờng, Minh Ngọc. Do điều kiện khí hậu và

thổ nhƣỡng, rừng Bắc Mê có nhiều loại gỗ quý nhƣ Đinh, Trò, Nghiến, Lát
hoa, Pơmu, Trai Lý
1.2 Nguồn gốc ngƣờ i Mông ở Bắc Mê
1.2.1 Tên gọi tộc ngƣi
Nguồn gốc lịch sử và tên gọi tộc ngƣời Mông cho tới nay vẫn tồn tại
nhiều ý kiến khác nhau. Ngƣời Trung Quốc gọi ngƣời Mông là Miêu Tử hay
Miêu Dân. Tìm hiểu về nguồn gốc tên gọi, nhiều học giả suy đoán rằng đây là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
tên do ngƣời Hán đặt. Bởi vì xét chữ Miêu Trung Quốc ngƣời ta thấy trên là
bộ thảo dƣới là chữ điền, có nghĩa là mầm mạ tốt. Từ đó các nhà nghiên cứu
cho rằng Miêu chắc chắn là một dân tộc biết làm ruộng từ rất sớm và sau này
Miêu đã trở thành tên gọi của tộc ngƣời đó. Miêu là dân tộc thích sống tự do,
đoàn kết và có tinh thần dũng cảm, luôn chống lại các chính sách bành trƣớng
thu phục của các tộc ngƣời lớn hơn vì vậy, trong sử sách Trung Quốc, Miêu
đƣợc nhiều lần nhắc tới nhƣ một dân tộc man di, mọi rợ đầy khinh miệt.Trong
truyền thuyết dân tộc Hán có nhắc đến ngƣời Miêu từ thời Hoàng Đế (thiên
niên kỉ thứ ba trƣớc công nguyên) và nói đến cuộc chiến tranh giữa hoàng đế
và Suy Vƣu (Theo các học giả Savina, Ngô Trạch Lâm, Trần Quốc Quân,
Lâm Tâm thì Suy Vƣu là ngƣời Mông), sang thời Nghiêu (-2357 - 2258),
Thuấn (- 2255 - 2208), thƣ tịch cổ nhiều lần nhắc đến ngƣời Miêu và những
cuộc xung đột giữa Hoa tộc và Miêu tộc.
Trong Kinh thi của Khổng Tử cũng chép đến Tam Miêu và giải thích
rằng do ngƣời ta căn cứ vào màu sắc quần áo mà gọi gồm Hồng Miêu, Thanh
Miêu, Bạch Miêu tức là Miêu Hồng, Miêu Xanh và Miêu Trắng.
Mạc Tử có ghi lại, trong cuộc chiến tranh giữa Hạ Vũ và Tam Miêu (Hạ -
2205 – 1766), tƣớng Miêu bị trúng tên, quân Miêu tan chạy, Tam Miêu suy
vong. Trải qua các triều đại Thƣơng, Ân, Chu, Tần, Hán, Tam Quốc … thƣ tịch

bẵng đi không ghi chép về Tam Miêu nữa. Theo sự suy đoán của nhiều học giả
thì thời gian này thế lực của nhà Hán mạnh nên ngƣời Mông bị đẩy về phƣơng
Nam cƣ trú ở núi Nam Lĩnh. Ở đây ngƣời Mông cũng nhƣ nhiều dân tộc khác
bị nhà Hán gọi là “Nam Man tử” nghĩa là ngƣời man rợ ở phƣơng Nam.
Đến thời Đƣờng, danh từ “Miêu tộc” lại xuất hiện trong sử sách. Trong
cuốn “Man thƣ” của Phàn Xƣớc có nói đến Miêu dân ở bốn ấp: Kiềm, Kinh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12
Ba, Hạ, thuộc miền Hồ Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên (tƣơng tự địa bàn ngƣời
Mông ngày nay ở Trung Quốc).
Từ những nguồn thƣ tịch nói trên, nhiều ngƣời cho rằng Miêu tử tồn tại
trong thời kì Hoàng Đế (giữa thiên niên kỉ thứ II TCN) là tổ tiên của ngƣời
Mông hiện nay sống ở Trung Quốc và Việt Nam. Trong cuốn “Lịch sử ngƣời
Mèo”, qua việc nghiên cứu truyền thuyết và tín ngƣỡng của họ tác giả Savina
đã cố gắng chứng minh ngƣời Mông có nguồn gốc ở phƣơng Tây. Trong thời
kì ngôn ngữ lẫn lộn sau sự kiện tháp Babel, ngƣời Mông tiến lên cƣ trú ở một
quả đồi cao, trọc, phủ đầy băng tuyết, ở đây ngày và đêm kéo dài với ngày và
đêm đằng đẵng. Truyền thuyết về vũ trụ của ngƣời Mông giống hệt thuyết
của ngƣời chaldee. Tác giả cho rằng chỉ có ngƣời Chaldee, ngời Ácmêni,
ngƣời Mông còn nhớ truyền thuyết tháp Babel. Từ truyền thuyết trên Savina
đã chứng minh rằng: ngƣời Mông thời nguyên thuỷ đã sinh sống ở vùng
Lƣỡng Hà, rồi đi về phía Bắc hoặc qua miền Capca hoặc Turkestan vào thời
kì không xác định, rồi do biến động khí hậu họ tìm đến vùng có khí hậu ôn
hoà hơn, có thể đó là lí do đã đƣa họ đến vùng Đông Á. Ngƣời Mông đã sinh
sống ở sông Hoàng Hà hơn 25 thế kỉ TCN. Tuy vậy, do gặp khó khăn trong
việc tìm ra dấu vết di chuyển, tác giả Savina đƣa ra giả thuyết là họ đã vƣợt
qua Tây Tạng [33].
Những giả thuyết này gợi mở cho các nhà khoa học tiến hành những

