Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn: DI CẢO NGUYỄN MINH CHÂU pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.98 KB, 101 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
***


LỤC THỊ THUÝ HÀ



DI CẢO NGUYỄN MINH CHÂU



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60.22.34


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ BÍCH THU












Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc tới PGS - TS Nguyễn Thị
Bích Thu, cô giáo đã tận tâm hướng dẫn chỉ bảo em trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt thành giảng dạy của các thầy cô
trong khoa Ngữ văn nói chung, các thầy cô trong tổ Văn học Việt nam trường
Đại học sư phạm Thái Nguyên nói riêng để em có thể hoàn thành luận văn
theo đúng kế hoạch đào tạo!
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn


Lục Thị Thuý Hà
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

MC LC
STT

PHN M U
Trang
1.
Lớ do chn ti
1
2.
Lch s vn

3
3.
i tng v phm vi nghiờn cu
7
4.
Phng phỏp nghiờn cu
7
5.
Mc ớch khoa hc
8
6.
B cc lun vn
8

NI DUNG


CHƯƠNG I: dI CảO nGUYễN mINH CHÂU TRONG
Sự NGHIệP SáNG TáC CủA NHà VĂN
9
1.1.
Vi nột v cuc i v s nghip ca Nguyn Minh Chõu
9
1.2.
V trớ ca Di co trong vn nghip Nguyn Minh Chõu
24
1.3.
Giỏ tr ca Di co Nguyn Minh Chõu
26


CHNG II: MT S VN V HIN THC X HI
V VN HC TRONG DI CO NGUYN MINH CHU
29
2.1.
Mt s vn v hin thc xó hi v cỏi nhỡn a din v con
ngi
30
2.1.1.
Cỏi nhỡn sõu sc v hin thc chin tranh v sau chin tranh
30
2.1.2.
Cỏi nhỡn a din v con ngi.
37
2.2.
Quan nim v ngh vn, trn tr ca ngi cm bỳt
46
2.2.1.
Nhng cm nhn v vn hc trong nc v th gii
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2.2.
Những chuyển biến tư tưởng, nhận thức về nghề văn có ý nghĩa
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu…………………………
56
2.2.2.1.
Thiên chức của người cầm bút…………………………………
58
2.2.2.2.
Cách phản ánh hiện thực xã hội……………………………

60

CHƢƠNG III: CHÂN DUNG NGUYỄN MINH CHÂU
QUA DI CẢO
62
3.1.
Nguyễn Minh Châu - gương mặt đời thường…………………
63
3.1.1.
Một con người thành thực với công việc, với vợ con, bạn bè
đồng nghiệp và với chính mình………………………………
63
3.1.1.1.
Thành thực với chính mình…
63
3.1.1.2.
Thành thực với vợ con………………………………………….
67
3.1.1.3.
Tình cảm với bạn bè đồng nghiệp……………………………
69
3.1.2.
Đối mặt với bạo bệnh…………………………………………
71
3.1.2.1.
Chống chọi với bệnh tật với tất cả ý chí và niềm tin…………
71
3.1.2.2.
Những sáng tác trên giường bệnh………………………………
72

3.2.
Nguyễn Minh Châu - gương mặt nghệ sĩ lớn…………………
74
3.2.1.
Gắn bó với quê hương và vùng đất “nóng” Quảng Trị…………
74
3.2.2.
Những đột phá trong sáng tác………………………………….
80
3.2.2.1.
Nguyễn Minh Châu với Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Miền
cháy, Dấu chân người lính, Cỏ lau……………………………
83
3.2.2.2.
Nguyễn Minh Châu với các trang phê bình tiểu luận ………….
87

KẾT LUẬN
92

TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Minh Châu là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học
hiện đại Việt Nam. Quá trình sáng tác của ông gắn liền với sự trưởng thành
một nhà văn chiến sĩ. Ông đã cùng đồng đội trải qua những năm tháng ác liệt

của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và giai đoạn thăng trầm của thời kỳ
hậu chiến. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản chiếu quá trình
vận động và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu từ Cửa Sông (1967); Dấu chân người lính (1972); Những
vùng trời khác nhau (1970); Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà (1977);
Những người đi từ trong rừng ra (1982) đến Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành (1983); Bến quê (1985); Mảnh đất tình yêu (1987); Chiếc thuyền
ngoài xa (1987); Cỏ lau (1989); đã cho thấy sự đổi mới của nhà văn trong tư
duy nghệ thuật, khởi đầu từ cuộc“chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc”
chuyển sang “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người”.
Là nhà văn tâm huyết, suốt đời trăn trở, băn khoăn về lẽ sống và sáng
tạo, Nguyễn Minh Châu đã âm thầm “tự đổi mới trước khi làn sóng đổi mới
dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc”. Trên “hành trình tư
tưởng” của mình, nhà văn đau đáu tìm cội nguồn đích thực của một nền văn
học mang tính nhân bản và nhân loại, khám phá những vấn đề thuộc về số
phận con người.
Những năm gần đây, Di cảo của một số nhà văn, nhà thơ như: Nhật kí
Nguyễn Huy Tưởng (2006), Dương Thị Xuân Quý - Nhật kí - Tác phẩm
(2007); Di cảo Lưu Quang Vũ (2008); Di cảo thơ Chế Lan Viên (1992); Di
cảo thơ Phùng Khắc Bắc (1994)… đã trở thành một hiện tượng khá đặc biệt
trong đời sống văn học. Với Di cảo Nguyễn Minh Châu (2009) cũng không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
phải là trường hợp ngoại lệ. Những cuốn Di cảo - một dạng của nhật kí đã cho
người đọc hiểu hơn một thời kì lịch sử đã qua về cuộc đời và những sáng tác
gắn với thời đại, dân tộc và với chính họ. Hơn hai mươi năm Nguyễn Minh
Châu vĩnh biệt cõi đời, song ông đã trở thành “người trong cõi nhớ” của
người thân và độc giả. Những trang Di cảo, những ghi chép của ông được
người bạn đời là bà Nguyễn Thị Doanh nâng niu, cất giữ bấy lâu nay đã được