cuộc điều tra về mặt nhân chủng học. Theo các nhà Nhân chủng học, thì việc
hình thành nhân chủng gắn liền với môi trƣờng địa lí tự nhiên xung quanh.
Trong một cuộc điều tra nghiên cứu về nhân chủng học trong những năm
1934 – 1938 do giáo sƣ N.R. Morơde tổ chức ở hai tỉnh Tứ Xuyên và Quý
Châu thuộc miền Tây Trung Quốc, các nhà khoa đã tìm ra bằng chứng khẳng
định nguồn gốc Mônggôlốit của ngƣời Mông. Tiếp đó, các nhà khảo cổ học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13
đã nghiên cứu bộ hiện vật Nam Kinh - Động Đình đã đi đến kết luận là các bộ
lạc Mông xuất hiện ở đây vào thiên niên kỉ thứ III TCN.
Đây là những chứng cứ khoa học để khẳng định nguồn gốc phƣơng Đông
ngƣời Mông. Ở Việt Nam, mặc dầu chƣa có tài liệu nhân chủng nào nghiên
cứu về ngƣời Mông, nhƣng qua các tài liệu lịch sử chúng ta biết ngƣời Mông
ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Do đó ngƣời Mông ở Việt Nam
cũng thuộc loại hình nhân chủng Mônggôlốit.
Từ khi di cƣ đến Việt Nam ngƣời Mông đã trở thành một thành phần trong
54 dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc Mông có một truyền thống văn hoá độc đáo, có
bề dày lịch sử hàng nghìn năm trƣớc đây và trên 300 năm sau khi từ Trung Quốc
sang định cƣ ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Về tên gọi tộc
ngƣời thì có nhiều cách gọi khác nhau, ngƣời Kinh ở miền Bắc gọi ngƣời Mông
là Mèo, lý giải điều này xuất phát từ ngƣời Hán gọi ngƣời Mông là Miêu phát
âm gần nhƣ là Mèo. Do vậy, trong thời gian dài trƣớc đây các sách báo phổ biến
dùng danh từ Mèo nhƣ một tộc danh chính thức. Ở miền Trung phát âm theo
tiếng địa phƣơng còn gọi là Mẹo.
Danh từ này ngẫu nhiên trùng với tên con Mèo của ngƣời Việt… Vì vậy
phần lớn ngƣời Mông không thích nên đề nghị Chính phủ cho đƣợc gọi theo
cách bà con tự gọi mình là ngƣời Mông (Hmôngz). Từ Mông phát âm theo
đúng tiếng Mông là một từ âm mũi (Hmôngz). Trong khi đó, hệ thống âm phụ

tiếng Việt không có chữ nào ghi âm chính xác đƣợc tiếng âm mũi nói trên.
Các nhà nghiên cứu đã mƣợn phụ âm (Hm) để ghi âm tiếng Mông. Do đó khi
Nhà nƣớc chính thức ban hành Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam
ngƣời ta lại đọc theo kiểu phiên âm nên từ Hmông thành từ Hơmông
(H

mông). Cách gọi này khiến nhiều ngƣời Mông ghét bỏ không kém ngƣời
Mèo trƣớc đây. Cho đến nay, tên gọi tộc ngƣời vẫn không làm nhiều ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14
Mông thoả mãn vì vậy trƣớc khi tìm đƣợc một tên gọi thích hợp cho tộc
ngƣời mình thì ngƣời Mông tạm chấp nhận nhận cách gọi ngày nay là Mông
[3].
Theo tên tự gọi, ngƣời Mông có những nhóm chính sau đây:
Mông đấu – Mông trắng
Mông lềnh (Mông si) – Mông hoa (Mông đỏ)
Mông đú – Mông đen
Mông súa – Mông Hán
Các tên tự gọi này, cách phân biệt chủ yếu dựa vào sự khác nhau về y
phục và tiếng nói để phân biệt. Mông đấu sống tập trung ở huyện Đồng Văn,
Mèo Vạc, Quản Bạ (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng). Ngoài ra, họ sống rải
rác trong các huyện Sông Mã, Yên Châu (Sơn La), Phong Thổ, Tủa Chùa (Lai
Châu), Mù Căng Chải, Trạm Tấu (Yên Bái). Ngƣời phụ nữ Mông đấu mặc
váy trắng bằng vải lanh do họ tự sản xuất.
Mông lềnh sống tập trung ở huyện Tủa Chùa, Điện Biên, Tuần Giáo (Lai
Châu), Trạm Tấu, Mù Căng Chải (Yên Bái), Thuận Châu, Mộc Châu (Sơn
La), Sa Pa, Bắc Hà. Mƣờng Khƣơng (Lào Cai), Hoàng Su Phì, Sín Mần (Hà
Giang). Đặc điểm của nhóm Mông này là phụ nữ mặc váy hoa phổ biến là hoa

văn đƣợc thêu bằng chỉ đỏ ở nửa dƣới của váy.
Mông đú cƣ trú ở các huyện Trạm Tấu (Yên Bái), Phong Thổ, Tủa Chùa
(Lai Châu) và một số sống rải rác ở Lào Cai, Hoà Bình, Sơn La. Phụ nữ nhóm
này mặc váy màu đen.
Mông súa cƣ trú tập trung ở các xã Sính Phình (huyện Tủa Chùa, tỉnh Lai
Châu), một số nhỏ ở xã Lùng Phình (huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai). Nhóm này
phụ nữ chủ yếu mặc váy và áo chủ yếu bằng vải bông, kiểu váy hơi khác so

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15
với các nhóm Mông khác. Họ là những ngƣời thiên di vào nƣớc ta muộn hơn
so với các nhóm Mông khác [42].
Về mặt ngôn ngữ, giữa các nhóm Mông có sự khác nhau đôi chút. Sự
khác nhau giữa tiếng nói của Mông trắng, Mông hoa và Mông đen chủ yếu là
âm thanh nặng nhẹ. Do vậy, trên thực tế các nhóm Mông vẫn dùng ngôn ngữ
của mình làm phƣơng tiện giao tiếp bình thƣờng.
1.2.2 Địa bàn cƣ trú
Ngƣời Mông khác với nhiều dân tộc khác thƣờng sống ở trên núi cao, địa
thế hiểm trở, giao thông khó khăn. Lý giải về điều này truyền thuyết “Chử
Lầu” của dân tộc Mông có ghi lại câu truyện nhƣ sau: Trong thời kì trời đất
còn hỗn mang mờ mịt, Chử Lầu đã sai ông Chày, bà Chày làm ra bầu trời,
mặt đất. Tạo ra loài ngƣời và vạn vật, loài ngƣời sinh sôi, rồi trải qua nạn lụt
lớn, chỉ còn hai anh em ruột, họ phải lấy nhau rồi sinh ra con đàn cháu đống.
Nhƣng loài ngƣời thƣờng gây chuyện đánh nhau để tranh giành đất tốt hay
xấu. Chử Lầu đã nghĩ cách chia đất cho họ. Ông đã mở ra cuộc thi, ngƣời ở
các nơi tập trung hết vào một chỗ. Đúng đêm khuya Chử Lầu cho đánh một
hồi trống. Ngƣời nghe tiếng trống chạy, chạy cho đến lúc mặt trời lên thì dừng
lại. Ai đến đâu thì là chỗ tụ cƣ của giống mình đến đó. Hồi trống vừa dứt thì
ông tổ của ngƣời Mông đã băng qua đƣợc mấy trái núi. Đúng lúc mặt trời loé