công bố. Di cảo Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta thấy không chỉ sự thật
của một giai đoạn lịch sử: Cuộc chiến tranh, số phận con người, số phận dân
tộc cùng những trăn trở, suy tư của nhà văn với ý thức công dân - nghệ sĩ của
mình mà còn giúp người đọc hình dung một cách đầy đủ hơn về Nguyễn
Minh Châu, một trong số hiếm hoi các cây bút đi tiên phong trong công cuộc
đổi mới văn học, bằng những trang viết của mình đã làm rạn nứt những quan
niệm khô cứng một thời về văn học và lao động nghệ thuật.
Lâu nay sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu gồm những tác
phẩm được xuất bản, công bố đã thu hút sự quan tâm của giới sáng tác và
nghiên cứu phê bình. Nhưng Di cảo của nhà văn - những ghi chép còn lại
trong di sản văn chương của ông đến hôm nay mới chính thức ra mắt công
chúng. Với gần 500 trang, cuốn Di cảo Nguyễn Minh Châu đã phơi tỏ, bổ
sung thêm những điều còn chìm ẩn trong cảm nghĩ, nhận thức, với những trăn
trở, khát khao sống và sáng tạo của nhà văn. Như vậy, tìm hiểu Di cảo
Nguyễn Minh Châu không chỉ để hiểu hơn chân dung đích thực và hoàn chỉnh
về nhà văn mà còn là cơ hội để nhìn nhận thấu đáo hơn về sự nghiệp văn học
cùng những đổi mới có ý nghĩa quan trọng trong tư duy sáng tạo của ông
trong cả một quá trình sống và viết. Đó là những gợi dẫn cho chúng tôi lựa
chọn đề tài Di cảo Nguyễn Minh Châu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Ý kiến đánh giá sự nghiệp sáng tác Nguyễn Minh Châu
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu có một mảng gắn với thời kì đổi
mới.Với những sáng tác này, nhà văn được tôn vinh là người “Mở đường tinh
anh” cho cuộc đổi mới văn học, vì thế sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã
được các nhà nghiên cứu phê bình văn học chú ý ngay từ khi những tác phẩm
đầu tiên ra đời và càng về sau thì cách đánh giá càng thoả đáng và toàn diện
hơn. Mỗi người tiếp cận tác phẩm ở một góc độ và có những cách đánh giá,

nhận xét, nhìn nhận sự thành công ở từng mức độ khác nhau nhưng tất cả đều
có chung sự tin tưởng: Nguyễn Minh Châu là tài năng văn xuôi nhiều triển
vọng. Đến nay đã có rất nhiều công trình, bài viết về Nguyễn Minh Châu và
sự nghiệp của ông, trong đó phải kể đến các cuốn sách tuyển chọn bài viết của
nhiều tác giả như: Nguyễn Minh Châu - Con Người và Tác Phẩm (Nhiều tác
giả; do Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân biên soạn - Nxb Hội nhà văn
1991), Nguyễn Minh Châu - Tài năng và sáng tạo nghệ thuật (Mai Hương
biên soạn - NxbVhoá - TT 2001).
Gần đây nhất là cuốn Nguyễn Minh Châu về tác giả - tác phẩm
(NxbGD- 2002) do Nguyễn Trọng Hoàn tuyển chọn.
2.1.1. Thời kì trƣớc 1975
Trước cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu đã có hơn 10
truyện ngắn và bút kí in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội. Nhưng phải đến tiểu
thuyết Cửa sông (1967) thì con đường văn học của Nguyễn Minh Châu mới
thực sự định hình. Tiếp đó tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970)
và nhất là tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) đã đưa Nguyễn Minh Châu
vào trong số những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học chống Mỹ.
Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 như Cửa sông; Dấu
chân người lính, ngay từ khi xuất hiện đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Nhận định về sự thành công của tác phẩm Cửa sông, giáo sư Phong Lê viết:
“Tác giả tỏ ra có khả năng khái quát hoá cuộc sống, biết lựa chọn những tình
huống, những tính cách điển hình” [33]. Với Dấu chân người lính, nhà
nghiên cứu Tôn Phương Lan nhận xét: “Tác phẩm đã đi thẳng vào cuộc chiến
đấu ác liệt và ngoan cường nơi tiền tuyến… xây dựng nhân vật đẹp đẽ , giàu
chất lãng mạn” [35]. Các nhà nghiên cứu phê bình: Lại Nguyên Ân, Thiếu
Mai, Nguyễn Kiên, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn… cũng đều có
nhiều những bài viết công phu về giai đoạn sáng tác này của Nguyễn Minh

Châu và hầu hết các tác giả nói trên đều thống nhất khẳng định ông là một tài
năng văn xuôi nhiều hứa hẹn.
2.1.2. Thời kì sau 1975
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng Nguyễn Minh Châu nhanh
chóng hoà nhập với cuộc sống mới của dân tộc. Là nhà văn nhạy cảm với
những biến đổi của đời sống xã hội sau chiến tranh, ông lần lượt cho ra đời
những tiểu thuyết: Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những
người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987) cùng các tập
truyện ngắn Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau mang
những sắc điệu mới trong bút pháp cũng như giọng điệu của nhà văn.
Những tác phẩm này được các nhà nghiên cứu phê bình văn học:
Nguyễn Văn Long, Nhị Ca, …đánh giá khá cao. Các nhà nghiên cứu thấy ở
Nguyễn Minh Châu “Sự không chịu dừng lại” mà đã có dấu hiệu tìm tòi đổi
mới. Điều này chứng tỏ Nguyễn Minh Châu luôn luôn trăn trở tìm kiếm một
lối đi riêng biệt để thể hiện một cách chính xác hơn, chân thực hơn những vấn
đề nóng bỏng của đời sống. Nếu như chia sáng tác của Nguyễn Minh Châu
thành hai giai đoạn cụ thể thì những sáng tác cuối thập kỉ bảy mươi, đầu thập
kỉ tám mươi là một giai đoạn có tính chất quá độ. Để rồi sau đó ít lâu Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Minh Châu trở thành một trong những nhà văn tiên phong trong công cuộc
đổi mới văn học.
Với ba tập truyện ngắn Người đàn bà trên tuyến tàu tốc hành, Bến quê,
Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu đã trở thành một “hiện tượng” văn học. Điều đó
đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau trong giới phê bình văn học, thậm chí
có lúc các ý kiến trái ngược nhau, nhưng được đưa ra bàn luận sôi nổi, được
phân tích kĩ lưỡng ở nhiều góc độ khác nhau, đã xuất hiện một loạt bài viết
của các nhà phê bình.
Nhìn chung các ý kiến đánh giá, nhận xét trong cuộc thảo luận đã kết

luận: Sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Là một khuynh hướng tìm tòi trong
nghệ thuật”. Tuy vậy, vẫn có ý kiến cho rằng:“Truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu mới thành công một nửa” [50].
Bên cạnh một số ý kiến đánh giá có phần dè dặt là đa số các ý kiến ghi
nhận thành tựu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu cùng những đóng góp
mới mẻ của nhà văn với thể loại này. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sau khi
phân tích, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra cái mới của nhà
văn “Sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã có chiều sâu mới mẻ nảy sinh trong
sự đổi mới của các bình diện nhận thức đời sống, mạnh dạn đi tìm cách thể
hiện khác nhau làm phong phú các khả năng nghệ thuật của mình và của nền
văn xuôi đang bước vào thời kỳ phát triển mới” [1].
Trần Đình Sử lại ghi nhận sự thành công của Nguyễn Minh Châu dưới
con mắt của một nhà thi pháp học. Ông cho rằng:“Truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách
trần thuật mới” và đặc sắc của tập Bến quê chủ yếu là thể hiện một hướng
trần thuật có chiều sâu” [53].
Với Phiên chợ Giát, một truyện ngắn được hoàn thành ngay trên
giường bệnh vào chính những ngày cuối cùng của cuộc đời, Nguyễn Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Châu đã gửi thông điệp nghệ thụât cuối cùng của nhà văn như,“một di chúc
khắc khoải đẫm máu”, với người đọc. Đỗ Đức Hiểu đã viết: “Phiên chợ Giát
có một tầm cỡ lớn. Nó là một chấn thương nhức nhối, một bức tranh với bao
cảnh hoang vu, với nhiều mảng tối và những chấm đỏ màu máu…”[32].
Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, song Phiên chợ Giát là một
trong những thiên truyện hay nhất của Nguyễn Minh Châu, “Một kiệt tác của
văn học hiện đại chúng ta” nó “bộc lộ sự tinh tế, tài hoa của một cây bút mà
tài năng đang ở độ chín” (Nguyên Ngọc).
Cái chết của nhà văn đã gây nhiều xúc động, luyến tiếc nhất là vào thời

điểm văn học nước ta đang có những chuyển động phong phú, sâu sắc và
phức tạp. Sau khi ông mất, nhiều nhà phê bình đã viết bài tưởng niệm.Tất cả
đều có chung một nhận xét: Nguyễn Minh Châu là nhà văn có nhân cách lớn,
một tài năng văn học thật sự. Những sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau khi
ông qua đời (1989) vẫn tiếp tục thu hút các nhà nghiên cứu, phê bình tìm hiểu
và nghiên cứu trên những góc nhìn mới.
2.2. Ý kiến đánh giá Di cảo Nguyễn Minh Châu
Trong lời giới thiệu cuốn sách Di cảo Nguyễn Minh Châu, tác giả Hoàng
Châu Minh đã viết: “Cùng với toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, cuốn Di
cảo này giúp cho những ai quan tâm đến nền văn học hiện đại Việt Nam và tác
giả Nguyễn Minh Châu có một bức chân dung hoàn chỉnh về ông - một nhà văn
chiến sĩ - suốt đời không ngừng trăn trở lo âu về số phận con người và săn
đuổi một cách riết ráo ngay chính bản thân mình” [41-10].
Nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan trong bài viết “Cái nhìn ngược
sáng từ Di cảo Nguyễn Minh Châu” đã nhận thấy:
“Di cảo Nguyễn Minh Châu không chỉ cho chúng ta thấy được phần
nào sự thật của một giai đoạn lịch sử cuộc chiến tranh, số phận mỗi con
người, số phận dân tộc cũng như những trăn trở, suy tư của nhà văn về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
trách nhiệm nghệ sĩ của mình mà qua đó chúng ta cũng có một hình dung
rõ hơn về một Nguyễn Minh Châu - một trong số các nhà văn sớm đi đầu
trong công cuộc đổi mới và cũng hiểu được vì sao ông đã chọn cách đi ấy,
do đâu mà ông lại thành công như vậy” [41- 12].
Điểm lại lịch sử vấn đề có thể khái quát rằng: Về sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Minh Châu đã được nhiều cây bút nghiên cứu, các đề tài luận
văn quan tâm đến như Quan niệm nghệ thuật về con người, Những đổi mới
tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Cảm hứng nhân văn trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu…Và “ như là để nói đến sự sống sau cái chết”.

Năm 2009, cuốn Di cảo Nguyễn Minh Châu ra đời đã giúp người đọc có cái
nhìn đầy đủ hơn về Nguyễn Minh Châu trong đời sống, cũng như đời viết
của mình. Và đây chính là khoảng trống để chúng tôi tiếp cận và triển khai
đề tài: Di cảo Nguyễn Minh Châu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu Di cảo Nguyễn Minh Châu nhằm ghi nhận vị
trí và giá trị của Di cảo trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu, trên
cơ sở đó nhận diện một cách đầy đủ và toàn diện hơn chân dung nhà văn .
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Di cảo Nguyễn Minh Châu, NXB Hà Nội, 2009 và các sáng tác của nhà văn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu:
5. Mục đích khoa học
- Nhận diện Di cảo Nguyễn Minh Châu và vị trí của nó trong sự nghiệp
văn chương của nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Tìm hiểu Di cảo Nguyễn Minh Châu để thấy rõ hơn sự chuyển đổi tư
duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về văn học, về hiện thực, về con
người, về nghề văn. Một cây bút có ý thức tiên phong trong công cuộc đổi
mới văn học.
- Nghiên cứu Di cảo Nguyễn Minh Châu góp phần nhận diện đầy đủ
hơn chân dung và nhân cách nhà văn trong quá trình sống và viết của ông.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm ba chương.
Chương I: Di cảo Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.

Chương II: Một số vấn đề của hiện thực xã hội và văn học trong Di Cảo
Nguyễn Minh Châu.
Chương III: Chân dung Nguyễn Minh Châu qua Di cảo.