sáng thì ông dừng lại ở trái núi cao, không kịp chạy xuống thung lũng. Thế là
từ đó ngƣời Mông sống trên núi cao.
Gạt bỏ đi yếu tố thần thoại và qua những cứ liệu lịch sử chúng ta có thể
thấy rằng đây là một tập quán, một thói quen của một dân tộc đƣợc hình thành
do những yếu tố lịch sử. Họ là một dân tộc yêu tự do, khát vọng công bằng
và hoà bình. Do những cuộc xung đột tộc ngƣời mà ngƣời Mông luôn “ẩn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16
mình” trên núi cao tránh những đè nén, áp bức, bất công còn sót lại cho tới
ngày hôm nay.
Nhiều sử sách đã chứng minh rằng, từ lâu ngƣời Mông đã xuất phát từ
Trung Quốc mở đầu cuộc thiên di tới những vùng đất mới với tƣ cách là
những ngƣời chống áp bức đi tìm tự do. Có lẽ tập quán du canh du cƣ dài
dằng dặc của ngƣời Mông cũng là dấu vết lịch sử ghi lại quá trình gian khổ đi
tìm tự do. Họ thiên di xuống phƣơng Nam vào Việt Nam và các nuớc vùng
Đông Nam Á. Đến Việt Nam, là đến với miền đất hứa, nơi mà họ đã lƣu
truyền câu truyện: “… nơi có quả bí to nhƣ vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ
chui vào đó vừa làm ổ, vừa làm thức ăn cho lợn con; nơi trồng cây, gốc có củ,
thân có bắp, ngọn trổ lúa…”. Nguời Mông di cƣ vào Việt Nam với 3 thời kì
thống nhất.
Thời kì sớm nhất bắt đầu cách đây khoảng 350 năm (14 đời ngƣời). Đó
là nhóm Hmông đầu tiên từ Quý Châu xuống Vân Nam (Trung Quốc) rồi vào
vùng đất Mèo Vạc, Đồng Văn của tỉnh Hà Giang (Việt Nam). Những ngƣời
già Hmông còn nhớ rằng, sau khi rời Quý Châu, tổ tiên của họ từng sinh sống
rất lâu ở một địa danh đƣợ c ngƣời Hmông gọi là Pàu Tàu Làng, đó chính là phủ
Khai Hoa, một vùng đất của Châu Vân Sơn thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc
ngày nay).
Giai đoạn thứ hai cách đây trên 200 năm (khoảng 10 đời ngƣời), đây là giai

đoạn ngƣời Hmông di cƣ đông nhất. Họ vào theo hai hƣớng chính. Một hƣớng
tiếp tục tràn vào cao nguyên Đồng Văn rồi di cƣ sang Bảo Lạc (Cao Bằng), Bắc
Mê, Xín Mần, Hoàng Su Phì (Hà Giang)… Một hƣớng vào Xi Ma Cai và
Mƣờng Khƣơng rồi xuống Văn Bàn (Lào Cai), Mù Căng Chải, Trạm Tấu (Yên
Bái), sang Sa Pa (Lào Cai), Phong Thổ, Sìn Hồ, Điện Biên (Lai Châu).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17
Giai đoạn thứ ba cách đây chừng 150 năm (khoảng 6 – 7 đời ngƣời),
ngƣời Hmông tiếp tục vào Việt Nam theo các đƣờng Phong Thổ (Lai Châu),
Xi Ma Cai và Mƣờng Khƣơng (Lào Cai). Từ đây họ đi sâu vào vùng Tây Bắc,
đến Tủa Chùa, Tuần Giáo (Lai Châu), Thuận Châu, Sông Mã (Sơn La). Một
bộ phận từ Mù Cang Chải sang Bắc Yên, Phù Yên rồi xuống vùng núi Mộc
Châu (Sơn La) và điểm dừng cuối cùng là vùng núi Tây Thanh Hoá. Cũng
trong thời gian này, một nhóm Hmông ở Xiêng Khoảng (Lào) đã tràn vào
vùng núi Thanh Hoá - Nghệ An và cƣ trú tập trung tại huyện Kỳ Sơn tỉnh
Nghệ An. [20]
Nhƣ vậy, ngƣời Mông bắt đầu sinh sống ở Bắc Mê cách đây khoảng 200
năm. Trong khoảng thời gian dài đó, ngƣời Mông từ Trung Quốc, Đồng Văn,
Mèo Vạc, Cao Bằng tiếp tục di cƣ đến theo các nhóm nhỏ. Dần dần tạo thành
một cộng đồng ngƣời Mông Bắc Mê đông đảo nhƣ ngày nay.
Ngƣời Mông cho rằng để tránh kẻ thù họ phải trốn ở những nơi vực sâu
núi thẳm, vì vậy họ họ chọn cho mình nơi sinh sống là vùng núi cao. Ở Bắc
Mê ngƣời Mông chủ yếu cƣ trú ở các xã Phiêng Luông, Thƣợng Tân, Yên
Cƣờng, Minh Sơn. Tại đây họ đã sinh con đàn cháu đống, cho đến nay ngƣời
Mông ở Bắc Mê chiếm 22% dân số toàn huyện, đứng sau dân tộc Tày và dân
tộc Dao. Cuộc sống của họ tuy còn nhiều khó khăn song với sự nỗ lực và
những kinh nghiệm lâu đời trong sản xuất nông nghiệp, họ đã góp phần làm
phong phú thêm đời sống kinh tế xã hội của huyện Bắc Mê.