S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

9
NI DUNG
CHƯƠNG I
dI CảO nGUYễN mINH CHÂU TRONG Sự NGHIệP SáNG TáC
CủA NHà VĂN
1.1. Vi nột v cuc i v s nghip ca Nguyn Minh Chõu
Nh vn Nguyn Minh Chõu sinh ngy 20.10.1930; mt ngy 23.1.1989.
Quờ gc: Lng Thi, xó Qunh Hi, huyn Qunh Lu, tnh Ngh An.
Lng Vn Thỏi tc gi l lng Thi chuyờn ngh ỏnh cỏ khi v lm
mui, l mt vựng quờ nghốo, i sng vn hoỏ rt thp.
Nguyn Minh chõu sinh ra v ln lờn trong mt gia ỡnh khỏ gi, nhng
sa sỳt sau cỏch mng thỏng Tỏm. Cha cng cú chỳt hc hnh. M quanh nm
lm vic ng ỏng, khụng bit ch, rt giu tỡnh thng v lũng hy sinh vỡ con
cỏi, c bit thng chiu Nguyn Minh Chõu l con ỳt. Tuy khỏ gi nhng
Nguyn Minh Chõu rt khc kh. Con cỏi trong nh ch con trai l c hc
hnh n ni n chn, cũn con gỏi khụng c i hc. Nhng ngi ch ca

Nguyn Minh Chõu (ch rut, ch dõu, ch h) vi nhng s phn khụng may
mn, c cuc i ti cc ln n quờ nh ó li n tng sõu sc trong
tỡnh cm ca nh vn.
Mc dự sinh ra trong mt gia ỡnh ụng anh em nh vy, riờng ụng
c hc hnh chu ỏo. Quờ hng Nguyn Minh Chõu l mnh t ca ngừ
X Ngh, nm ven bin min Trung. Cng nh bao lng quờ õy, lng Thi
l mt vựng t sn thu hu tỡnh nhng cng rt khc nghit v d di. Nm
kp gia Lch Thi v Lch Quốn, phớa Tõy l i nỳi n lan ra tn bin nh
Hũn Rng, Hũn Kin, lng Thi l mt vựng t d di m hin ho, vi
thiờn nhiờn nc bic non xanh. Nhng K Thi cng l vựng t ca nhng
cn giú Lo bng rỏt v mựa hố v nhng trn cung phong chao o c t
tri v mựa ma l.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Có lẽ sự hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên, đất đai đã in dấu ấn lên
con người của làng quê ông. Nguyễn Minh Châu đã kể về con người làng
Thơi của nhà văn như sau: “Quê tôi là Quỳnh Hải thôn Kẻ Thơi, Lạch Quèn.
Dữ dội lắm. Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ chỉ có uống rượu và đánh nhau.
Rượu say, ngủ ngay ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi “ nhặt”
chồng về. Cả làng làm nghề chài lưới, chẳng học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông
Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong
xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt. Nhưng vớ phải một mụ bán
bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt. Lão
Điềm phải thua. Có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh (dùng để cạo tinh
những thanh giang chẻ lạt) rạch ngang bụng, ruột xổ ra. Trẻ con chúng tôi lấy
rổ đựng ruột cho ông ta, buộc lại rồi đưa đi viện. Ông ta chết. Có một chuyện
cũng lạ: Một anh đi biển gặp bão, chết ngoài khơi xa, xác trôi về, cứ trôi quanh
co theo con lạch Thơi mà vào tận cửa nhà mình mới dừng lại. Mùa bão, sau mỗi
trận bão, người làng khóc như ri vì có người nhà chết ngoài biển…”[32].

Tháng 1 năm 1950, Nguyễn Minh Châu nhập ngũ. Cùng năm, ông gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1951, ông được cử đi học trường sĩ quan lục quân
Trần Quốc Tuấn. Trước khi trở thành nhà văn, ông đã trải qua các chức vụ: Sĩ
quan tác chiến, chính trị viên đại đội, trợ lí văn hoá thanh niên
Từ năm 1950 đến năm 1954, Nguyễn Minh Châu tiếp tục phục vụ trong
quân đội, ông đã cùng đơn vị chiến đấu và hoạt động ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Năm 1952 đến 1956, ông công tác tại ban tham mưu tiểu đoàn 772,706
thụôc sư đoàn 320.Tham gia chiến đấu ở vùng tả ngạn, hữu ngạn sông Hồng.
Hoàn cảnh công tác của một cán bộ tham mưu tác chiến của tiểu đoàn, rồi
trung đoàn giúp Nguyễn Minh Châu thông thuộc nhiều vùng xóm làng miền
Bắc, nhất là vùng Hà Nam Ninh và Thái Bình. Nguyễn Minh Châu viết thành
công tiểu thuyết đầu tay Cửa sông, chính một phần nhờ vốn sống trong thời gian này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Năm 1959, Nguyễn Minh Châu là trung uý thuộc sư đoàn 320 đi dự hội
nghị bạn viết toàn quân. Năm 1960 được điều động về cục Văn hoá quân đội,
rồi về Tạp chí Văn nghệ quân đội, vừa làm biên tập vừa làm phóng viên. Tại
đây Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện ngắn đầu tay
nhưng chưa gây được sự chú ý. Từ năm 1962 đến năm 1964, Nguyễn Minh
Châu cho in 12 truyện ngắn trên Tạp chí Văn nghệ quân đội. Đây là những
truyện ngắn viết trong khoảng thời gian hoà bình ngắn ngủi ở Miền Bắc.
Người bộ đội, nhân vật chính trong truyện của Nguyễn Minh Châu thời gian
này “Vẫn sôi sục một tinh thần tiền tuyến. Họ dốc hết sức mình vào việc luyện
tập trên thao trường để chuẩn bị thật tốt cho những cuộc chiến đấu đang chờ
họ. Luôn luôn nghiêm khắc với mình, luôn chống lại thái độ hoà bình chủ
nghĩa”, đó là đặc điểm chung của những Bản, Vẻ, Bình, Sinh, Trần Việt, An,
Thoa…trong Buổi tập cuối năm, Gốc sắn, Trên vùng đất sỏi, Ghi chép ở đại
đội… Ngày 5 tháng 8 năm 1964, giặc Mỹ đánh phá sông Gianh, Bến Thủy,
Hồng Gai, Nguyễn Minh Châu đi vào khu IV, Quảng Bình. Khoảng tháng

mười năm ấy, Nguyễn Minh Châu có Tuổi trẻ cầm súng, tháng mười một có
Kỉ niệm hạm tàu. Đến năm 1967, nhà văn đã đóng góp vào công cuộc chống
Mỹ một truyện vừa tương đối có chất lượng: “Cửa sông”. Cuốn truyện vừa ra
đời đã được bạn đọc khen ngợi và được xem như sự báo hiệu “tác giả là một
nhà tiểu thuyết tài năng”(Nguyễn Đình Thi). Truyện viết về làng Kiều rất
bình thường, một làng quê có bờ sông bến nước, với những đống muối trắng
loá dưới nắng hè, với những đàn le le vụt bay lên từ bãi sú, những con “còng
gió” hốt hoảng chạy trên cồn cát…, và những con người cũng gan góc, trần
trụi và khoẻ mạnh như quê hương của họ. Truyện toát lên tấm lòng yêu mến
đất nước, con người của nhà văn: “Mỗi tấc đất, mỗi con người quen thuộc mà
mình từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền
với lịch sử đất nước đầy thử thách. Mỗi con người đều mang trong lòng bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
điều tốt mà có thể học hỏi khám phá suốt đời không hết, để tìm hiểu nhân dân
mình”. “Lòng thương yêu đằm thắm đối với tất cả những cái đó là sức mạnh
của những con người chiến đấu trong Cửa sông mà cũng là chỗ mạnh của tác
giả Cửa sông”. Theo sát cuộc chiến đấu của quân và dân miền Bắc, Nguyễn
Minh Châu có mặt hầu hết ở các binh chủng: Câu chuyện trên trận địa,
Những vùng trời khác nhau viết về người lính phòng không; Trong ánh đèn
gầm, Mảnh trăng cuối rừng viết về người chiến sĩ giao thông ở Trường Sơn;
Kỉ niệm hạm tàu, Cửa sông viết về lực lượng hải quân…
Từ những bút kí, truyện ngắn đến Cửa sông, Nguyễn Minh Châu tiến dần
từng bước với ý thức rõ ràng về con đường mình đi. “Anh nói thầm với người đọc
qua các trang viết của mình; hãy lấy con mắt của tình yêu và niềm tin mà tìm hiểu và
đánh giá xã hội ta và những con người của chúng ta, cho dù đó là những con người
bình thường nhất mà ta vẫn tiếp xúc trong đời sống hàng ngày”.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu thật sự được khẳng định
trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông

(1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác
nhau (1970). Dấu chân người lính có nhiều nhân vật. Tính cách những nhân
vật chính được tác giả chạm trổ khá sắc sảo. Chẳng hạn, Lữ được xây dựng
theo hướng lý tưởng hoá, có sử dụng ít nhiều yếu tố lãng mạn và được thể
hiện bằng một lối văn dồi dào cảm xúc, có nhiều chất thơ. Qua tập thể những
người chiến sĩ trẻ trong Dấu chân người lính, nhà văn đã đưa lại cho bạn đọc
hình ảnh phổ biến về người binh nhì của quân đội hiện đại chúng ta.
Cùng với việc thử sức mình ở lĩnh vực tiểu thuyết, Nguyễn Minh Châu
còn quan tâm đến hoạt động phê bình, dựng chân dung văn học. Năm 1969,
trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, nhà văn in bài trao đổi kinh nghiệm sáng tác
đầu tiên mảng tác đầu tiên: Người trong truyện. Năm 1970, cho in trên tạp chí
Tác phẩm mới bài viết về nhà văn Nguyễn Thi: Một người viết văn, Một sự chuẩn bị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Ngày 13 tháng 4 năm 1972, ông được kết nạp vào hội nhà văn Việt
Nam. Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1973, đi theo đoàn quân 559 vào đường
mòn Hồ Chí Minh. Ông dự lễ trao trả tù binh ở sông Thạch Hãn, viết bài tiểu
luận Người viết trẻ và cánh rừng già, giới thiệu nhà thơ trẻ Phạm Tiến Duật.
Tên tuổi nhà văn Nguyễn Minh Châu được biết đến không chỉ ở trong nước
mà cả ở nước ngoài. Năm 1973, nhà nghiên cứu văn học Nga N.I.Niculin giới
thiệu Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng trên tạp chí
Các dân tộc Á - Phi (Liên xô).
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong
niềm vui lớn, mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam đều đứng trước những
vấn đề, những hoàn cảnh gay cấn, hậu quả nhức nhối của hai mươi năm đất
nước bị chia cắt. Ông đến với miền Nam, một nửa đất nước vừa được giải
phóng: Tháng 5 - 6 (1975) ông đi Sài Gòn, đồng bằng sông Cửu Long, tháng
10 cùng năm ông đi cửa Việt (Quảng trị). “Mảnh đất vừa giải phóng này như
một lời thách đố, như một thứ chiến trường mới, lập tức mở ra trên chính

vùng chiến trường cũ… bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần thiết
phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực để bước vào một cuộc chiến tranh”. Nhận
thức rất đúng này về hoàn cảnh xã hội Việt Nam sau chiến tranh đã được
Nguyễn Minh Châu thể hiện trong tiểu thuyết Miền Cháy (Nhà xuất bản quân
đội nhân dân ấn hành năm 1977). Trong Miền cháy, để giải quyết những vấn
đề éo le trong số phận, trong từng gia đình do hậu quả của cuộc chiến tranh
lâu dài đã gây ra không có con đường nào khác ngoài chính sách hoà hợp dân
tộc. Nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết là một đứa bé bốn tuổi, con một
viên trung tá ác ôn đã bắn lén Nghĩa, người con trai còn lại cuối cùng của bà
mẹ Êm, ở nơi quân ta vừa chiếm được trên của biển Thuận An. Khi nhận nuôi
thằng bé, bà mẹ chưa biết rõ điều đó. Đến khi biết rõ sự thật, thái độ của mỗi
người lính, người dân đối với thằng bé là sự giằng xé, đấu tranh nội tâm giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
yêu thương và căm giận sao cho đúng, cho hợp với hoàn cảnh mới của đất
nước. Bằng tất cả nghị lực có được của một cuộc đời quá nhiều đau khổ, bà
Êm lại một lần nữa nén nỗi đau riêng để hành động đúng với bản chất nhân
đạo của bà.
Tiếp tục chủ đề mà Nguyễn Minh Châu đã đặt ra sau 1975, năm 1982,
Nguyễn Minh Châu đã cho ra mắt Những người đi từ trong rừng ra, giải
quyết một loạt vấn đề do hậu quả chiến tranh gây ra mà Miền cháy chưa kịp
giải quyết. Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết là từ chiến tranh chuyển sang hoà
bình, một bộ phận quân đội chuyển sang làm kinh tế. Vấn đề đấu tranh tư
tưởng từng bước tuy ngấm ngầm nhưng thật quyết liệt trong một đơn vị bộ
đội, là cuộc đấu tranh giữa lề lối làm ăn khoa học hiện đại với lề lối làm ăn
lạc hậu cũng tức là đấu tranh giữa tư tưởng tiến bộ và tư tưởng bảo thủ.
Với hai cuốn tiểu thuyết Miền cháy (1977) và Những người đi từ trong
rừng ra (1982), Nguyễn Minh Châu đã không gây được hiệu quả trong dư
luận như khi cuốn tiểu thuyết Dấu chân người lính vừa xuất hiện. Đây cũng là