Tiểu kết
Bắc Mê - một huyện miền núi nghèo của tỉnh Hà Giang là nơi cƣ trú của
các dân tộc ít ngƣời, trong đó có ngƣời Mông. Họ sống tập trung ở các vùng
núi đá cao nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Trải qua 200 năm kể từ khi
di cƣ vào mảnh đất này, ngƣời Mông đã tồn tại và phát triển một nền nông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18
nghiệp độc đáo với đời sống văn hoá, vật chất mang sắc thái riêng biệt.
Ngƣời Mông ở huyện Bắc Mê đang vƣơn lên xoá đói giảm nghèo và đã đạt
đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Vì vậy, những hiểu biết trong nông nghiệp
của họ cần đƣợc nghiên cứu để kết hợp với việc ứng dụng những thành tựu
khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp có hiệu quả.
























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19
CHƢƠNG 2
KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA
NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN BẮC MÊ TỈNH HÀ GIANG
2.1 Quan niệm về kiến thức bản địa
Theo tác giả Hoàng Xuân Tý, kiến thức bản địa (Indigenouse knowledge)
còn đƣợc gọi là kiến thức truyền thống (Traditionnal knowledge) hay kiến
thức địa phƣơng (Local knowledge) là hệ thống kiến thức của các dân tộc bản
địa, hoặc của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó. Nó tồn tại và phát
triển trong những hoàn cảnh nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên
trong cộng đồng ở một vùng địa lý xác định [30].
Trong những năm gần đây kiến thức bản địa đã đƣợc các nhà nghiên cứu
trong ngoài nƣớc quan tâm và đã đề cập trong các công trình nghiên cứu với
những tên gọi khác nhau nhƣ tri thức bản địa, tri thức dân gian, văn hoá
truyền thống, kiến thức địa phƣơng, tri thức tộc ngƣời… Các cách gọi khác
nhau này cho thấy những quan niệm và cách hiểu khác nhau về nội hàm của
cụm từ “Kiến thức bản địa”. Ngân hàng thế giới (World Bank) định nghĩa: Tri
thức bản địa là tri thức địa phƣơng, là nền tảng cơ bản cho việc thiết lập các
quyết định liên quan đến địa phƣơng trên mọi lĩnh vực của cuộc sống đƣơng đại
bao gồm quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, dinh dƣỡng, thức ăn, y tế,
giáo dục và trong các hoạt động xã hội và cộng đồng. Tri thức bản địa còn cung