chuyện bình thường, bởi vì trong sáng tạo nghệ thuật của một nhà văn, không
phải lúc nào các tác phẩm xuất hiện sau cũng thành công hơn các tác phẩm
trước. Mặt khác, con đường sáng tạo của nhà văn cũng là con đường tìm tòi
thể hiện chỗ mạnh của ngòi bút.“Cái mà ta gọi là phẩm chất tiểu thuyết của
Nguyễn Minh Châu dường như chưa ổn định. Anh hãy còn trên con đường
không ngừng tìm tòi, thể nghiệm một cách viết riêng để tải được đạt nhất
những suy nghĩ sâu sắc cùng với vốn sống dày dặn của mình”(Thiếu Mai).
Từ thực tế cuộc sống, từ trang viết đã được thể nghiệm, Nguyễn Minh
Châu đã nhận ra sở trường ngòi bút của mình, và các truyện ngắn của ông lần
lượt xuất hiện, đề cập tới những vấn đề của đời sống và con người thời hậu
chiến. Nguyễn Minh Châu đã quyết định lao vào “mặt trận đạo đức” của con
người sau cuộc chiến. Như ông đã nói:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
“Tôi muốn dùng ngòi bút tham gia trợ lực vào cuộc đấu tranh giữa cái
tốt và cái xấu bên trong mỗi con người, một cuộc giao tranh không có gì ồn
ào nhưng xảy ra từng ngày, từng giờ và khắp mọi lĩnh vực của đời sống”.
Nhận thức trên đây đã được nhà văn thể hiện trong các truyện ngắn Về
một cách sống (Văn nghệ số 12-1980, sau này đổi tên là Hạng), truyện vừa
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Văn nghệ số 35, tháng 8-1982), Bức
tranh (bắt đầu viết từ năm 1976, đăng trên Văn nghệ số 50, tháng 12-1982).
Trong những truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã đem những con người
anh hùng một thời ông quen biết và đã thể hiện họ qua các nhân vật như Kinh,
Khuê (Dấu chân người lính), Hiển (Những người đi từ trong rừng ra) để trả
lời những vấn đề đạo đức, cách sống bây giờ: “Trong truyện ngắn Hạng, tôi
đã đưa nhân vật chính uỷ Kinh trong Dấu chân người lính xuất hiện trở lại
với tất cả phong độ chính uỷ cũ, để làm chỗ dựa tinh thần cho Hạng giờ đây
đã trở nên một con người thực dụng”.
Năm 1983 là năm có nhiều niềm vui trong cuộc đời cầm bút của

Nguyễn Minh Châu. Những cố gắng tìm tòi của ông về cuộc sống, con người
trong hoàn cảnh mới của đất nước đã được trân trọng. Ông là đại biểu chính
thức dự Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 3 tại Hà Nội; đọc tham luận về
tiểu thuyết; trúng cử vào Ban chấp hành hội khoá 3. Cho in truyện ngắn Giao
thừa và một số bài về kinh nghiệm viết truyện ngắn, tiểu thuyết trên Văn nghệ
quân đội. Cho in thành sách riêng tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Tiểu thuyết Miền cháy được
dịch ra tiếng Nga, in tại Nhà xuất bản Cầu Vồng (Liên Xô). Truyện ngắn Bức
tranh cũng được dịch và in trên báo Văn học (Liên Xô).
Năm 1984, Nguyễn Minh Châu lần lượt cho đăng trên báo Văn nghệ
các truyện ngắn Dấu vết nghề nghiệp, Hai con nhóc (sau này có tên Hương và
Phai), Khách ở quê ra. Các truyện ngắn mới đăng này vừa thu hút sự chú ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
đáng kể, vừa gây những luồng dư luận khác nhau trong giới viết văn và phê
bình. Đáng chú ý nhất là truyện ngắn Khách ở quê ra. Truyện viết về lão
Khúng “tính nết chật chưởng đầy trái khoáy, nhưng không phải là con người
lèo lá, nhớp bụng”. Lúc trai trẻ, Khúng là một thanh niên lêu têu, có đầu óc
“thích nổi tiếng”. Khúng lấy vợ bất chấp mọi sự thua thiệt của một anh trai
tân, phải hứng chịu bao nhiêu lời chửi rủa của cả làng vì dám cả gan đem về
nơi thờ thần hoàng “một con đĩ chửa hoang”. Vì đói kém Khúng phải dìu
cõng vợ con rời làng đi khai hoang ở một vùng đất hoang vu chỉ có đá, tiếng
chim “bắt tép kho cà” và lau sậy. Để cưu mang cả gia đình, Khúng phải lao
động. Hắn tranh chấp với rừng từng bước chân không phải chỉ trả giá bằng
mồ hôi mà bằng cả máu. Ngày mới lên, hắn đã bị thương trong một lần máy
bay ném bom đêm, giữa lúc hắn đang vãi lúa lốc”. Nếu như trong Mảnh đất
tình yêu, cuộc sống phải đối chọi, phải đương đầu để sống đã biến những
người dân xóm Bến Đá của vùng biển mền Trung phải kiên trì như con dã
tràng, thì nơi rừng hoang của miền tây Nghệ Tĩnh, sự vật lộn giữa con người