cấp các chiến lƣợc nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra cho cộng đồng dân cƣ địa
phƣơng. Tác giả Louise Grenier định nghĩa: Kiến thức bản địa là vốn kiến thức
duy nhất, truyền thống và của một địa phƣơng, tồn tại và phát triển dƣới các điều
kiện cụ thể của những ngƣời dân bản địa trong một khu vực địa lý nhất định. Sự
phát triển của hệ thống kiến thức bản địa trong tất cả các khía cạnh của cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20
sống, kể cả việc quản lý môi trƣờng tự nhiên, từ lâu đã là vấn đề sống còn đối
với những con ngƣời sáng tạo ra chúng. Các hệ thống kiến thức bản địa cũng có
tính động, kiến thức mới liên tục đƣợ bổ sung. Các hệ thống này luôn đổi mới
trong lòng nó và cũng sẽ tiếp nhận, sử dụng và thích nghi với kiến thức bên
ngoài nhằm phù hợp với điều kiện của địa phƣơng.
Tác giả Lê Trọng Cúc cho rằng: Tri thức địa phƣơng hay còn gọi là tri
thức bản địa là hệ thống tri thức của các cộng đồng dân cƣ bản địa ở quy mô
lãnh thổ khác nhau. Tri thức địa phƣơng đƣợc hình thành trong quá trình lịch
sử lâu đời, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trƣờng xã hội, đƣợc hình thành
dƣới nhiều dạng thức khác nhau, đƣợc truyền từ đời này sang đời khác qua trí
nhớ, qua thực tiễn sản xuất và thực hành xã hội. Nguyễn Duy Thiệu cho rằng:
Tri thức dân gian là một phức hệ những kinh nghiệm đƣợc truyền từ đời này
sang đời khác. Nó cũng đƣợc hình thành trong thế ứng xử giữa hoạt động của
con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên để kiếm sống. Tri thức dân gian cũng chỉ
tồn tại trong từng điều kiện môi trƣờng cụ thể. Bởi thế nó cũng thƣờng đƣợc
gọi là tri thức bản địa hoặc cụ thể hơn là tri thức của ngƣời bản địa
(knowledge of indigenous).
Tác giả Phạm Quang Hoan cho rằng: Tri thức địa phƣơng đƣợc hiểu ở
các cấp độ khác nhau. Một là, “tri thức địa phƣơng” (hay “tri thức bản địa”,
“tri thức dân gian”, “tri thức tộc ngƣời”) là toàn bộ những hiểu biết, những
kinh nghiệm của một tộc ngƣời nhất định đƣợc tích luỹ, chọn lọc và trao

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn tri thức đó đƣợc phản ánh trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng để mỗi tộc ngƣời sinh tồn,
phát triển và thích nghi trƣớc những biến đổi đã và đang diễn ra. Nói cách
khác, tri thức địa phƣơng là phƣơng thức ứng xử, là đặc tính thích nghi với
những điều kiện sinh thái nhân văn của mỗi tộc ngƣời. Cũng có thể coi đó là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21
bản sắc văn hoá tộc ngƣời. Hai là, “tri thức địa phƣơng” là tri thức của các
cộng đồng tộc ngƣời cùng cộng cƣ trong một vùng sinh thái hay một vùng
văn hoá nhất định. Trong trƣờng hợp này tri thức địa phƣơng cũng phản ánh
xu hƣớng giao lƣu và biến đổi văn hoá hay thích nghi văn hoá giữa các tộc
ngƣời [10].
Các khái niệm tri thức bản địa, tri thức địa phƣơng hay kiến thức truyền
thống, tri thức dân gian… trong các bài nghiên cứu thƣờng đƣợc đổi lẫn cho
nhau. Trong bài nghiên cứu về kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong
nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên tác giả Hoàng Xuân Tý cho
rằng các cụm từ trên là đồng nghĩa. Tuy nhiên, theo ý kiến của tác giả
Mugabe thì có sự khác biệt đôi chút giữa khái niệm Tri thức bản địa và tri
thức truyền thống. Theo ông “ tri thức bản địa là tri thức được duy trì bởi
một nhóm người dân, những người tự nhận là người bản xứ của một địa
phương dựa trên cơ sở sự khác biệt nhau về văn hoá và sự chiếm giữ lãnh
thổ trước tiên liên quan đến dân số mới di cư đến trong một thời gian gần
đây, với sự khác biệt của chính bộ phận này và nền văn hoá có ảnh hưởng
lớn. Tri thức truyền thống, mặt khác là tri thức được được duy trì bởi các
thành viên của một nền văn hoá khác biệt và/ hoặc đôi khi đạt được bằng
cách hướng đặc biệt tới nền văn hoá đó và liên quan đến chính nền văn hoá
và môi trường địa phương mà nó tồn tại”. Ông kết luận rằng: “tri thức bản
địa ăn khớp rõ ràng với sự phân loại tri thức truyền thống, nhưng truyền

thống không tự động là bản địa”. Bản thân Mugabe trong các bài nghiên cứu
của mình cũng đã khẳng định: “đã có rất nhiều lỗ lực khác nhau để xác định
quan niệm về tri thức truyền thống và tri thức bản địa và cư dân bản địa,
nhưng trong một chừng mực nhất định thì vẫn chưa có một định nghĩa nào
được toàn cầu chấp nhận” [12].

×