với thiên nhiên, với giặc giã đã biến Khúng thành kẻ “Y như một con bọ hung
từ dưới lỗ chui lên: vừa đen, vừa gầy, vừa già, vừa xấu”. Một đời vật lộn với
cái đói, cái nghèo, trọng cái thực nên giữa phố phường Hà Nội, đến thăm các
di tích, Khúng rất ngỡ ngàng nếu không nói là thờ ơ trước các di tích, thắng
cảnh (Khúng cho rằng, Tháp Rùa thật không giống cái Tháp Rùa trong bức
tranh treo ở nhà). Lão xa lạ với bao sinh hoạt, cảnh sắc đô thị. Nhưng khi tiếp
xúc với cái đời thường, với những nhu cầu tồn tại tự nhiên của con người như
cảnh chợ búa (ở chợ Đồng Xuân, những cái ăn hàng ngày như hũ nước mắm
dúm muối, mớ rau, con cá…Khúng rất dễ dàng nắm bắt nó: “Làm con người
sống ở trên đời, anh nào cũng phải ăn cho nên xét cho đến cùng, ruột da đều
giống nhau cả”. Sự chiêm nghiệm, triết lí về cuộc sống, về con người ở
Khúng chỉ có được khi nhân vật suy ngẫm sống với chính thân phận, cuộc đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
của mình trong thực tại. Cái được, cái mất, hạnh phúc và đau khổ trong đời,
cũng đã nghiệm thấy ở bên ly rượu nhà Định: “Phàm con người ta ở đời, có
cái gì hơn người sướng vì nó và chuốc lấy chua cay cũng vì nó?!” Đoạn cuối
truyện, tác giả mô tả Khúng như một con người thất bại hoàn toàn khi lão giật
mình trở nên bơ vơ cô độc khi biết đứa con lão đã bỏ lão để trở thành người
bố đích thực của nó là con người của công nghiệp - người tổng công trình sư
(đồng thời là tình địch trong suốt hai mươi năm của lão). Truyện hoàn thành
vào tháng 3 năm 1984 và ra mắt độc giả trên báo Văn nghệ sau đúng một
năm, tháng 3 năm 1985, đã làm dư luận xôn xao. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Đặng Mạnh kể rằng: “Nhớ lại hồi truyện lão Khúng (tức khách ở quê ra) mới
đăng báo, không phải ai cũng hiểu và đồng tình (…). Một nhà thơ kiêm nhà
phê bình văn học nói với tôi như thế này: tôi không sao nuốt nổi cái truyện
ngắn này và cả tập Bến quê nữa” [40].
Sở dĩ có những ý kiến trái ngược nhau trong việc tiếp nhận về nhân vật
Khúng là ở người nông dân này, một mặt anh ta là một con người sản xuất

nhỏ, “cắm rất sâu vào các tầng đất quá khứ”. Cuộc sống của những người
nông dân như Khúng dựa vào kinh nghiệm và thói quen truyền lại từ nhiều
đời nên không tránh khỏi cái nhìn thiển cận, luẩn quẩn với cái mặt đất ở dưới
chân với mấy mảnh ruộng …thuộc sở hữu gia đình lão. Mặt khác, cũng đừng
nên nghĩ, tất cả những tính cách và tâm lí ấy đều là xấu. Qua nhân vật Khúng
(trong truyện Khách ở quê ra, Phiên Chợ Giát ), Nguyễn Minh Châu đã làm
nổi lên: “Mối quan hệ gia trưởng giàu chất thơ ấm áp và cơ sở đạo đức
truyền thống của nó”. Nguyễn Minh Châu đã tìm thấy chất thơ ấm áp từ cuộc
sống của người nông dân trong quan hệ cộng đồng: gia đình, họ hàng, làng
xã. Từ họ toả sáng những nét phẩm chất cao đẹp góp phần làm nên giá trị văn
hoá tinh thần của người Việt Nam hôm qua và hôm nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Nguyễn Minh Châu trở thành nhà văn được chú ý nhất của dư luận.
Tháng 6 năm 1985, đã có một cuộc thảo luận với nhan đề: “Trao đổi về truyện
ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu” do tuần báo Văn nghệ tổ
chức. Cuộc thảo luận đã thu hút rất nhiều ý kiến của các nhà văn nhà nghiên
cứu, phê bình văn học (báo Văn nghệ tường thuật, đăng hai kì, số 27 và 28).
Tập truyện Bến quê được in thành sách riêng. Hiện tượng “Nguyễn Minh
Châu” đã trở thành trung tâm của sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình. Hai
đoạn trích dẫn sau đây tiêu biểu cho những ý kiến trong số đó. Nhà nghiên
cứu Trần Đình Sử đánh giá: “Trong những nhà văn trăn trở tìm tòi đổi mới tư
duy nghệ thuật và tiếng nói nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu là một ngòi bút
gây nhiều hứng thú. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh rồi tập Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách
trần thật mới”. Nhà phê bình Lại Nguyên Ân cho rằng: “Sáng tác của
Nguyễn Minh Châu - đặc biệt là truyện ngắn - ra mắt dăm bảy năm gần đây,
đã trở thành gần như một loại sự kiện, ít ra là đối với giới văn học” [53].

Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Minh Châu trên lĩnh vực tiểu luận, phê
bình tiếp tục đựợc độc giả đón nhận qua các bài: Nhà văn Nguyễn Công Hoan
(Văn nghệ số 40 - 1985); một số bài báo bàn về nghề văn đăng trên Tạp chí
Văn nghệ quân đội. Năm 1987, dự hội thảo kỉ niệm 70 năm ngày nhà văn
Nam Cao hy sinh, Nguyễn Minh Châu đã có bài phát biểu về chân dung nhà
văn Nam Cao (bài đã đăng trên Văn nghệ số 29 và được giải thưởng về phê
bình của báo trong năm).
Năm 1987, trong không khí cởi mở của công cuộc đổi mới của đất
nước, Nguyễn Minh Châu dự cuộc gặp mặt của Tổng bí thư Trung ương Đảng
Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sĩ. Bài viết dự định phát biểu tại đây, sau
cho đăng trên Văn nghệ số 49 và 50 với nhan đề Hãy đọc lời ai điếu cho một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
giai đoạn văn nghệ minh hoạ. Cũng trong năm này, ông cho in tiểu thuyết
Mảnh đất tình yêu tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Đây là tác phẩm thứ 6
trong số 7 tác phẩm (năm 1988 cho in Cỏ lau là tác phẩm thứ 7) của Nguyễn
Minh Châu viết về vùng đất Quảng Trị. Dải đất cát ven biển khúc ruột miền
Trung mà lịch sử hình thành về con người, làng mạc của vùng đất ấy, không
mấy xa lạ với chúng ta hôm nay. Làng Hiền An, một quần cư điển hình của
làng xã ven biển miền Trung, chịu đựng thử thách của thiên tai đầy khắc
nghiệt: “cứ chừng khoảng vài ba giáp trời đất lại vẽ bản đồ một lần…”.
Thiên tai, giặc giã, đời sống lao động, đấu tranh và sinh hoạt để duy trì sự
sống của mỗi người, mỗi gia đình và cả làng xã tạo nên ở mỗi con người, mỗi
cảnh ngộ. Mỗi con người ở đây được tác giả thể hiện rất cụ thể, với hoàn cảnh
riêng, thân phận riêng. Có người suốt một đời vật lộn với sóng gió,với biển cả
và kiếm ăn với sự cô độc“như một cây cột buồm”. Đó là ông lão Bờ. Ông
ngoại của bé Quy, từng trải hết một đời người, cho đến những năm cuối đời,
gia đình ông là tập hợp của những con người và những số phận “đầu Ngô
mình Sở”. Ông đã trải qua hai đời vợ nhưng cuộc đời chỉ còn lại với ông đứa

con gái nuôi và đứa cháu ngoại. Nhà văn thấu cảm với những hoàn cảnh,
những tâm trạng của những con người không gặp may trên đường đời. Đấy là
sự cô độc của mụ Điểm, của thím Hiệp, những người phụ nữ “suốt đời đeo
đẳng một số phận đàn bà đầy chua chát”.
Từ những cuộc đời, những con người sống thác cùng đất đai và biển
khơi, lặng lẽ cống hiến cho đời, Nguyễn Minh Châu đã ví những cuộc đời
nhọc nhằn, sự hy sinh thầm lặng đó như những con dã tràng với đức tính kiên
nhẫn. Qua hình ảnh con dã tràng, Nguyễn Minh Châu muốn khái quát sự hy
sinh thầm lặng, đức tính kiên trì, chịu đựng gian khổ thử thách để xây dựng
cuộc sống, bảo vệ sự sống, giữ gìn những nét truyền thống tốt đẹp của con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
người trên dải đất này. “Con dã tràng thật là vĩ đại, nếu nó chữa được cái
tính cả sợ”.
Năm 1988, ông cho in truyện vừa Cỏ lau, nhà văn mô tả số phận nhân
vật Lực và những biến cố của gia đình nhân vật diễn ra trên vùng đất Quảng
Trị trong suốt hai cuộc kháng chiến. Khung cảnh đậm vẻ Quảng Trị được
Nguyễn Minh Châu khắc hoạ rất tài tình đã chứng minh cho nhận xét của ông
rằng, vùng đất này là cái rốn của chiến tranh . “Thực ra, Nguyễn Minh Châu
muốn mượn mảnh đất nhọc nhằn của miền Trung ấy… để thể hiện những vấn
đề da diết của số phận dân tộc mình”[30].
Qua thực tế sáng tác, Nguyễn Minh Châu mới nhận ra “ sở trường của
mình là gì, nhân vật đích thực của mình là ai”. Ý tưởng viết về người nông
dân nước ta đã được Nguyễn Minh Châu nghiền ngẫm từ lâu. Nhưng phải đến
Khách ở quê ra, Nguyễn Minh Châu mới thực “giác ngộ” về chỗ mạnh này
của vốn sống và tư tưởng của mình. Trò chuyện với nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Mạnh, ông nói: “Nếu trời Phật cho tôi sống, tôi sẽ viết về cái làng của
tôi. Tôi có viết trong Mảnh đất tình yêu, nhưng viết còn lành quá”. Đó là
truyện ngắn cuối đời của ông: Phiên chợ Giát. Truyện đã mô tả lão Khúng

trên đoạn đường từ nhà tới chợ Cầu Giát trong khoảng thời gian 5 - 6 tiếng
đồng hồ, nhưng đã khám phá thế giới bên trong hết sức phong phú của người
nông dân. Bằng cách mô tả ký ức của Khúng, nhà văn đã làm sống dậy khung
cảnh lịch sử của một thời với phong trào khai hoang xây dựng vùng kinh tế
mới, xu hướng đô thị hoá tới vùng sâu, vùng xa, cuộc chiến ở biên giới Tây
Nam…Trong dòng ký ức của nhân vật về những sự kiện lịch sử lớn lao ấy,
nổi lên lịch sử một gia đình, số phận con người đầy những xung đột tâm lý
căng thẳng, dữ dội, đầy u uất, đau đớn.
Đánh giá những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong Phiên Chợ
Giát, Trần Thị Mai Nhi cho rằng: “Cái mới, giá trị lớn nhất của Nguyễn Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Châu trong truyện ngắn này là làm xuất hiện trước người đọc một thế giới
tâm linh hết sức phong phú của một nông dân phải đối đầu với những thế lực
làm phi nhân cách con người…”
Truyện chấm hết bằng mấy chữ “sầu não và phiền muộn”. Nhưng
chẳng mấy ai tin rằng, câu chuyện đã kết thúc. Nếu Nguyễn Minh Châu còn
sống hoặc sau này sẽ xuất hiện một Hậu phiên chợ Giát, người ta hẳn đã thấy
lão Khúng xuất hiện với một “con đường đi đến một thế giới tự do” khác và
đi mãi không cùng, bởi vì lão Khúng chính là “nó chỉ tin nó”.
Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn
chế của nền văn học thời chiến tranh và thầm lặng nhưng dũng cảm và kiên
định tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu
thuyết đều xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại
một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu ra mắt bạn đọc nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tòi
mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, đựơc giới phê bình và sáng
tác tôn vinh là một trong những người đi đầu trong công cuộc đổi mới văn
học. Khi công cuộc đổi mới đất nước được chính thức phát động, Nguyễn

Minh Châu nhiệt thành và đầy tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học
nước nhà, vừa bằng những phát biểu trực tiếp, mạnh mẽ, vừa bằng những
sáng tác đã đạt đến độ sâu sắc của tư tưởng và sự kết tinh nghệ thuật cao.
Nhưng số mệnh nghiệt ngã với căn bệnh hiểm nghèo ung thư máu đã khiến
hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu phải đột ngột dừng lại khi vừa đạt
tới độ chín của tài năng. Ngày 23 tháng 1 năm 1989 Nguyễn Minh Châu trút
hơi thở cuối cùng tại viện quân y 108 Hà Nội, sau gần một năm chống chọi
với bạo bệnh, để lại nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ. Tác phẩm cuối
cùng - truyện vừa Phiên chợ Giát được hoàn thành ngay trên giường bệnh.

×